Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG bồi DƯỠNG học SINH GIỎI cấp TỈNH môn địa lí 11 ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.04 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang

I. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...2
1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………..2
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………… 3
3. Đối tượng nghiên cứu ………………………………………………………...3
4. Phương pháp nghiên cứu ……….………………………………………….3
II. NỘI DUNG…………………………………………………………………...3
1. Cơ sở lý luận của vấn đề….……………………………………………………….3
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………………..5
3. Giải pháp thực hiện………………………………………………………………..6
3.1. Thành lập đội tuyển……………………………………………………………...6
3.1.1. Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển HSG môn Địa lí……………6

3.1.2. Giúp đỡ, động viên, khuyến khích các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp
thời………………………………………………………………………………….7
3.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một cách khoa học,
đúng hướng và có hiệu quả………………………………………………………….7
3.2.1. Xây dựng chương trình ………………………………………………………7

3.2.2. Một số yêu cầu đối với học sinh trong quá trình ôn tập ………………………8
3.3. Rèn luyện kỹ năng tự học, đọc tài liệu, khai thác kiến thức …………………….9
3.4. Coi trọng khâu ra đề, đáp án và chấm chữa, rèn luyện kỹ năng làm bài cho HS ..10
3.4.1. Ra đề và đáp án ………………………………………………………….10

3.4.2. Chấm, chữa, sửa lỗi và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh ……….12
3.5. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng …………………………….13
3.6. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh …...14
3.7. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh ……………………………...14 3.8.
Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường .15 III.


KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHI ……………………………………..15 1.
Kết luận …………………………………………………………………….…..15

2. Đề xuất, kiến nghị ………………………………………………………………16
2.1. Đối với Sở Giáo dục và đào tạo ……………………………………………… 17
2.2. Đối với các trường THPT ……………………………………………………..17

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ở nước ta hiện nay, vấn đề chất lượng dạy học nói chung, dạy học địa lý nói
riêng ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà sư phạm cũng như các
nhà quản lý giáo dục và xã hội. Vì vậy Đảng, Nhà nước đã khẳng định:"Giáo dục là
quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển ", điều đó được
thể hiện trong các nghị quyết của Trung ương: “Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là
nguồn nhân tài cho đất nước được các nhà trường THPT đặc biệt quan tâm và mọi
giáo viên phổ thông đều có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi”. Việc tổ
chức bồi dưỡng học sinh giỏi và thi học sinh giỏi nhằm: “Động viên khích lệ những
học sinh và giáo viên trong dạy và học, góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao
chất lượng giáo dục, đồng thời phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi
dưỡng ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước”.
Như vậy, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề cần thiết và cấp bách, bởi
vì hơn lúc nào hết đất nước đang cần những con người tài năng đón đầu tiếp thu
những thành tựu khoa học mới, công nghệ hiện đại để phát minh ra những sáng
kiến đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hội nhập đất nước hiện nay. Bồi
dưỡng học sinh giỏi ở bậc THPT là phát huy hết khả năng phát triển “tiềm tàng”
của học sinh. Mặt khác, kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể
thiếu để đánh giá năng lực chuyên môn của giáo viên và sự phát triển của các nhà

trường, mỗi học sinh giỏi không chỉ là niềm tự hào của cha mẹ, các thầy cô giáo mà
còn là niệm tự hào của cả cộng đồng.
Thực tế hiện nay ở các trường THPT, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, trong
đó có việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí lớp 11 đã được chú trọng, song vẫn
còn những bất cập nhất định như: nội dung giảng dạy cho học sinh giỏi sơ sài hoặc
quá cồng kềnh, phương pháp giảng dạy còn chưa phù hợp, chưa tìm ra được hướng
đi cụ thể cho việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh... Thêm nữa, công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ thường xuyên của giáo viên dạy địa lí ở nhiều
trường THPT hàng năm, nhưng chủ yếu mỗi giáo viên đều tự sưu tầm tài liệu, tự
soạn nội dung và định hướng cho mình phương pháp giảng dạy riêng chứ chưa có
các chuyên đề chuyên sâu về nội dung và phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi. Từ
những bất cập trên dẫn đến hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi ở một số trường chưa
đạt được kết quả như mong muốn, kết quả đạt được chưa bền vững.
2


Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí
lớp 11 ở cấp THPT? Làm thế nào để người giáo viên Địa lí có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị của mình, đồng thời góp phần giúp học sinh tham gia đội tuyển
thỏa mãn niềm đam mê của các em với môn học này?
Với những lý do như trên, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí 11 ở trường THPT”.
Đề tài vừa mang ý nghĩa về mặt lí luận đồng thời cũng có ý nghĩa thực tiến
trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí 11 ở trường THPT” tôi mong
muốn góp một tiếng nói giúp giáo viên, học sinh, phụ huynh thấy được tầm quan
trọng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lí
nói riêng.

Trong sáng kiến, tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm, giải pháp của bản
thân trao đổi cùng quý thầy cô đồng nghiệp, mong được các thầy cô tham khảo,
nhận xét, góp ý, bổ sung để nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy, bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Địa lí 11 ở trường THPT hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này tôi đã sử dụng đối tượng nghiên cứu là các đội tuyển học sinh giỏi
cấp tỉnh, trong đó năm học 2016 – 2017 tôi đã áp dụng đối với đội tuyển học sinh
giỏi môn Địa lí lớp 12, năm học 2017 – 2018 và năm học 2018 - 2019 2017 tôi đã
áp dụng nghiên cứu đối với đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí lớp lớp 11 ở trường
THPT Hậu Lộc 3.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
- Phương pháp quan sát, phỏng vấn, trao đổi với học sinh.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
3


Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí trong các năm qua, tôi thấy
rằng vấn đề quan trọng là giáo viên bồi dưỡng cần có quan niệm đúng về học sinh
giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lí nói riêng. Bên cạnh đó cần trả lời cho
câu hỏi “việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm mục tiêu gì?” để từ đó người giáo viên
bồi dưỡng lựa chọn nội dung, chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho
thích hợp và đạt kết quả cao nhất.
Theo Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Viết Thịnh, giảng viên khoa Địa lí trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, người được ví như “một trong những con chim đầu đàn” của
ngành khoa học Địa lí kinh tế- XH Việt Nam và cũng là người có nhiều năm tham
gia ra đề cho các trường đại học, cao đẳng, thi học sinh giỏi địa lí cho rằng “Học

sinh giỏi môn Địa lí chỉ cần học thuộc là chưa đủ, chưa chính xác và Địa lí là môn
khoa học có đối tượng nghiên cứu phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lí
không chỉ phân bố trên bề mặt trái đất mà cả không gian và trong lòng đất. Hơn
nữa, các hiện tượng đó ở đâu và bao giờ cũng phát sinh, tồn tại và phát triển một
cách độc lập nhưng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì vậy, người dạy và
học địa lí cần có phương pháp tư duy, phân tích, nhận xét các hiện tượng địa lí theo
quan điểm hệ thống ”.
Với quan điểm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lí là những
học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận dụng được
những hiểu biết, những kĩ năng địa lí để giải quyết những nội dung cơ bản theo yêu
cầu của đề bài, của thực tiễn cuộc sống và học sinh giỏi là những học sinh có năng
lực độc lập suy nghĩ, vận dụng tốt những kiến thức, kĩ năng chắc chắn về địa lí.
Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, có nhiều mục tiêu khác nhau tùy theo
quan điểm của mỗi giáo viên và tùy theo môn học nhưng dù quan niệm như thế nào
chung quy lại có những điểm tương đồng.
- Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi địa lí nói riêng nhằm phát
triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của học sinh.
- Bồi dưỡng sự lao động và làm việc một cách sáng tạo.
- Phát triển các phương pháp, kĩ năng và thái độ tự học suốt đời.
- Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
- Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, giáo dục
tình yêu quê hương đất nước.
Với những mục tiêu đó, chúng ta cũng thấy rằng việc bồi dưỡng học sinh
giỏi hiện nay phần lớn giáo viên ít nhiều đã đáp ứng tương đối đầy đủ sáu mục tiêu
trên. Điều này đã được minh chứng qua kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo
4


viên và những em đạt giải học sinh giỏi là những em hội tụ đầy đủ các mục tiêu

trên.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và môn Địa lí nói riêng được các
trường chú trọng. Có sự chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện về mặt thời gian, cơ sở vật
chất, kinh phí cho hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, có chế độ khen thưởng kịp
thời đối với học sinh cũng như các giáo viên có học sinh đoạt giải. Đó là nguồn
động viên lớn đối với thầy - trò, tạo môi trường thuận lợi cho giáo viên tiến hành
hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi và các em học sinh được thỏa mãn niềm đam mê
với bộ môn khoa học mà mình lựa chọn.
Tuy nhiên, nhiều phụ huynh không ủng hộ con em mình thi học sinh giỏi vì
cho rằng đi ôn thi tốn nhiều thời gian, công sức mà chưa chắc đã đạt giải, nên
thường yêu cầu con em mình không tham gia thi học sinh giỏi để tập trung ôn thi
Đại học. Đặc biệt, đối với môn Địa lí, trong xu hướng chung của dư luận xã hội
những năm gần đây coi đó là môn phụ, phụ huynh cũng ngần ngại hoặc trốn tránh
thi học sinh giỏi môn Địa lí. Học sinh cũng không đầu tư nhiều quỹ thời gian cho
môn Địa lí. Khối lượng kiến thức môn Địa lí, nhất là khối lượng kiến thức dành
cho thi học sinh giỏi khá nặng và dàn trải dễ gây chán nản, mệt mỏi cho cả giáo
viên và học sinh.
Giáo viên phụ trách đội tuyển ở các trường đều phải tự mày mò, nghiên cứu
dựa trên các tài liệu tự mua trên thị trường và một số ít tài liệu có trong thư viện các
đơn vị. Bởi vì, mặc dù đã có một số cuốn sách viết về việc bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Địa lí nhưng cũng chỉ là tài liệu tham khảo ở mức độ nhất định và giáo viên
không thể dựa hoàn toàn vào một cuốn sách nào mà buộc phải tự nghiên cứu, tổng
hợp kiến thức để từ đó lựa chọn được các nội dung tối ưu nhất từ nhiều nguồn tài
liệu khác nhau và tự định hướng được phương pháp dạy học phù hợp theo quan
điểm của cá nhân.
Vì vậy, để học sinh yêu thích môn Địa lí, hứng thú học địa lí và tham gia học
lớp bồi dưỡng học sinh giỏi đi thi đạt hiệu quả, giáo viên phải không ngừng tìm tòi,
nghiên cứu tài liệu, lựa chọn các nội dung và phương pháp phù hợp. Đặc biệt, nếu
các giáo viên tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có sự đầu tư, tổng kết các

nội dung, phương pháp mình đã thực hiện trong năm học để trao đổi, chia sẻ cùng
đồng nghiệp và giúp các em học sinh có thêm một tài liệu tham khảo thì thực sự đó
sẽ là những nguồn tài liệu và kinh nghiệm vô cùng quý báu và chắc chắn nếu việc
làm này được thực hiện thường xuyên, kết quả thi học sinh giỏi môn Địa lí sẽ tăng
lên đáng kể.
5


