Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN một số bài tập phát triển sức mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh THPT vĩnh lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.82 KB, 13 trang )

MỘT SỐ BÀI TẬP PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH
NHẰM NÂNG CAO THÀNH TÍCH NHẢY CAO KIỂU "NẰM NGHIÊNG"
CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT VĨNH LỘC
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Thể dục Thể thao (TDTT) không những có vai trò quan trọng trong đời
sống của con người mà còn là một bộ phận của nền văn hóa xã hội. TDTT được
hình thành, phát triển trong thực tiễn lao động sản xuất và chiến đấu của nhân
loại. Nhận thức được vai trò của thể dục trong việc nâng cao sức khỏe con người
nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lao động sản xuất, Bác
Hồ đã đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp phát triển TDTT. Người nói: '...Mỗi
người dân yếu ớt làm cho cả nước yếu ớt đi một phần, mỗi người dân khỏe
mạnh làm cho cả nước khỏe mạnh. Vậy nên tập luyện thể dục bồi dưỡng sức
khỏe là nghĩa vụ của mỗi người dân yêu nước..."
Đáp ứng lời kêu gọi của Bác, từ đó đến nay phong trào tập luyện TDTT
quần chúng đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu trong mọi
tầng lớp nhân dân. Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đai hóa đất
nước, trong thời kỳ hội nhập quốc tế mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta lại càng
quan tâm tới việc nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục toàn
diện nhằm tạo ra con người mới đảm bảo các mặt: Đức - Trí - Thể - Mỹ. Trong
đó TDTT là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tác
dụng đào tạo một thế hệ trẻ phát triển cân đối có tri thức, có đạo đức, phát triển
toàn diện các tố chất thể lực, đảm bảo sức khỏe để làm cơ sở nâng cao năng xuất
lao động, trí sáng tạo góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.
Trong Nghị quyết số 29, Nghị quyết TW2 khóa VIII của Đảng đã đề ra
mục tiêu tổng quát cho giáo dục là: 'Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây
dựng, bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt
Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; yêu gia đình , yêu tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc
hiệu quả". Vậy để giáo dục học sinh phát triển toàn diện như mục tiêu Đại hội


Đảng đã nêu thì môn học GDTC nói riêng và các môn học khác nói chung trong
nhà trường phải được quan tâm bình đẳng như nhau. Thông qua bộ môn GDTC
bồi dưỡng cho học sinh đức tính dũng cảm, giúp các em có được các kiến thức
kỹ năng cơ bản trong tập luyện để giữ gìn sức khỏe, nâng cao thể lực góp phần
rèn luyện nếp sống lành mạnh tác phong nhanh nhẹn, tính kỷ luật vào quá trình
học tập sinh hoạt. Trong giáo dục thể chất điền kinh là nôi dung cơ bản là nền
tảng để phát triển các tố chất thể lực cho các môn thể thao khác. Trong đó nhảy
cao là một nội dung cơ bản để phát triển các tố chất thể lực. Song thành tích
nhảy cao của học sinh hiện nay còn thấp so với thể lực của các em và so với yêu
cầu của giáo dục thể chất.
1


Thấm nhuần quan điểm chỉ đạo của Đảng, sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hóa đã
chỉ đạo sát sao việc dạy-học môn GDTC nhằm nâng cao vai trò vị trí của môn
học trong các nhà trường. Ngoài ra sở đã tổ chức thi giáo viên giỏi, học sinh giỏi
TDTT; tổ chức Hội khỏe Phù đổng cấp tỉnh. Đó cũng là một tiêu chí bắt buộc
các nhà trường phải quan tâm nhiều hơn đến chất lượng dạy-học môn thể dục
của giáo viên và học sinh.
Nhằm thực hiện đảm bảo nội dung chương trình môn học do Bộ giáo dục
và Đào tạo quy định, các nhà trường hiện nay đã quan tâm đến điều kiện cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy học, xắp xếp thời khóa biểu hợp lý tạo điều kiện cho
thầy và trò hoàn thành tốt môn học. Trước yêu cầu đòi hỏi về năng cao chất
lượng dạy học thể dục trong các nhà trường trung học phổ thông (THPT) đã có
nhiều giáo viên bắt nhịp tốt và đổi mới phương pháp giảng dạy hiệu quả khi dạy
học đã đưa ra nhiều bài tập bổ trợ hợp lý góp phần nâng cao kết quả môn học.
Tuy nhiên, trong giảng dạy, vẫn còn một số thầy cô đổi mới phương pháp
chậm. Ngoài ra học sinh THPT đã có định hướng học theo ban, theo khối, các
em chỉ chú trọng học các môn văn hóa nên không chú trọng học thể dục dẫn đến
chất lượng hiệu quả chưa cao, nhất là đối với môn nhảy cao

