Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận: Tìm hiểu Phytochemicals – Thực phẩm chức năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.93 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Viện Công nghệ Sinh học – Thực phẩm

Môn:

THỰC PHẨM CHỨC NĂNG
Đề tài:

Dietary and Non-dietary Phytochemicals
in Cancer Control

GVHD: Nguyễn Thị Minh Nguyệt
Nhóm: 22
Lớp: ĐHTP10B
Tp.Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 02 năm 2017


DANH SÁCH NHÓM

Tên sinh viên

MSSV

Phân công công việc

Phạm Nhựt Huy

14052861

Dịch (phần 1-2.2), định dạng văn bản,
kiếm tài liệu



Lương Phượng Nhi

14064891

Dịch(phần 2.3.1-2.3.2), kiếm tài liệu,
kiểm tra lỗi chính tả.

Đỗ Thị Ngọc Hằng

14039221

Dịch (phần 2.3.3-hết), kiếm tài liệu, tổng
hợp bài


MỤC LỤC
1. Sơ lược........................................................................................................................ 2
2. Giới thiệu bệnh ung thư và một số phương pháp điều trị bệnh..............................2
2.1.

Ung thư................................................................................................................. 2

2.2.

Phương pháp điều trị..........................................................................................3

2.3.

Liệu pháp ngăn ngừa...........................................................................................5


2.3.1.

Các chất có tác dụng ngăn ngừa ung thư....................................................5

2.3.2.

Cơ chế của ung thư và ngăn ngừa ung thư của chất phytochemical.........7

2.3.3.

Chế độ ăn kiêng chứa hóa chất thực vật trong việc điều trị bệnh ung thư
.11

3. Kết luận..................................................................................................................... 13
Tài liệu tham khảo

Page 1


1. Sơ lược
Ung thư là căn bệnh không ngừng gia tăng và là nguyên nhân đe dọa tính mạng con
người trong khoảng 13% tổng số tử vong mỗi năm trên toàn thế giới. Những nỗ lực của
con người không ngừng được thực hiện để khám phá ra những phương pháp điều trị cũng
như để hiểu các quá trình căn bệnh hiên nay. Tuy nhiên, do không hiệu quả hoặc do sự
hạn chế của các phương pháp điều trị hiện nay, một chiến lược mới: “liệu pháp điều trị
ung thư chemoprevention” được đưa ra, trong đó chủ yếu liên quan đến việc sử dụng các
hóa chất thực vật có trong chế độ ăn uống thông thường hoặc không kiêng thực vật. Các
nghiên cứu với hóa chất thực vật cho thấy rằng chúng có độc tính tương đối thấp hoặc
hiệu quả hơn so với thuốc hóa học tổng hợp. Hóa chất thực vật như EGCG, SILYBIN,

IP6, curcumin, genistein, luteolin và resveratrol có mặt trong chế độ ăn uống bình thường
qua thực nghiệm cho thấy có hiệu quả chống ung thư. Các hóa chất thực vật trong chế độ
ăn không kiêng như carnosol, 5-deoxykaempferol, trà rooibos, deguelin cũng đã thể hiện
khả năng hoạt động với 2 nhiệm vụ điều trị và phòng ngừa. Cơ chế ngăn ngừa ung thư
của chúng cũng được thể hiện trong nhiều mô hình ung thư, tuy nhiên nhiều nghiên cứu
cần có để cung cấp sự hiểu biết rõ cũng như ý nghĩa lâm sàng của chúng.
2. Giới thiệu bệnh ung thư và một số phương pháp điều trị bệnh
2.1.

Ung thư

Theo Viện Ung thư Quốc gia (NCI) "Ung thư là một thuật ngữ được sử dụng cho các
bệnh trong đó các tế bào phân chia bất thường không kiểm soát và có thể xâm nhập vào
các mô khác. Tế bào ung thư có thể lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể qua máu và
hệ thống bạch huyết ". Nó không thể được gọi là một loại bệnh mà là một nhóm bệnh và
thuật ngữ này thường được sử dụng cho một loạt các triệu chứng và biến chứng của bệnh.
Theo thống kê năm 2008 mười ba triệu người đã mất đi cuộc sống vì căn bệnh ung
thư trên toàn thế giới (Jemal et al. 2011). Ở đất nước phát triển như Hoa Kỳ (Mỹ) mỗi
năm có 22% tổng số trường hợp tử vong do các loại ung thư. Tại Việt Nam, số trường hợp
mắc bệnh ung thư tăng nhanh từ 68.000 ca vào năm 2000 lên 126.000 năm vào 2010 và
Page 2