Do đó, việc nghiên cứu và những đề xuất của sáng kiến kinh nghiệm “Một
số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn
Địa lí 11 ở trường THPT” là hiệu quả, thiết thực, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ
của ngành, của bản thân, của đồng nghiệp và học sinh yêu thích bộ môn Địa lí.
3. Giải pháp thực hiện
Trong quá trình thực hiện tôi chú trọng vào các giải pháp cơ bản sau đây:
3.1. Thành lập đội tuyển
3.1.1. Phát hiện, lựa chọn và tổ chức thành lập đội tuyển HSG môn Địa lí
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi người thầy đóng vai trò quan trọng
nhưng học sinh là yếu tố quyết định sự thành công. Thông thường những em có tố
chất thông minh, học lực khá - giỏi bao giờ cũng đăng ký học khối A. Ngoài ra xu
thế hiện nay, học sinh học theo ban xã hội ngày càng ít và thậm chí không có. Vậy
làm thế nào để học sinh say mê, thích học môn Địa lí? Điểm xuất phát phải bắt đầu
từ người thầy. Thầy phải thực sự coi bộ môn mình dạy như cái nghiệp của mình để
chuyên tâm gắn bó và sáng tạo không ngừng. Ngoài năng lực truyền thụ tri thức lí
luận khoa học, thầy phải nhập vai là minh chứng sống động trong thực tiễn để học
sinh thấy được sự thú vị cũng như ý nghĩa của bộ môn có tính định hướng và tính
giáo dục cao. Niềm say mê ấy phải được bộc lộ qua từng bài giảng, trong từng câu
chuyện đời thường và giải quyết những tình huống xảy ra trong thực tế cuộc sống.
Vì thế tôi nhận thấy, giáo viên dạy đội tuyển môn Địa lí phải là người
truyền được “lửa” cho học sinh. Tức là phải khơi dậy ở các em sự yêu thích môn
học, niềm tin và lòng say mê để các em tự giác tham gia với động cơ đúng đắn và

có quyết tâm thi đạt kết quả cao. Có thể nói, đây là khâu quan trọng nhất tác động
đến tâm lý học sinh thực sự có hiệu quả vì nó quyết định việc các em sẽ học và thi
như thế nào. Để làm được điều này, theo tôi giáo viên vừa đóng vai trò là người
thầy đồng thời cũng là người bạn lớn của các em, để phân tích và chỉ ra cho các em
thấy được những lợi thế khi tham gia đội tuyển học sinh giỏi.
Để đội tuyển học sinh giỏi đạt được kết quả như mong muốn, trước hết
người thầy phải đảm bảo được những nội dung, kiến thức cơ bản của chương trình
chính khóa.
Trong quá trình dạy trên lớp tôi thường ra đề kiểm tra theo hướng mở hoặc
đưa ra những câu hỏi, bài tập nhận thức để khuyến khích học sinh có sự đầu tư,
sáng tạo khi trả lời trước tập thể lớp hay viết trong làm bài và thưởng điểm cho
những học sinh biết cách làm bài đúng theo yêu cầu và có sáng tạo. Tôi tiến hành
chọn những học sinh có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề nhanh, đúng bản
chất của các hiện tượng địa lí. Trong bài viết, tôi đặc biệt chú ý những bài học sinh
6


trả lời đúng yêu cầu thể hiện nắm vững kiến thức, trình bày, lập luận logic, kết hợp
chữ viết rõ ràng, nếu viết đẹp càng tốt.
Vì vậy không phải đến lớp 11, mà ngay khi dạy ở đầu năm lớp 10, tôi tìm
hiểu qua hồ sơ của học sinh ở bậc THCS để chú ý những em đã từng tham gia đội
tuyển HSG ở bậc học trước hoặc qua các bài kiểm tra trong học kì I, II ở lớp 10
phát hiện học sinh có năng khiếu, có sự yêu thích học Địa lí tôi trực tiếp gặp các em
để tìm hiểu tâm lý, khơi dậy ở học sinh niềm đam mê, động viên các em tham gia
vào đội tuyển để bồi dưỡng.
Bên cạnh đó, tôi còn gặp các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm thăm
hỏi tình hình học tập của các em để chọn ra những học sinh có năng lực, có tố chất
thông minh và chăm học. Học sinh đó phải học khá các môn khác, nhất là môn
khoa học tự nhiên vì môn Địa lí cũng cần ở học sinh khả năng phân tích, tư duy
logic.

Vậy vấn đề đặt ra là cần phải phát hiện những học sinh có khả năng giỏi Địa
lí từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng từ lớp nào? Trên thực tế, có nhiều trường khi
chuẩn bị thi học sinh giỏi cấp tỉnh mới tập trung học sinh để ôn luyện, nhưng theo
tôi việc phát hiện và chọn học sinh giỏi phải làm sớm; tổ chức bồi dưỡng phải
thường xuyên, không nhất thiết phải thi để vào các lớp bồi dưỡng mà ở các tiết học,
các môn học các em cần phải quan tâm, được uốn nắn và phát hiện.
3.1.2. Giúp đỡ, động viên khích lệ các em trong đội tuyển thường xuyên, kịp thời
Tham gia ôn luyện đội tuyển là quá trình nỗ lực bền bỉ và gắn bó giữa cô và
trò, vì thế trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên phải thực sự là người có “Tâm” với
học sinh đội tuyển của mình. Sự quan tâm đó không chỉ dừng lại ở thái độ, lời nói,
kiến thức, kinh nghiệm truyền đạt cho các em mà còn bằng tất cả tấm lòng, không
đơn thuần là tình thầy trò mà như một người thân thực sự của các em. Vì thế, các
em sẵn sàng chia sẻ với tôi về mọi vấn đề trong cuộc sống. Tôi thường đến thăm
gia đình học sinh trong đội tuyển vào các dịp nghỉ lễ, sinh nhật… đặc biệt hiện nay
giáo viên có thể trao đổi cởi mở với học sinh qua mạng xã hội để hiểu được tâm tư
nguyện vọng của các em. Nhờ vậy, nhiều học sinh, phụ huynh đã cảm nhận được
sự tận tâm của cô đối với học trò đã luôn động viên khích lệ các em để các em tập
trung học tập và thi đạt kết quả cao.
3.2. Xây dựng kế hoạch, sử dụng phương pháp bồi dưỡng đội tuyển một cách
khoa học, đúng hướng và có hiệu quả
3.2.1. Xây dựng chương trình:
Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường. Vì ở
lớp ta dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng (khá giỏi, trung bình và yếu
7


kém). Song dạy cho học sinh giỏi là ta dạy để đưa các em đi thi. Đối tượng dự thi
đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận thức. Vì vậy, việc xây dựng nội dung
chương trình là hết sức cần thiết. Đây là công việc quan trọng sau khi thành lập đội
tuyển. Tôi xây dựng chương trình – kế hoạch bồi dưỡng theo từng chuyên đề cụ thể