Là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông, tôi luôn suy
nghĩ và trăn trở: làm thế nào để các em ham học và nâng cao hiệu quả môn Thể
dục nói chung cũng như môn nhảy cao nói riêng. Xuất phát từ lý do nêu trên, tôi
nghiên cứu và đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: " Một số bài tập phát triển sức
mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh
lớp 10 trường THPT Vĩnh Lộc". Sáng kiến này đã được tôi áp dụng vào thực tế
dạy học trong những năm học qua đạt hiệu quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu chương trình, nội dung kiến thức, phương pháp dạy học thể
dục, các biện pháp nâng cao chất lượng dạy môn nhảy cao cho học sinh.
Các biện pháp lựa chọn bài tập và một số bài tập phát triển sức mạnh trong
môn nhảy cao kiểu nằm nghiêng phù hợp với học sinh nhằm nâng cao hiệu quả
nhảy cao kiểu nằm nghiêng và giúp các em hoàn thành mục tiêu môn học.
Các phương pháp dạy học, bồi dương học sinh TDTT nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giảng dạy môn Thể dục ở nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh trường THPT Vĩnh Lộc năm học 2017-2018
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp kiểm tra đánh giá các tố chất, thể lực và kỹ thuật
- Phương pháp phân tích, tổ hợp số liệu, so sánh kết quả.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá...
- Đam mê nghiên cứu, lựa chọn bài tập chính xác.
2


2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận

Hoạt động TDTT là một trong những hình thức cơ bản để rèn luyện sức
khỏe, nâng cao thể lực phục vụ cho lao động và các hoạt động khác.
Trong môn thể dục có nhiều nội dung để nâng cao sức khỏe, thể lực cho
học sinh trong đó có nhảy cao. Nhảy cao là một hoạt động không có chu kì, đòi
hỏi người tập phải có đủ thể lực, kĩ thuật và tư duy thực hiện động tác. Trong
giảng dạy, việc hướng dẫn học sinh nắm bắt kĩ thuật là quan trọng, nhưng việc
tìm ra những hạn chế học thường mắc và nguyên nhân của nó rồi đưa ra các biện
pháp và bài tập để sửa chữa, khắc phục những hạn chế đó cũng quan trọng
không kém. Chính vì vậy trong quá trình dạy học, việc tìm ra các biện pháp, các
bài tập giúp học sinh nâng cao kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng cho học sinh
THPT là rất cần thiết. Để nâng cao chất lượng này, trước tiên người dạy phải
nắm vững kĩ thuật của 4 giai đoạn: Chạy đà, giậm nhảy, trên không và tiếp đất.
+ Giai đoạn chạy đà: Học sinh THPT nên chạy đà từ 6 - 8 bước ( bước
chẵn ) hoặc 7 - 11 bước ( bước lẻ ). Mỗi bước tương đương độ dài 5 - 6 bàn chân
nối tiếp nhau. Góc chạy đà chếch so với xà ngang khoảng 30 - 40 độ; giậm nhảy
chân phải đứng bên phải của xà theo chiều nhìn vào xà và ngược lại.
+ Giai đoạn giậm nhảy: Sau khi đặt chân vào điểm giậm nhảy , chân giậm
nhảy hơi trùng ở gối tạo cơ co, sau đó dồn cức giậm nhảy. Khi đá lăng chân ra
trước cần chủ động dùng sức của đùi và độ linh hoạt của khớp hông đá chân lên
cao. Hai tay phối hợp gần như đồng thời với chân lăng, ddanhs hơi vòng xuống
dưới - lên cao, khi hai khuỷu tay đến ngang vai thì dừng lại để tạo thế nâng
người lên. Giậm nhảy là giai đoạn quan trọng nhất trong nhảy cao, sự phối hợp
chính xác nhịp nhàng giữa giậm nhảy, đá lăng và đánh tay với tốc độ di chuyển
của cơ thể ( do chạy đà tạo ra ) là yếu tố quyết định hiệu quả giậm nhảy.
+ Giai đoạn trên không: Giai đoạn này bắt đầu từ khi chân giậm nhảy rời
khỏi mặt đất, tiếp theo co nhanh chân giậm nhảy, đồng thời xoạy mũi chân đá
lăng về phía xà ( hoặc xoay gót chân ra ngoài ) tạo cho thân người nằm nghiêng
so với xà ( chân giậm nhảy co ở phía dưới, chân đá lăng thẳng ở phía trên, giống
như tư thế khi ta nằm nghiêng, hai tay phối hợp khéo léo để qua xà ).
2.2. Cơ sở thực tiễn.