dự kiến sẽ vượt qua 190.000 ca vào 2020. Mỗi năm có khoảng 115.000 người chết vì ung
thư, tương ứng 315 người/ngày. Theo số liệu này, WHO xếp Việt Nam nằm trong 50 nước
thuộc top 2 của bản đồ ung thư (50 nước cao nhất thuộc top 1). Cụ thể, Việt Nam đang
xếp ở vị trí 78/172 quốc gia, vùng lãnh thổ khảo sát với tỉ lệ tử vong 110/100.000 người,
ngang với tỉ lệ tại Phần Lan, Somalia, Turmenistan. Ở nam giới, ung thư phổi chiếm tỉ lệ
mắc và tử vong hàng đầu, kế đó là dạ dày, gan, đại trực tràng. Ở nữ giới lần lượt là ung
thư vú, dạ dày, phổi.

Có hàng loạt nguyên nhân gây ung thư như một số hóa chất và virus trong thực phẩm
và môi trường, nội tiết tố, điều kiện sống, bức xạ và thông qua các cơ chế di truyền. Hiện
nay, đã có 1 số phương pháp điều trị khác nhau. Tuy nhiên, mỗi phương pháp có ưu điểm
và nhược điểm riêng.
2.2.

Phương pháp điều trị

Phẫu thuật được coi là phương pháp lâu đời nhất được sử dụng để điều trị ung thư và
đóng vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán cũng như điều trị. Theo thời gian, nhiều tiến
bộ trong phương thức điều trị và các ứng dụng của nó đã cho bác sĩ có nhiều cơ hội phẫu
thuật để điều trị sự gia tăng không ngừng của các bệnh nhân ung thư. Các loại phẫu thuật
như là phòng ngừa, chẩn đoán, xem xét, chữa bệnh, phẫu thuật cắt bỏ khối u, giảm đau,
hỗ trợ và phục hồi. Mặc dù có những tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật nhưng tỷ lệ thành
công là khác nhau đối với từng bệnh ung thư.
Phương pháp hóa trị liệu là điều trị ung thư bằng thuốc ("thuốc chống ung thư") có
khả năng tiêu diệt tế bào ung thư. Chúng can thiệp vào phân bào theo các cách khác nhau,
ví dụ như sự sao chép DNA hay quá trình phân chia các nhiễm sắc thể mới được tạo
thành. Hầu hết các dạng hóa trị đều nhắm vào các tế bào phân chia nhanh chóng và không
đặc hiệu cho tế bào ung thư. Vì vậy, hóa trị có khả năng làm tổn thương các mô lành. Nó
cũng tiêu diệt các tế bào khỏe của cơ thể trong tủy xương và tế bào tiêu hóa trong ruột vì
biểu hiện nhiều triệu chứng như suy giảm miễn dịch, suy tủy, nôn, buồn nôn và rụng tóc
(Coates et al. 1983), cảm xúc đau buồn (Love et al. 1989) và say tàu xe (Morrow 1985).
Tuy nhiên, phương pháp hóa trị liệu ung thư có tỷ lệ thành công chỉ 2.2% ở các nước phát
triển (Mileshkin et al. 2005).
Page 3


Theo báo cáo của bệnh ung thư trên thế giới năm 2008, sau khi phẫu thuật kèm theo
xạ trị hoặc hóa trị, tỷ lệ sống kéo dài 5 năm là khoảng 85% đối với ung thư vú, nhưng