như sau:
1. chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng thực hành
Tôi đặc biệt chú ý đến các kĩ năng biểu đồ. Trong chuyên đề này học sinh
cần nắm được kĩ năng lựa chọn biểu đồ, cách phân tích bảng số liệu thống kê, cách
nhận xét, cách giải thích.
Học sinh cần phân biệt 5 dạng biểu đồ
- Biểu đồ hình cột
- Biểu đồ đường
- Biểu đồ kết hợp cột và đường
- Biểu đồ tròn
- Biểu đồ miền
1. Phần Địa lí đại cương (chương trình địa lí lớp 10).
Trong phần này tôi chia 3 chuyên đề sau:
- Chuyên đề: Địa lí tự nhiên đại cương (Trái đất và các quyển của trái đất)
- Chuyên đề: Địa lí dân cư thế giới
- Địa lí các ngành kinh tế
2. Phần Địa lí kinh tế - xã hội thế giới (chương trình địa lí lớp 11).
Trong phần này tôi chia 2 chuyên đề sau:
- Chuyên đề: Khái quát nền kinh tế - Xã hội thế giới
- Chuyên đề
* Soạn hệ thống câu hỏi và bài tập địa lí (chú trọng bài tập nâng cao) để
luyện tập cho mỗi phần dạy.
Ngoài ra, tôi tập trung biên soạn các chuyên đề nâng cao trong chương trình
để bổ sung kiến thức cho học sinh khi bồi dưỡng.
Sau khi dạy xong một chuyên đề, một bài nào đó, tôi yêu cầu học sinh phải
dành một khoảng thời gian để suy nghĩ, nhìn nhận vẫn đề đó, đặc biệt cần phải tìm
ra được mối quan hệ nhân- quả của các hiện tượng địa lí.
Theo tôi, để một học sinh được tham gia dự thi HSG môn Địa lí các cấp học
sinh đó phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Địa lí – Kiến thức cơ bản ở
đây không chỉ là những hiện tượng đơn lẻ mà phải bao gồm hệ thống những hiểu

biết cần thiết về những hiện tượng, biểu hiện, nguyên nhân, kết quả.
3.2.2.Một số yêu cầu đối với học sinh trong quá trình ôn tập
8


- Phải nắm vững toàn bộ chương trình. Đây là yêu cầu đầu tiên và quan trọng
nhất, vì các đề thi học sinh giỏi chỉ xoay quanh chương trình địa lí phổ thông
(chương trình địa lí lớp 10 và 11).
- Nắm vững sách giáo khoa kết hợp với sách tham khảo và cập nhật các tin
tức thời sự. Trong đó, sách giáo khoa là tài liệu ôn tập chính, vì người ra đề thi
buộc phải bám sát chương trình bộ môn được thể hiện cụ thể qua nội dung sách
giáo khoa. Tuy nhiên, để ôn tập và làm bài thi đạt kết quả tốt, ngoài sách giáo khoa
cần tham khảo thêm các tài liệu khác. Có như vậy, bài thi mới thể hiện được kiến
thức mở rộng, biết liên hệ thực tế và đạt được kết quả cao. Song cần lưu ý, phải biết
chọn lọc tài liệu tham khảo và có phương pháp đọc khoa học, tránh tham lam, ôm
đồm, đọc nhiều, học nhiều, đưa nhiều kiến thức không trọng tâm làm bài thi trở nên
lan man, dàn trải.
- Không được học tủ (chỉ ôn những phần được cho là quan trọng, không ôn
những phần khác), vì học sinh học tủ sẽ không thể có cái nhìn khái quát, toàn diện
và hệ thống về các vấn địa lí; thêm nữa, đề thi có thể ra vào những phần không ôn
tập dẫn đến kết quả bài làm không cao.
- Nội dung ôn tập cần được sắp xếp theo từng vấn đề, từ khái quát đến cụ thể,
từ địa lí đại cương đến khu vực rồi mới đến quốc gia. Trong trình bày bài địa lí
cũng vậy, trình bày theo kiểu diễn dịch, khái quát trước, cụ thể sau. Nhất là phần
nhận xét biểu đồ bao giờ cũng phải đưa ra cách nhìn khái quat diễn biến chung của
bảng số liệu rồi mới cụ thể từng giai đoạn.
- Ngoài có kiến thức đúng, đủ, rộng, sâu, cần phải biết trình bày tốt. Một bài
thi tốt luôn phải đảm bảo cả về mặt nội dung và hình thức.
+ Về nội dung, cần đảm bảo đúng và đủ. Đúng là sự chính xác về kiến thức,
không nhầm lẫn giữa hiện tượng địa lí này với hiện tượng địa lí khác. Đủ là không

thừa, không sót kiến thức cơ bản. Đây là vấn đề có liên quan đến việc lựa chọn kiến
thức, tránh qua loa, đại khái, nhưng cũng tránh đi vào chi tiết, vụn vặt.
+ Về hình thức, thể hiện ở các ý được trình bày sao cho có trình tự hợp lý,
lôgíc, có trước, có sau, sử dụng câu từ dễ hiểu, đúng ngữ pháp, chữ phải dễ đọc, đủ
nét, không viết hoa, viết tắt bừa bãi.
3.3. Rèn luyện kỹ năng tự học, đọc tài liệu, khai thác kiến thức cho học sinh
Giáo viên cần nhấn mạnh và giúp học sinh hiểu rõ kết quả các bài thi chủ yếu
là do quá trình tự ôn tập, tự nghiên cứu của các em quyết định, giáo viên chỉ là
người định hướng, giúp đỡ. Điều này cũng phù hợp với tinh thần đổi mới phương
pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm hiện nay. Do đó, học sinh cần phải có thái
độ và hành vi học tập tích cực, chủ động tự học, tự nghiên cứu để lĩnh hội kiến
9