Nhảy xa là môn thể thao không đòi hỏi nhiều về trang thiết bị, kĩ thuật
thực hiện có hơi khó nhưng lại dễ phổ cập, phù hợp với mọi lứa tuổi, giới tính.
Do đó nhảy cao là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục thể chất và
trong các kỳ thi học sinh giỏi, Hội khỏe Phù Đổng từ cấp trường đến cấp quốc
gia đều có môn thi đấu nhảy cao. Tuy nhiên thành tích nhảy cao của học sinh
chưa thực sự cao, trong các kỳ thi học sinh giỏi, Hội khỏe Phù Đổng, hội thảo
chuyên môn thì vấn đề trăn trở, được giáo viên thảo luận nhiều nhất là các
phương pháp giảng dạy và huấn luyện, bồi dưỡng các môn điền kinh trong đó có
môn nhảy cao còn nhiều hạn chế, điều này khó khăn cho giáo viên khi trực tiếp
giảng dạy bộ môn thể dục (GDTC). Mặt khác, trong việc giảng dạy, tìm hiểu,
phát hiện và bồi dưỡng học sinh ở cấp THPT, nhằm phát triển toàn diện cho học
3


sinh và hình thành các phẩm chất đạo đức, chuyển vận động từ kĩ năng sang kĩ
xảo, thì các phương pháp giảng dạy và những bài tập ứng dụng của môn học
điền kinh là một vấn đề nan giải đối với giáo viên. Để thực hiện tốt nhiệm vụ,
mục tiêu, yêu cầu của môn học, tôi mạnh dạn đưa ra một số bài tập cụ thể giúp
học sinh lớp 10 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập của mình.
2.3. Thực trạng.
2.3.1. Về nhà trường.
- Ban giám hiệu đã sắp xếp thời khóa biểu hợp lí để giáo viên và học sinh
thuận lợi trong việc dạy và học.
- Cơ sở vật chất được nhà trường quan tâm, mua sắm đầy đủ đồ dùng,
phương tiện dạy học môn thể dục. Tuy nhiên cơ sở vật chất, thiết bị vẫn chưa
phong phú, dụng cụ lâu năm đã cũ nhiều...
- Sân học thể dục rộng, có bóng mát, thoáng đãng, có nhà tập thể dục thể
thao, đảm bảo điều kiện dạy và học.
- Về chương trình dạy môn nhảy cao ở trường THPT cho học sinh lớp 10
chỉ cung cấp cho các em kĩ thuật nhảy cao chứ các em chưa được trang bị thể

lực. Nếu giáo viên không đưa ra các bài tập bổ trợ vào để dạy mà chỉ thực hiện
các bài tập theo yêu cầu của phân phối chương trình và các bài tập trong sách
giáo khoa thì:
Học sinh chỉ biết thực hiện kĩ thuật cơ bản chứ khó để các em vận dụng
vào thi đấu được vì các em bị thiếu thể lực, di chuyển chậm, lực chân giậm nhảy
yếu dẫn đến giậm nhảy không đúng yêu cầu...
Yêu cầu của chương trình sách giáo khoa hiện nay chủ yếu dạy để các em
phát triển thể lực chung là chính, không chú ý củng cố thể lực chuyên môn cho
các em, mà nội dung học nhiều trong khi thể lực chuyên môn của người học yếu
dẫn đến người học sớm bị mệt mỏi, nhàm chán, thiếu sự hứng thú học tập.
2.3.2. Về học sinh
Trong quá trình dạy học môn thể dục khối 10, tôi thấy có những ưu và
nhược điểm sau đây:
* Ưu điểm:
- Đa số các em ngoan, chịu khó học tập, thường xuyên hoàn thành kiến
thức, kĩ năng và yêu cầu bài học
- Trong đó có một số em có năng khiếu vượt trội so với các bạn, các em
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, vị trí môn học và đối với việc rèn luyện
sức khỏe cho bản thân để học tập tốt các môn học khác và lao động.
* Nhược điểm:
- Sự phát triển thể lực nói chung và sức mạnh nói riêng của nhiều em còn
hạn chế dẫn đến kết quả của môn học chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
- Một số học sinh coi nhẹ việc tập luyện, đặc biệt là môn nhảy cao, ý thức
tập luyện chưa cao.
- Trình độ năng lực và khả năng tập luyện của học sinh không đồng đều,
trong quá trình tập luyện vẫn còn hiện tượng học sinh dùng tay đẩy xà hoặc chui
qua xà.
4



2.3.3. Nguyên nhân của những thực trạng trên:
- Do các em là học sinh mới vào trường, thầy cô mới bắt đầu tiếp cận nên
chưa thực sự hiểu được khả năng tiếp thu được phương pháp của học sinh.
- Một số thầy cô đổi mới phương pháp dạy học chậm, việc vận dụng kết
hợp giữa các phương pháp giảng dạy chưa linh hoạt, chưa nghiên cứu kĩ bài để
có hệ thống bài tập bổ trợ nâng cao sức khỏe, nâng cao kĩ năng cho học sinh.
- Một số em chưa tâp trung, còn phân tán tư tưởng bởi tác động của ngoại
cảnh ( Không gian, và cảnh vật xung quanh ); ý thức tự giác, chủ động, tích cực
trong quá trình tập luyện ở nhà trường và gia đình chưa cao.
- Tình trạng sức khỏe của một số em chưa tốt để phát huy hết tính năng,
yêu cầu của bộ môn
- Điều kiện học, thời gian tập luyện thêm của các em ở gia đình còn hạn
chế.
2.4. Các biện pháp thực hiện.
Giảng dạy kĩ thuật nhảy cao cũng như giảng dạy các môn Thể dục khác
đều phải tuân thủ các nguyên tắc chung được xây dựng trên cơ sở quy định hình
thành kĩ năng vận động. Kĩ thuật nhảy cao là một hoạt động không mang tính
chu kì, động tác thực hiện nhanh, tương đối phức tạp. Nên khi giảng dạy kĩ thuật
này, tôi đã kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học, quan tâm đến từng đối
tượng học sinh trong lớp, xây dựng hệ thống bài tập hợp lí, phù hợp với trình độ,
năng lực tiếp thu của học sinh thông qua SKKN: "Một số bài tập phát triển sức
mạnh nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp
10 trường THPT Vĩnh Lộc", trong những năm qua tương đối cao. Cụ thể nội
dung các biện pháp như sau:
2.4.1. Biện pháp " Nhiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh để lựa chọn
các bài tập phù hợp nhằm phát triển sức mạnh cho các em học sinh lớp
10".
Tuổi đầu thanh niên là thời kì đầu đạt sự tăng trưởng mạnh về thể lực,
nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Sự phát triển của
hệ thần kinh có nhưng thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức

tạp và các chức năng của não phát triển. Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi quá
độ và là giai đoạn rất nhạy cảm, có sự phát triển đặc biệt mạnh mẽ, linh hoạt của
các đặc tính nhân cách. Các em luôn mong muốn thử sức mình theo các phương
pháp khác nhau, nên hành vi của các em rất mâu thuẫn và phức tạp.
Vì vậy giáo viên phải gần gũi quan tâm, thường xuyên giám sát và giáo
dục cho phù hợp trên cơ sở phát huy tính tích cực, sáng tạo, giúp các em biết
điều chỉnh và tổ chức hoạt động, tạo điều kiện phát triển tốt các khả năng cho
các em.
a. Đối với hệ thần kinh
Não bộ ở lứa tuổi này của học sinh đang trong thời kỳ hoàn chỉnh, hoạt động
của hệ thần kinh chưa ổn định, hưng phấn chiếm ưu thế. Các em thường có thái
độ rõ ràng đối với các vấn đề, hiện tượng xảy ra trong xã hội, đã biết đưa ra các
nhận xét, đánh giá đối với các vấn đề đó. Hiện tại các em rất say mê các môn
5


học theo cách sáng tạo, do đó khi học tập các em dễ tập trung tư tưởng, tuy
nhiên nếu thời gian học kéo dài, nội dung nghèo nàn, hình thức học tập đơn
điệu, thì thần kinh sẽ mệt mỏi và dễ phân tán sự chú ý.
Vì vậy dạy học cho học sinh lứa tuổi này, giáo viên cần phải chịu khó
nghiên cứu kĩ bài dạy, trước khi lên lơp phải chuẩn bị kĩ lưỡng về giáo án và đồ
dùng học tập, khi dạy học giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp một cách
linh hoạt, mềm dẻo, chú trọng sử dụng và phát huy tác dụng của đồ dùng trực
quan, chú ý khi thực hiện các động tác mẫu của học sinh phải chính xác và mô
phạm, phải vận dụng các hình thức tổ chức phong phú và phối hợp nhịp nhàng
cùng học sinh trong giờ học.
b. Hệ vận động.
+ Về hệ xương: Xương của các em vẫn đang trong giai đoạn phát triển về chiều
dài. Hệ xương sụn tại các khớp đang đòi hỏi điều kiện tốt để tiếp tục phát triển
và hoàn thiện

Học TDTT có tác dụng tốt đến sự phát triển của hệ xương của các em,
tuy nhiên khi tập các em phải thực hiện đung tư thế, đúng kĩ thuật để tránh ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển của xương và sụn và kìm hãm sự phát triển về chiều
dài của xương.
Muốn vậy khi dạy học giáo viên phải chú ý hướng dẫn, uốn nắn và điều
chỉnh tư thế của các em sao cho đúng kĩ thuật, phải quan tâm đến sự cân đối
trong hoạt động của các em, có như vậy tập TDTT mới có tác dụng phát triển
thể lực cho các em với đúng yêu cầu của môn học mà Bộ giáo dục và đào tạo đã
đề ra.
+ Về hệ cơ: Hệ cơ của các em phát triển chậm hơn so với sự phát triển của hệ
xương, chủ yếu là phát triển về chiều dài, thiết diện cơ chậm phát triển. Do sự
phát triển không đồng bộ, thiếu cân đối nên các em không phát huy được sức
mạnh và chóng mệt mỏi.
Để hệ cơ của các em phát triển hoàn thiện và đúng cách, khi dạy học giáo
viên cần chú ý xây dựng các bài tập hợp lí, ưu tiên tăng cường phát triển cơ bắp
và phát triển toàn diện cho học sinh. Giáo viên hướng dẫn luyện tập phải dúng
cách còn học sinh phải tích cực, phải tập luyện thường xuyên thì mới làm tăng
khả năng trao đổi, vận chuyển và sử dụng khí oxy tai cơ và các mô tế bào của cơ
thể. Từ đó còn có khả năng tăng đáp ứng của cơ thể của các em với những hoạt
động cần tốn nhiều thể lực.
c. Hệ tuần hoàn.
Ở lứa tuổi này tim phát tiển chậm hơn so với sự phát triển của mạch máu,
sức co bóp yếu, khả năng điều hòa hoạt động của tim chưa ổn định nên khi hoạt
động quá căng thẳng sẽ chóng mệt.
Vì vậy giúp học luyện tập TDTT thường xuyên là nhiệm vụ của giáo viên,
từ đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của hệ tuần hoàn, làm cho hoạt động của tim dần
dần được thích ứng. Khi hướng dẫn học sinh tập luyện giáo viên cần hướng dẫn
cho các em đảm bảo nguyện tắc vừa sức, nguyên tắc tăng tiến để học sinh thích
nghi dần, tránh hoạt động quá sức và đột ngột.
6