trong trường hợp ung thư phổi nó là chỉ có 14% (Boyle và Levin 2008; Minna và Schiller
2008). Sự cần thiết phẫu thuật là khi ung thư đã đạt đến giai đoạn di căn. Ở giai đoạn này
cần thêm công nghệ tinh vi đến mức nano để nâng cao hiệu quả của nó và giảm tổn hại
cho các tế bào bình thường.
Thị trường loại thuốc ung thư đang gia tăng với tốc độ tăng trưởng 12,3% trong thập
kỷ trước và dự kiến sẽ đạt 78 tỷ US vào năm 2012 (RNCOS 2008), và trong đó FDA Mỹ
đã phê duyệt 129 loại thuốc cho các loại ung thư cho đến năm 2011. Họ chủ yếu nhắm tới
các phân tử hóa chất tác động tới sự phát triển ung thư và nhân lên của chúng, ví dụ
tamoxifen là thuốc trị ung thư vú nổi tiếng, dùng trong tất cả các giai đoạn khi dương tính
với estrogenreceptor, và do đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đặt tamoxifen trong
danh sách các loại thuốc thiết yếu để điều trị và kiểm soát ung thư vú (Jordan 2003).
Trong tương lai, các ứng dụng có khả thi hay không sẽ phụ thuộc phát triển đa dạng
của các loại thuốc có độc tính thấp. Các bức xạ năng lượng được sử dụng trên lâm sàng để
tiêu diệt tế bào ung thư hoặc co lại của các khối u (Lawrence 2008). Sử dụng một trong
hai photon hoặc hạt tích điện gây thiệt hại DNA có thể làm chết tế bào ung thư. Thị
trường thiết bị bức xạ điều trị ung thư toàn cầu được dự đoán sẽ vượt 3,6 tỷ US vào năm
2015 (Jose năm 2010). Phương pháp này có thể được phân thành hai loại, ngoại xạ trị và
nội xạ trị. Những phương pháp này được áp dụng để hạn chế ung thư và cho ta thấy có
một số tác dụng phụ cấp tính và mãn tính như tổn thương tuyến nước bọt, rụng tóc và các
vấn đề tiết niệu. Trong trường hợp hiếm hoi, có cơ hội phát triển ung thư thứ hai do tiếp
xúc với bức xạ. Lĩnh vực này đòi hỏi phải chú ý nhiều hơn để làm cho bức xạ trị liệu hiệu
quả hơn thông qua việc tạo ra các loại thuốc như radiosensitizers và radioprotectors an
toàn và hiệu quả hơn .
Liệu pháp miễn dịch hoặc liệu pháp sinh học được sử dụng để điều chỉnh hoặc tối ưu
hóa hệ thống miễn dịch vật chủ và để chuyển hướng hoặc sử dụng các thành phần của hệ
thống miễn dịch cho việc điều trị bệnh ung thư (Dillman 2011). Chúng làm cho các tế bào
ung thư bị loại bỏ, tăng trưởng khối thụ thể, bắt giữ các tế bào khối u và hình thành kháng
Page 4



thể anti-idiotype. Tính đến nay có khoảng 17 nhóm miễn dịch trị liệu, đó là những chất
kích thích không đặc hiệu miễn dịch BCG và levamisole, các cytokine interferon và
interleukin 2, các kháng thể đơn dòng rituximab (1997, được chấp nhận lại trong năm
2010), ofatumumab (2009), alemtuzumab (2001), trastuzumab (1998, phê duyệt lại trong
năm 2010), bevacizumab (2004-2009, sửa đổi hàng năm), Cetuximab (2004, phê duyệt lại
vào năm 2006), panitumumab (2006), các kháng thể đánh dấu phóng xạ Y tiuxetan 90
ibritumomab (2002), I-131 tositumomab (2003), các immunotoxins denileukin diftitox,
gemtuzumab ozogamicin (2000, thu hồi trong tháng mười 2010), ghép non-myeloablative
với tế bào lympho và chống thư tuyến tiền liệt dựa trên sipuleucel-T (2009) (Dillman
2011). Thị trường toàn cầu dự kiến đạt 37,2 tỷ US vào năm 2012 (kháng thể ung thư
2007). Hạn chế chính của liệu pháp miễn dịch dựa trên việc phá vỡ phản ứng miễn dịch
tạo ra bởi các tế bào khối u (Prins và Liau 2004).
Ngay cả sau 25 năm, chỉ 17 loại thuốc có sẵn trên thị trường và do đó nghiên cứu sâu
rộng hơn là cần thiết để phát triển các kháng thể đơn dòng an toàn hơn, vắc-xin ung thư
và các khảng thể trị liệu. Khác với các chiến lược điều trị thảo luận ở trên, liệu pháp gen,
ghép tủy xương và điều trị ung thư dựa vào ánh sáng laser cường độ cao hiện nay đang
được sử dụng để điều trị hoặc kiểm soát vài loại bệnh ung thư. Nhưng vẫn do không hiệu
quả hoặc danh sách dài những hạn chế của tất cả các phương pháp điều trị ung thư vì thế
để chống lại bệnh ung thư thì việc cần làm là tránh và ngăn chặn nó xảy ra (Sporn 1976;
Wattenberg 1985).
2.3.