thức, phát huy tính sáng tạo trong việc học tập ngay từ đầu. Có như vậy, các em
mới biến được các kiến thức trong sách giáo khoa, sách tham khảo và các kiến thức
do thầy cô hướng dẫn thành kiến thức của mình; đồng thời, có khả năng xử lý
thông minh các dạng câu hỏi khác nhau, các yêu cầu khác nhau trong đề thi. Rèn
luyện kỹ năng tự học là con đường mà người giáo viên đưa học sinh của mình đến
với chân lý khoa học bằng chính hoạt động của họ. Nó giúp học sinh đào sâu, củng
cố kiến thức và phát triển toàn diện cho các em. Kỹ năng tự học cũng là công cụ
thiết yếu để các em có thể học tập suốt đời.
Năng lực tự học là năng lực tự mình chiếm lĩnh kiến thức địa lí một cách có
hiệu quả dưới sự điều khiển, hướng dẫn của thầy. Đó là: kỹ năng tự làm việc với
sách giáo khoa địa lí, kỹ năng tự làm việc với sách tham khảo dưới sự hướng dẫn
của giáo viên, kỹ năng nghe giảng kết hợp với tự ghi chép, kỹ năng phát hiện và
giải quyết vấn đề, kỹ năng tự kiểm tra đánh giá…
Nắm toàn bộ chương trình, từng chuyên đề bằng cách nắm các kiến thức cơ
bản. Nội dung kiến thức cơ bản rất nhiều, không thể ghi nhớ hết. Vì vậy, phải biết
chọn những kiến thức tối ưu, không thể thiếu được trong một bài, một chuyên đề.

Sau khi học sinh đã nắm vững kiến thức cơ bản, giáo viên cần giúp các em
có cái nhìn khái quát nhất. Đây là việc làm quan trọng vì khái quát hóa sẽ giúp các
em hình dung được toàn bộ chương trình, nắm được kiến thức một cách hệ thống,
toàn diện và có khả năng làm các câu hỏi tổng hợp một cách nhanh nhất, linh hoạt
nhất.
3.4. Coi trọng khâu ra đề, ra đáp án, chấm chữa và rèn luyện kỹ năng làm bài
cho học sinh
3.4.1. Ra đề và đáp án
Để rèn luyện kỹ năng làm bài cho HS, giáo viên cần hiểu đây là một công
việc không dễ, đòi hỏi nhiều thời gian công sức của cả thầy và trò mới đem lại kết
như mong muốn. Bởi đa số các em sau khi được chọn vào đôị tuyển thì điểm yếu
nhất đó chính là kỹ năng làm bài. Vì thế giáo viên chỉ nói hoặc nhắc nhở thôi thì
chưa hẳn các em đã hiểu và khắc phục được. Do đó cần phải có thời gian kiểm định
qua các bài kiểm tra viết mới thấy được sự tiến bộ rõ rệt của từng em.
Để việc luyện tập có hiệu quả và học sinh không thấy chán, tôi đã chuẩn bị
nguồn đề, như sau :
- Các đề thi học sinh giỏi tỉnh các năm trước.
- Đề thi học sinh giỏi các tỉnh khác sưu tầm qua đồng nghiệp hoặc truy cập
trên mạng.
- Nguồn đề Olimpic các năm.
10


- Đề tôi soạn cho các em từ các nguồn tư liệu và bám sát SGK, theo cấu trúc
đề thi HSG của Sở GD&ĐT - Sử dụng các câu hỏi khó trong tài liệu chuẩn kiến
thức kỹ năng, sách giáo khoa¸ sách bồi dưỡng, biên soạn các câu hỏi phải giải thích
suy luậnch… đòi hỏi học sinh phải hiểu vấn đề mới làm được.
- Muốn có nguồn tư liệu đó, trong nhiều năm qua tôi phải sưu tầm tài liệu,
bảo quản có hệ thống các đề thi, các kiến thức mới trong mỗi đề thi và các nội dung
khác mình thu thập được qua đồng nghiệp, qua các đợt tập huấn, đóng thành tập

lưu trữ để tạo nguồn tư liệu cho bản thân.
Trong quá trình thực hiện tôi luôn chú ý cách ra đề sao cho có hiệu quả và
gây được hứng thú cho học sinh. Mỗi đề thi đều phủ khắp kiến thức của chương
trình đã học và có cấu trúc như một đề thi chính thức.
Trong quá trình ôn tập, cùng một vấn đề nhưng giáo viên cần đưa ra nhiều
dạng câu hỏi khác nhau để rèn cho học sinh có khả năng xử lý linh hoạt các yêu
cầu của đề đưa ra
Ví dụ: Cùng xoay quanh vấn sự phân bố nhiệt độ, lượng mưa trên Trái đât
(phần địa lí tự nhiên chương trình lớp 10), tôi có thể ra đề theo nhiều cách khác
nhau:
Cách 1: Hỏi trực tiếp: Em hãy trình bày sự phân bố lượng mưa trên Trái đất?
Cách 2: hỏi sâu: đòi hỏi học sinh phải biết tư duy tổng hợp kiến thức từ nhiều bài
khác nhau.
- Chứng minh sự phân bố lượng mưa theo quy luật địa đới? Giải thích sự phân
bố đó?
- Chứng minh sự phân bố lượng mưa theo quy luật phi địa đới? Giải thích sự
phân bố đó?
* Với cách 1: Học sinh chỉ cần nhớ lại kiến thức sách giáo khoa có thể trình bày
được, sự phân bố lượng mưa không đều theo vĩ độ địa lí và không đều do ảnh
hưởng của đại dương.
* Với cách 2: Học sinh cần đảm bảo 3 yêu cầu sau
Yêu cầu 1: Học sinh cần nắm được sự phân bố lượng mưa trên trái đất không
đều theo vĩ độ địa lí, không đều do ảnh hưởng của đại dương (Kiến thức bài 13
mục III), lượng mưa thay đổi theo độ cao địa hình, thay đổi theo bờ Đông và bờ
Tây (kiến thức từ những nhân tố ảnh hưởng tới lượng mưa). Không đều bán cầu
Bắc và bán cầu nam (kiến thức suy luận từ bảng số liệu thống kê do giáo viên cung
cấp).