d. Hệ hô hấp.
Hiện tại phổi của các em chưa phát triển hoàn thiện, phế nang còn nhỏ,
các cơ hô hấp chưa phát triển hết, dung lượng phổi còn bé. Vì vậy khi hoạt động
các em phải thở nhiều, thở nhanh nên chóng mệt mỏi.
Muốn các em duy trì hoạt động thể chất tốt và toàn diện, giáo viên phải
chú ý đến sự phát triển của các cơ hô hấp. Phải có các bài tập hợp lí và hướng
dẫn các em biết cách thở sâu, thở đúng nhất, biết cách thở khi vận động thì các
em mới tránh được sự hụt hơi và mệt mỏi khi hoạt động, hoạt động mới được
lâu dài và có hiệu quả.
2.4.2. Biện pháp "Nghiên cứu cơ sở khoa học của GDTC trong trường
THPT để đưa ra các dạng bài tập phát triển phù hợp "
Mục đích của GDTC trong trường THPT là góp phần thực hiện mục tiêu
phát triển hài hòa, có thể lực để phát triển sức khỏe học tập các môn khác và
tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tham gia lao động và các sinh hoạt
khác trong gia đình, xã hội, bước đầu học sinh có khả năng tiếp cận với thực tiễn
lao động phù hợp với lứa tuổi.
Bộ môn GDTC được đưa vào chương trình chính khóa từ rất lâu và có
hướng dẫn phân phối chương trình cụ thể cho từng khối lớp. Ngoài ra dạy thể
dục còn giúp nhà trường phát hiện và bối dưỡng học sinh năng khiếu có tố chất
TDTT để các em dự thi học sinh giỏi các cấp và là tiền đề để định hướng nghề
nghiệp trong tương lai cho học sinh.
Hệ quả của GDTC gắn liền với đặc điểm giải phẫu sinh lí, tâm lí học và
đặc điểm phát triển tố chất thể lực ở mỗi lứa tuổi con người. Tác dụng của
GDTC là rất lớn, nó không chỉ đem lại sức khỏe cho học sinh mà còn góp phần
đào tạo con người phát triển toàn diện.
Tố chất thể lực là sự biểu hiện tổng hợp của hệ thống chức năng các cơ
quan trong cơ thể, tố chất thể lực tăng trưởng theo sự tăng trưởng của lứa tuổi.
Sự tăng trưởng này có tốc độ nhanh, biên độ lớn trong thời kì dạy thì. Tuy nhiên

trong cùng một lứa tuổi, tố chất thể lực khác nhau thì sự phát triển cũng khác
nhau.
Tố chất thể lực từ giai đoạn tăng trưởng chuyển qua giai đoạn ổn định
theo một thứ tự phát triển sau: Tố chất nhanh phát triển đầu tiên, sau đó là tố
chất bền và tố chất mạnh.
+ Tố chất nhanh: Phát triển sớm hơn sự phát triển của tố chất mạnh, thời kì phát
triển tố chất nhanh quan trọng nhất ở tuổi học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở.
+ Tố chất mạnh: Sức mạnh là năng lực chống đỡ hoặc khắc phục sức cản bên
ngoài nhờ những nỗ lực của cơ bắp.
Đối với môn nhảy cao, chúng ta cần quan tâm đến sự phát triển sức mạnh
tốc độ của người tập. Để phát triển sức mạnh tốc độ cần xen kẽ tập luyện đúng
mức với phương pháp dùng sức lớn nhất. Như vậy, trong quá trình cho học sinh
luyện tập môn nhảy cao chúng ta cần đưa vào các bài tập phát triển sức mạnh
bột phát của các nhóm chi dưới, giúp cho việc thực hiện động tác giậm nhảy
trong nhảy cao thật nhanh, mạnh, để đưa cơ thể bay lên cao hơn.
7


- Sức mạnh tốc độ: Dạng sức mạnh này thể hiện trong động tác chạy đà.
- Sức mạnh bột phát: Dạng sức mạnh thể hiện trong động tác giậm
nhảy ( sức bật ).
+ Tố chất khéo léo: Khéo léo là năng lực tiếp thu các động tác ứng phó kịp thời
với những thay đổi bất ngờ. Xác định và đánh giá tố chất khéo léo và việc khó.
Có thể tính bằng khoảng thời gian tiếp thu động tác. Để rèn luyện khéo léo cần
phải tập nhiều các loại hình động tác, nhờ quá trình tập để tiếp thu các động tác
đó các tố chất khác cũng phát triển theo.
Tóm lại, trong quá trình giảng dạy và huấn luyện điền kinh nói chung và
nhảy cao nói riêng, chúng ta cần căn cứ vào đặc điểm phát triển tố chất, đồng
thời dùng các phương pháp huấn luyện khoa học, xúc tiến cho việc phát triển tố
chất thể lực của người tập nói chung và học sinh nói riêng.

* Hệ thống các nội dung tập luyện ban đầu cần đáp ứng các yêu cầu:
- Củng cố và nâng cao sức khỏe giúp cơ thể phát triển cân đối, khắc phục
sửa chữa những sai lệch.
- Bài tập hình thành các kĩ năng, kĩ xảo vận động cần thiết và sự phối hợp
các hoạt động khác nhau với độ chính xác ngày càng cao.
- Giáo dục ý thức tổ chức kỉ luật, đạo đức, nếp sống văn minh, nhanh
nhẹn, thông minh, sáng tạo và dũng cảm.
- Khái quát và tích lũy những tri thức chuyên môn trong tập luyện thể
thao nói chung, điền kinh nói riêng, gây hứng thú say mê tập luyện hàng ngày
để hoàn thiện mình.
- Phát triển các tố chất thể lực: Sức mạnh, tốc độ, phát triển thể lực.
2.4.3. Một số bài tập và tiến trình dạy học phát triển sức mạnh nhằm nâng
cao thành tích nhảy cao kiểu nằm nghiêng cho học sinh lớp 10 trường
THPT Vĩnh Lộc.
2.4.3.1. Hệ thống các bài tập:
Gồm 8 bài tập, trong đó 4 bài tập sức mạnh tốc độ, 4 bài tập sức mạnh bột
phát.
* Nhóm 1: Bốn bài tập sức mạnh tốc độ:
- Bài tập 1: Chạy 30m xuất phát cao
- Bài tập 2: Chạy 30m tốc độ cao
- Bài tập 3: Chạy 60m xuất phát cao
- Bài tập 4: Chạy đạp sau 30m
* Nhóm 2: Bốn bài tập về sức mạnh bột phát:
- Bài tập 1: Bật xa tại chỗ
- Bài tập 2: Bật nhảy tay với vật chuẩn trên cao
- Bài tập 3: Bật cóc 15 m
- Bài tập 4: Bật lò cò nhanh bằng một chân tốc độ nhanh 30m

8



2.4.3.2. Thời gian áp dụng các bài tập:
TT

Bài tập

1
2
3
4
5
6

Thời gian luyện tập

Chạy 30m xuất phát cao
Chạy 30m tốc độ cao
Chạy 60m xuất phát cao
Chạy đạp sau 30m
Bật xa tại chỗ
Bật nhảy tay với vật chuẩn
trên cao
7 Bật cóc 15m
8 Bật lò cò một chân nhanh
2.4.3.3. Tiến trình các bài tập.
TT
1
2
3


Nội dung
Chạy 30m xuất phát
cao
Chạy 30m tốc độ cao

4

Chạy 60m xuất phát
cao
Chạy đạp sau 30m

5

Bật xa tại chỗ

6

Bật nhảy tay với vật
chuẩn trên cao
Bật cóc 25m

7
8

Lò cò 1 chân tốc độ
nhanh 30m

x
x
x


x

x
x
x

x
x

x

x

x
x

x

x
x

x

Thời Nghỉ
gian
3 phút 30''1 phút
3 phút 30''1 phút
3 phút 30''1 phút
3 phút 30''1 phút

1- 2
30''
phút
1- 2
30''
phút
1- 2
30''
phút
1- 2
30''
phút

x

x
x
x

x

x
x
x

x

x

x

x

x

x
x

x
x
x

x
x

x
x

x
x

x
x

x
x

Mục đích, yêu cầu
- Rèn luyện sức mạnh tốc độ
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh tốc độ

- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh tốc độ
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh tốc độ
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh bột phát
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh bột phát
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh bột phát
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực
- Rèn luyện sức mạnh bột phát
- Yêu cầu: Tự giác, tích cực

Sau khi sử dụng hệ thống 8 bài tập trên đây Tôi thấy mục đích của các
dạng bài tập đạt được hiệu quả khác nhau và đều góp phần nâng cao hiệu quả
của kĩ thuật nhảy cao nằm nghiêng cho học sinh cụ thể:
- Mục đích của các dạng bài tập phát triển sức mạnh tốc độ là: Rèn luyện sức
mạnh tốc độ trong kĩ thuật chạy đà
- Mục đích của các dạng bài tập phát triển sức mạnh bột phát là: Rèn luyện sức
mạnh bột phát trong quá trình giậm nhảy.
9