11



Yêu cầu 2: Học sinh phải nắm được bản chất của quy luật địa đới, quy luật
phi địa đới để có thể sắp xếp kiến thức vào từng câu hỏi sao cho không bỏ sót kiến
thức làm mất điểm, đồng thời không đưa thừa kiến thức dẫn tới bài viết lan man.
Yêu cầu 3: Học sinh cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng đến lượng mưa để
giải thích được nơi nào mưa nhiều, nơi nào mưa ít.
Tóm lại, để rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh cần thực hiện tốt 3 bước
cơ bản sau:
- Bước 1: Yêu cầu học sinh phải xác định được dạng đề bài và yêu cầu của từng
câu hỏi, kể cả các dạng câu hỏi ẩn thì học sinh phải biết phân tích đề để tránh lạc
đề.
- Bước 2: Yêu cầu học sinh lập dàn ý sơ lược cho từng câu hỏi trong đề thi, tránh
thiếu ý khi làm bài.
- Bước 3: Yêu cầu học sinh lập dàn ý chi tiết cho đề thi và hướng dẫn cách viết cho
từng dạng câu hỏi, xây dựng bố cục toàn bài theo cách phổ biến nhất đó là phương
pháp diễn dịch hoặc theo kết cấu: tổng - phân - hợp để bài làm sâu sắc và phong
phú hơn.
* Một lưu ý nữa trong quá trình ra đề là trong mỗi đề kiểm tra, tôi luôn đảm
bảo cấu trúc 40% kiến thức từ những phần đã học, 40% kiến thức phải suy luận,
tổng hợp trên nền tảng kiến thức đã học và 20% nâng cao.
3.4.2. Chấm, chữa, sửa lỗi và rèn luyện kỹ năng làm bài cho học sinh
Cách 1: Ngay sau khi làm bài kiểm tra, tôi yêu cầu các em về nhà phải làm
được đề cương đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết tới 0.25 điểm cho từng ý, từng
câu, từ đó tự chấm xem bài của mình sẽ được mấy điểm. Điều này sẽ giúp các em
cách xác định đáp án cũng như tiến trình trong bài kiểm tra để tránh lạc đề hoặc
thiếu ý.
Cách 2: Trước khi trả bài kiểm tra, tôi phát đáp án chuẩn đã làm và phân công
các em đóng vai trò là giáo viên để chấm bài cho bạn, tôi yêu cầu các em không
trao đổi thảo luận để đảm bảo tính khách quan, mỗi bài sẽ đựợc 2 em chấm độc lập,
có nhận xét chi tiết ưu, nhược điểm của từng bài. Qua đó, giúp các em tự rút kinh

nghiệm cho mình, ngoài ra có thể so sánh bài làm, cách chấm của mình với các
bạn. Cuối cùng tôi công bố điểm để các em tự đối chiếu.
Sau mỗi bài kiểm tra, kể cả các bài kiểm tra tại lớp từ 15 phút trở lên tôi đều
rất chú trọng và quan tâm đến các em trong đội tuyển để chấm và sửa lỗi cẩn thận
chi tiết cho các em, nhận xét vào bài của các em từ lỗi chính tả cho đến cách dùng
từ, đặt câu, cách diễn đạt…
12


Để thúc đẩy các em làm bài tích cực, có hiệu quả và nộp bài đúng hạn, giáo
viên phải giữ đúng hẹn giao đề, chấm bài, trả bài để các em biết kết quả và kịp thời
rút kinh nghiệm. Nhưng nếu chỉ chấm chữa thôi thì chưa đủ vì bài làm của các em
thường rất lủng củng, không biết cách diễn đạt, chuyển ý, viết dài dòng và lan man.
Vì vậy, sau khi chấm chữa kỹ lưỡng, tôi đều phát đáp án chi tiết và yêu cầu các em
sau khi xem bài rút kinh nghiệm những sai sót thì phải học thuộc đáp án. Khi trả
bài tôi dành thời gian nhất định để nhận xét cụ thể ưu, nhược điểm của từng em. Có
những em tôi đã phải chữa và gạch đỏ cả bài. Mục đích là rèn luyện cho các em
cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề, kết luận trong bài như thế nào. Và yêu cầu các
em về nhà làm lại và khắc phục ngay nhược điểm đó, hôm sau tôi thu lại kiểm tra
để thấy được sự tiến bộ của các em.
Trong các buổi ôn luyện hàng tuần, ngoài hình thức kiểm tra viết, tôi còn tiến
hành kiểm tra vấn đáp các em đối với mảng kiến thức cần phải thuộc nhớ, qua đó
đánh giá thực lực của các em, đồng thời có thể giải đáp những thắc mắc mà các em
đưa ra…
3.5. Phân loại học sinh trong quá trình bồi dưỡng
Đây là khâu khá quan trọng trong quá trình bồi dưỡng vì có phân loại được
học sinh thì giáo viên mới có thể có phương pháp phù hợp với khả năng của từng
em và các em mới có khả năng đạt được kết quả như mong muốn. Sau đó lập bảng
theo dõi ghi chép cẩn thận vào sổ (Nhật ký dạy đội tuyển) của mình để chỉ cho các
em thấy được các em đã khắc phục nhược điểm ở những bài sau như thế nào.

Qua việc lập bảng theo dõi như trên giáo viên sẽ rút ra được lỗi thường gặp
phổ biến của các em để sau một thời gian nhất định sẽ kiểm tra lại để nắm được
mức độ tiến bộ của từng em.
Năm học 2018-2019 vừa qua, trong đội tuyển có em Ngô Văn Sơn, dù
được chọn bổ sung vào sau so với các bạn (giữa học kì 1 lớp 11), dù em có một
nhược điểm lớn đó là chữ viết xấu, nhưng tư duy nhanh, lôgic và đặc biệt là khả
năng nhớ và vận dụng rất tốt nên tôi đã quyết định cho em vào danh sách dự thi.
Tôi giao nhiệm vụ cho em từng bước phải cải thiện chữ viết và cách trình bày bài
của mình qua mỗi bài kiểm tra ở lớp cũng như ở nhà, tôi còn kiểm tra vở ghi trên
lớp thường xuyên để nhắc nhở em sửa lỗi. dần dần em đã khắc phục được nhược
điểm mặc dù chữ không đẹp nhưng trình bày sạch sẽ, gọn gang, kết quả em đạt 15
điểm trong kì thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh và đạt giải 3.
Từ thực tế đó tôi nhận thấy, phát hiện chính xác khả năng và phân loại
đúng học sinh càng sớm càng tốt. Phân loại học sinh chủ yếu dựa vào khả năng
quan sát, tiếp cận trong quá trình bồi dưỡng và giảng dạy trên lớp của giáo viên.
13