+ Đối tượng và biện pháp thực hành.
Đối tượng Tôi chọn là lớp 10A4 và 10A5. Ban đầu kiểm tra, tôi thấy số
lượng học sinh và trình độ tiếp thu giữa hai lớp tương đương với nhau. Thể lực
giữa hai lớp lúc chọn vào ngẫu nhiên đều bằng nhau, được chia làm 2 nhóm:
Nhóm 1 ( Lớp 10A4 ) nhóm dạy thực nghiệm theo các phương pháp và bài tập
đã nêu ở trên, nhóm còn lại là nhóm đối chứng ( Lớp 10A5)

Nhóm thứ nhất: Gồm 48 học sinh tập luyện theo phương pháp thực nghiệm áp
dụng các bài tập bổ trợ phát triển thể lực chuyên môn môn nhảy cao vào giảng
dạy
Cách thực hiện: Hệ thống các bài tập nêu trên được tôi sử dụng một cách
phù hợp vào tập luyện cho học sinh trong các giờ học, tôi chia học sinh làm 3
hàng thực hiện các bài tập theo đội hình nước chảy.
Tuy nhiên, khi sử dụng các bài tập này, giáo viên phải lưu ý là tùy vào
mỗi bài học để chọn ra một số bài tập cụ thể cho học sinh luyện tập thì mới đảm
bảo thời gian cho các em học phần cơ bản, nội dung mới phong phú và vẫn đảm
bảo nội dung kiến thức và trong tâm. Giaos viên không được chọn tất cả 8 bài
tập đó vào một tiết học, nếu chọn ôm đồm như vậy vô hình dung trong tiết học
nhảy cao học sinh lại chỉ học các bài tập bổ trợ, các em sẽ không còn thời gian
học kiến thức phần cơ bản, hiệu quả giờ học sẽ không cao, dễ nhàm chán, nội
dung chính của bài học bị phân tán, không nổi bật kiến thức trọng tâm. Ngoài ra
khi lựa chọn bài tập bổ trợ rèn luyện phải kết hợp cả hai dạng bài tập trên vào
cùng một tiết để học sinh vừa đảm bảo phát triển sức mạnh tốc độ và phát triển
sức mạnh bột phát, từ đó nâng cao thể lực và nâng cao sức bật...giúp cho học
sinh tập đúng kĩ thuật hơn, hiệu quả tập luyện sẽ cao hơn.
Nhóm thứ hai: Lớp 10A5, tổng số học sinh là 48 em, tập luyện bình thường
theo phân phối chương trình và hướng dẫn của sách giáo viên.
2.5. Kết quả thực nghiệm đề tài
Sau khi áp dụng cho học sinh 2 nhóm trên với hai phương pháp khác
nhau, tôi thấy lớp được sử dụng các bài tập bổ trợ các em học tập tốt hơn, tích
cực hơn và kết quả đạt được cao hơn hẳn so với lớp dạy đối chứng. Cụ thể kết
quả như sau:
Nhóm được vận dụng các bài tập bổ trợ vào dạy học, luyện tập theo
phương pháp thực nghiệm:
Lớp
10A4


Số HS
48

Đạt yêu cầu
ở mức tốt
31 HS = 64,6 %

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu

17 HS = 35,4%

0HS=0%

Nhóm không được đưa các bài tập bổ trợ, tập các bài tập đơn thuần:
Lớp
10A5

Số HS
48

Đạt yêu cầu
ở mức tốt
20 HS = 41,6 %

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu


26 HS = 54,2 %

2HS=4,2%
10


* Nhận xét và đánh giá: Sau khi áp dụng SKKN vào dạy học và thu được kết
quả của 2 nhóm đối tượng thực nghiệm và không thực nghiệm như trên cho thấy
đối với nhóm dạy theo phương pháp thực nghiệm kết quả như sau:
+ Các em được áp dụng các bài tập bổ trợ trong giờ học, các em chăm chú
học bài, hứng thú trong tập luyện. Sự phối hợp giữa thầy và trò diễn ra nhịp
nhàng hơn, giờ học sôi nổi hơn. Thể lực các em tốt hơn, kỹ thuật thực hiện động
tác đúng hơn, kết quả kiêm rtra đánh giá về kĩ thuật cũng như tố chất thể lực của
nhóm được thực nghiệm tăng lên đáng kể.
+ Từ cơ sảo các bài tập thể lực dó ở trường, ở lớp, các em đã tích cực hơn
trong việc luyện tập ở nhà và các phong trào thi đua TDTT khi có môn nhảy
cao. Từ đó các em phát triển tố chất hơn về mặt thể chất cũng như năng lực,
giúp các em có sức khỏe để học tập các môn học khác.
Cụ thể: Ở nhóm 1, áp dụng phương pháp thực nghiệm 100% hoạc sinh đạt mức
độ hoàn thành và hoàn thành tốt; nhóm 2 không áp dụng sáng kiến trên thì số
học sinh chưa hoàn thành vẫn còn 4,2 %, số học sinh hoàn thành ở mức tốt ít
hơn.
So sánh giữa nhóm 1 và nhóm 2 sau thực nghiệm:
Loại hoàn thành ở mức tốt: Cao hơn 23 % ( Do loại hoàn thành giảm, loại
chưa hoàn thành không có )
Loại hoàn thành: ít hơn 18,8 % ( Do loại hoàn thành tốt đã tăng lên nhiều,
không có học sinh chưa hoàn thành )
Loại chưa hoàn thành: Không còn ( Do đã đạt 100 % hoàn thành trở lên )
2.6. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng SKKN này, bản thân tôi đã thực sự được nâng cao hơn về