Ngoài ra, qua hệ thống trả lời câu hỏi vấn đáp trực tiếp hoặc bài kiểm tra viết. Đối
với những em có khả năng nhớ chậm, khái quát vấn đề còn hạn chế, giáo viên cần
khoanh vùng kiến thức và nhắc trước cho các em có sự chuẩn bị để các em có thể
tự tin trong quá trình học. Đối với học sinh có khả năng tư duy tốt, tôi sẽ đưa ra yêu
cầu cao hơn. Để đánh giá, theo dõi mức độ tiến bộ của các em, sau mỗi lần kiểm
tra, tôi căn cứ vào điểm để chia các em theo nhóm, thông thường là 3 đến 4 nhóm.
Chẳng hạn nhóm 1 là những em có số điểm cao nhất, ít nhược điểm. Nhóm 2, 3, 4
tương tự như vậy xét theo điểm từ cao xuống thấp. Đồng thời lập bảng thống kê ghi
rõ ưu, nhược điểm của từng em qua bài kiểm tra. Qua việc lập bảng theo dõi như
trên, giáo viên sẽ rút ra được một số lỗi phổ biến thường gặp ở tất cả các em. Ngoài
ra, qua đó các em sẽ biết được mình đang ở vị trí nào để nỗ lực cố gắng nhiều hơn.
Tất nhiên, chỗ đứng của các em sẽ liên tục thay đổi qua các bài kiểm tra. Điều này

sẽ tạo được không khí thi đua lẫn nhau trong đội tuyển, đối với những em được xếp
ở tốp đầu phải thường xuyên cố gắng thì mới giữ được thứ hạng cao mà mình đã
có, còn một số em xếp cuối chắc chắn phải phấn đấu vươn lên.
3.6. Tăng cường trao đổi, giao lưu, lắng nghe ý kiến phản hồi từ học sinh
Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn tạo nhiều cơ hội cho học sinh được bày
tỏ ý kiến và trao đổi thông tin với giáo viên để từ đó biết được các em đang cần gì,
thiếu gì? Chẳng hạn, sau mỗi buổi học thỉnh thoảng tôi thường trao đổi với các em
rất thân mật gần gũi với các câu hỏi thăm dò như: Theo các em phương pháp dạy
của cô như thế được chưa, các em có hiểu không?..
Từ đó tạo cho các em tâm lý tin cậy, gần gũi mạnh dạn hơn để bày tỏ những
vấn đề còn băn khoăn vướng mắc.Giáo viên có thể làm được điều này bằng cách:
- Khích lệ học sinh suy nghĩ và đặt câu hỏi.
- Lắng nghe và trả lời ý kiến của các em, biểu dương những ý kiến có tính chất đổi
mới, sáng tạo.
- Tổ chức thảo luận theo nhóm nhỏ để các em có thể phát biểu ý kiến của mình.
- Kể những tấm gương tốt ở các đội tuyển năm trước cho các em nghe để học tập,
noi theo.
- Thường xuyên động viên khích lệ các em hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng ngày.
- Giao nhiệm vụ có tính chất thử thách để các em có động cơ phấn đấu.
3.7. Yêu cầu cao và giao nhiệm vụ cho học sinh
Căn cứ vào kết quả chia nhóm, xếp loại học sinh trong suốt quá trình bồi
dưỡng, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng em. Chẳng hạn, những em có kết quả làm
bài ổn định chắc chắn, xếp ở tốp 1 tôi yêu cầu khi đi thi các em phải đạt số điểm là
17 trở lên, tức là phải đạt giải cao. Để không tạo áp lực cho các em, tôi luôn làm
14


công tác tư tưởng, động viên khích lệ để các em hiểu: Mọi sự nỗ lực, cố gắng của
cả cô và trò do chính các em quyết định, vì thế cần phải có quyết tâm cao để chứng
minh rằng: Thi học sinh giỏi môn Địa lí không dễ và để đạt được kết quả cao như

các môn khác cũng là điều không đơn giản. Ngoài ra để động viên các em, tôi còn
treo giải thưởng cho em nào đạt hoặc vượt chỉ tiêu cô yêu cầu. Tất nhiên, không
phải em nào cũng được kết quả như mong muốn, nhưng ít nhất các em đã biết được
mục tiêu của mình là gì để bước vào kỳ thi với tâm lý tự tin và quyết tâm cao nhất.
3.8. Tranh thủ sự đồng thuận của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà
trường
Trong thực tế có người cho rằng, bồi dưỡng học sinh giỏi là trách nhiệm của
đồng chí giáo viên được nhà trường phân công. Điều đó chỉ đúng một phần nhất
định. Vì để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả cao phải có sự hỗ trợ đắc
lực của các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn, sự chỉ đạo sát sao của Ban
giám hiệu, sự quan tâm đồng tình, động viên khích lệ của phụ huynh học sinh và
các giáo viên trong trường tạo điều kiện giúp đỡ.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của trường THPT Hậu Lộc 3 trong những
năm gần đây liên tục đạt kết quả cao, trước hết là có đường lối chỉ đạo đúng đắn của
BGH nhà trường, sự quan tâm, tạo điều kiện thực sự cho giáo viên dạy đội tuyển. Đội
tuyển không phải do một cá nhân phụ trách mà giao trách nhiệm cho tổ trưởng chuyên
môn và các giáo viên khác cùng cộng đồng trách nhiệm, phối hợp dạy hỗ trợ lẫn nhau.
Để có sự đồng thuận và nhất trí giữa nhà trường và gia đình, sau khi học sinh làm đơn
xin tham gia đội tuyển chính thức, nhà trường tổ chức họp phụ huynh các đội tuyển để
trao đổi, từ đó sự quan tâm của phụ huynh được tăng lên. Đến ngày chuẩn bị đi thi,
nhà trường tổ chức gặp mặt các đội tuyển vừa để căn dặn vừa động viên giao nhiệm vụ
cho các em. Trong các buổi trao phần thưởng học sinh giỏi hàng năm, một thành phần
không thể thiếu trong buổi lễ đó là các bậc phụ huynh trong đội tuyển. Tất cả những
việc làm đó đều thể hiện rằng: Để có chất lượng học sinh giỏi thực sự vững bền trước
hết cần có sự đồng tâm của tập thể sư phạm nhà trường, sự nỗ lực của thầy và trò, sự
đồng thuận của phụ huynh học sinh.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
1. Kết Luận
Với những việc đã làm như trên đối chứng với cách làm trước đây, tôi đã thu
đựơc những kết quả rất khích lệ, đựơc lãnh đạo Sở, lãnh đạo nhà trường, đồng