kiến thức lí luận môn GDTC, nắm bắt kĩ hơn về nội dung chương trình nhảy cao
lớp 10. Thông qua dạy học, các phương pháp dạy học ngày càng được củng cố,
kĩ năng sư phạm được nâng lên, hiệu quả giảng dạy được nâng lên rõ rệt. Giờ
dạy diễn ra nhẹ nhàng mà lại giúp các em hoạt động được nhiều và chủ động
lĩnh hội kiến thức. Ngoài ra trong khi dạy, tôi đã tự tin làm chủ kiến thức, chủ
động trong phương pháp, đa dạng trong hình thức dạy học, cách xử lí tình huống
sư phạm hợp lí hơn, đáp ứng được yêu cầu dạy học sáng tạo.
Đối với học sinh được củng cố hơn về kiến thức, về kĩ năng thực hành,
chất lượng học tập cao hơn, các em yêu thích môn học nhiều hơn, ngoài ra còn
góp phần giúp các em rèn luyện nâng cao thể lực, tham gia học tập các môn học
khác và các hoạt động lao động hàng ngày ở nhà trường và gia đình. Từ đó thực
sự góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh để các em trở thành con người mới
xã hội chủ nghĩa.
3. Kết luận và đề xuất
3.1. Kết luận:
Thông qua các bước nghiên cứu đề tài và sử dụng các bài tập phát triển
sức mạnh tốc độ và sức mạnh bột phát nhằm nâng cao thành tích nhảy cao nằm
11


nghiêng cho học sinh lớp 10, tôi thấy hệ thống các bài tập đưa ra rất phù hợp với
việc dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi môn nhảy cao, các bài tập cụ thể là:
* Nhóm bài tập sức mạnh tốc độ:
- Bài tập 1: Chạy 30m xuất phát cao
- Bài tập 2: Chạy 30m tốc độ cao
- Bài tập 3: Chạy 60m xuất phát cao
- Bài tập 4: Chạy đạp sau 30m
* Nhóm bài tập về sức mạnh bột phát:
- Bài tập 1: Bật xa tại chỗ
- Bài tập 2: Bật nhảy tay với vật chuẩn trên cao

- Bài tập 3: Bật cóc 15 m
- Bài tập 4: Bật lò cò nhanh bằng một chân tốc độ nhanh 30m
Sau khi áp dụng các bài tập bổ trợ trên cho các em học sinh lớp 10, tôi
thấy thể lực, kiến thức các môn học của các em được nâng lên rõ rệt, từ đó học
sinh nắm bắt kĩ thuật động tác tốt hơn, các em tập luyện tích cực hơn, giờ học
trở lên sinh động, không còn bị nhàm chán, gò bó, cứng nhắc như trước.
Giúp các em vui chơi thể thao ngoài giờ và tham gia các hoạt động khác
tốt hơn, tạo tinh thần phấn khởi, tự tin hơn. Khi tham gia thi cử, các em đã mạnh
dạn hơn, nhanh nhẹn hơn, sức khỏe bền bỉ hơn, động tác chính xác và học sinh
tự tin vào bản thân hơn.
3.2. Kiến nghị
Đề nghị nhà trường và các cấp có thẩm quyền quan tâm đầu tư hơn nữa về
cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học môn thể dục
Đối với giáo viên dạy môn học này cần phải chịu khó trau dồi chuyên
môn, tích cực đổi mới phương pháp trong dạy học, xây dựng thêm hệ thống bài
tập bổ trợ và vận dụng linh hoạt vào mỗi tiết học một cách phù hợp để hiệu quả
giờ học đạt được cao hơn.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Vĩnh Lộc, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình,
không sao chép của người khác.

Người viết

Trịnh Văn Quân

12



Tài liệu tham khảo
1. Phân phối chương trình môn thể dục năm học
2. Thể dục lớp 10 SGV NXB Giáo dục 2006 của Vũ Đức Thu
3. Thể dục lớp 11 SGV NXB Giáo dục 2007 của Vũ Đức Thu Trương Anh Tuấn
4. Thể dục lớp 12 SGV NXB Giáo dục 2007 của Vũ Đức Thu Trương Anh Tuấn

5. Lý luận và phương pháp GDTC của Vũ Đức Thu - Nguyễn Chương Tuấn

13



×