nghiệp và các trường bạn ghi nhận. Góp một phần vào thành tích chung của nhà
trường trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm nay.
15


Có thể nói, sự kiên trì tận tâm và lòng nhiệt tình trong chuyên môn của bản
thân cùng với sự miệt mài chăm chỉ, nỗ lực của các em học sinh đã được đền đáp.
Bản thân tôi và các em trong đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lí không những được
nhà trường khen thưởng mà còn được cấp huyện vinh danh.
Thống kê số giải HSG

Năm học
2016 - 2017
2017- 2018
2018 - 2019

Số HS đạt
giải /Số
HS dự thi
3/5
4/5
5/5

Số HS đạt giải
Nhất Nhì Ba Khuyến
khích
0
0
1
2

0
0
2
2
0
1
4
0

Từ thực tiễn quá trình trực tiếp ôn tập và giảng dạy cho các em học sinh giỏi
môn Địa lí của trường THPT Hậu Lộc 3 tôi thấy:
- Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một mặt trận hết sức khó khăn, gian
truân, vất vả, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cả giáo viên và học sinh trong suốt
quá trình ôn luyện. Giáo viên và học sinh phải dồn tối đa thời gian, công sức, trí
tuệ, lựa chọn đúng, đủ nội dung, có các phương pháp dạy và học phù hợp thì mới
đạt hiệu quả.
- Đặc biệt, giáo viên phải luôn làm trọn trách nhiệm của một người “chỉ
đường” và phải truyền được nhiệt huyết của mình tới học sinh để biến quá trình
giáo dục thành quá trình “tự giáo dục”, tích cực, chủ động, tìm hiểu kiến thức của
các em.
- Muốn làm được điều đó, giáo viên phải có sự chuẩn bị thật công phu, kỹ
lưỡng cho mỗi giờ dạy, một cách toàn diện nội dung, phương pháp, các phương tiện
dạy học để đạt hiệu quả cao. Việc chuẩn bị bài học là công việc thường xuyên của
giáo viên, không thể xây dựng một giáo án để thực hiện trong suốt cuộc đời dạy
học mà không tính đến những điều kiện cụ thể của công tác giáo dục, đối tượng của
việc dạy học, sự phát triển của khoa học và những yêu cầu mới của đất nước trong
các giai đoạn khác nhau.
Mặc dù trong quá trình thực hiện tôi đã áp dụng 8 giải pháp trên nhưng chắc
chắn vẫn còn nhiều thiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
bạn đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.

2. Đề xuất, kiến nghị
16


- Địa lý là một trong những môn học chính ở trường trung học phổ thông, giúp
cho học sinh có nhiều hiểu biết về các vùng, miền Việt Nam, giúp các em thêm yêu
quê hương, đất nước.
2.1. Đối với Sở GD&ĐT:
- Cần có tài liệu hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi môn Địa lí để tạo điều kiện cho
giáo viên ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Hàng năm cần tổ chức các đợt hội thảo chuyên đề báo cáo kinh nghiệm về công
tác bồi dưỡng HSG để GV có điều kiện học hỏi lẫn nhau.
2.2. Đối với các trường THPT:
- Quan tâm, có chế độ ưu đãi thực sự xứng đáng đối với giáo viên bồi dưỡng đội
tuyển học sinh giỏi.
- Làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục để đầu tư nhiều hơn về điều kiện vật chất,
kinh phí cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong các nhà trường.
- Không ngừng yêu cầu giáo viên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực
chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy để phát huy tốt năng lực học
của trò và năng lực sư phạm của thầy.
Vì nội dung sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lí 11 ở trường THPT” là rất
thiết thực không chỉ có lợi cho giáo viên củng cố được phần nhiều kiến thức có hệ
thống mà nó còn gây hứng thú cho học sinh khi học địa lý.
Vậy tôi mong nhận được những ý kiến từ các thầy cô, hội đồng khoa học để
sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện và từ đó làm tài liệu tham khảo cho các
giáo viên giảng dạy địa lý trong toàn tỉnh.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 24 tháng 5 năm 2019
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


Tôi xin cam đoan SKKN này do tôi viết,
không sao chép của người khác bất cứ theo
hình thức nào.

Bùi Thị Lan
17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Bùi Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ phó chuyên môn
Trường THPT Hậu Lộc 3

TT

Tên đề tài SKKN
Sử dụng Atlats địa lí Việt Nam

Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở, loại (A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học

đánh giá
xếp loại

Cấp Sở

C

2005-2006

Cấp Sở

C

2010-2011

Cấp Sở

C

2013-2014

Cấp Sở

C

2016- 2017

1.

2.


3.

trong kiểm tra bài cũ địa lí 12
THPT
Sử dụng Atlats địa lí Việt Nam
trong giảng dạy địa lí 12 THPT
Sử dụng kĩ thuật “Mảnh ghép”
nhằm nâng cao hiệu quả dạy và
học địa lí 12 THPT

4.

“Sử dụng kĩ thuật “Mảnh ghép”
nhằm nâng cao hiệu quả dạy và
học bài đất nước nhiều đồi núi

(tiết 4,5) địa lí 12 THPT”
* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------

18



×