Liệu pháp ngăn ngừa

Trong liệu pháp ngừa ung thư, việc sử dụng các hóa chất thực vật không độc hại là rất
cần thiết. Việc sử dụng những hóa chất thực vật này là một liệu pháp an toàn để ngăn
ngừa và phòng chống bệnh ung thư.
2.3.1.

Các chất có tác dụng ngăn ngừa ung thư:


Curcumin
Curcumin chủ yếu được phân lập từ rễ của Curcuma longa là một gia vị và màu sử
dụng rộng rãi trong thực phẩm từ thời Ayurveda (1900 BC) ở Ấn Độ và lục địa châu Á.
Page 5


Nó cho thấy khả năng trị liệu phong phú của nghệ đối với các bệnh của da, phổi, gan, hệ
thống tiêu hóa và chống đau nhức, đau, vết thương, bong gân. Curcumin
(diferuloylmethane) là một hợp chất polyphenolic có mặt trong Curcuma longa và chủ
yếu tạo các sắc tố màu vàng trong củ nghệ. Nó có khả năng chống viêm, chống oxy hóa,
kháng nấm, kháng khuẩn, kháng virus, và chống ung thư. Số lượng lớn các báo cáo đã
cho thấy tiềm năng của chất curcumin chống xâm nhập trên các loại ung thư khác nhau.
Luteolin
Luteolin (3 0 ,4 0 ,5,7-tetrahydroxyflavone) là một hợp chất flavone phổ biến trong
nhiều loại cây ăn được, phân phối rộng rãi bao gồm nhiều họ thực vật như Bryophyta,
Pteridophyta, thông và Magnoliophyta. Nguồn thực phẩm cung cấp là ớt, cà rốt, cần tây,
bạc hà, dầu ô liu, húng tây, hương thảo. Luteolin khá ổn định với nhiệt và ít bị mất mát
trong quá trình nấu ăn. Cây chiết xuất có luteolin thường được sử dụng như một loại
thuốc truyền thống ở Trung Quốc để điều trị các bệnh như cao huyết áp, rối loạn viêm
cũng như ung thư.
Resveratrol
Resveratrol (3,4 0 ,5-trihydroxy-trans-stilbene) là những hợp chất polyphenol được
tìm thấy trong các sản phẩm thực vật như nho, dâu và đậu phộng. Resveratrol được sản
xuất bởi các enzyme tổng hợp như enzyme stilbene. Nó được sử dụng như một kháng
virus, kháng viêm, chống oxy hóa, chống đông máu và chống ung thư. Năm 1997, nó đã
được công nhận là có hoạt động chống ung thư bằng cách ngăn chặn sự bắt đầu và tiến
triển của bệnh ung thư. Nghiên cứu cho thấy tiềm năng của resveratrol là một chất ngăn
ngừa ung thư khác nhau của tế bào cũng như động vật và con người.
Khác với chất phytochemical ở trên, một số hóa chất thực vật khác cũng thể hiện

được tiềm năng như là một chất ngăn ngừa ung thư như procyanidin B3, cyanidin từ
anthocyanins, nhiều alkaloids như camp-tothecin ,vinblastine và carotenoid như lutein.
Đây danh sách của các phytochemicals cho ta biết sự phong phú của thiên nhiên cho tác
nhân điều trị và phòng bệnh cho các bệnh khác nhau bao gồm cả ung thư.

Page 6


2.3.2 Cơ chế của ung thư và ngăn ngừa ung thư của chất phytochemical
Chủ yếu là ba bước có liên quan đến phát triển bệnh ung thư có thể được tóm tắt như
đầu tiên thiệt hại DNA do tác nhân gây ung thư hoặc di truyền; tích tụ thứ hai của tổn
thương DNA bằng cách thoát khỏi quy định và cuối cùng bao gồm sự tiến triển dẫn đến
sự tăng trưởng không kiểm soát được của các tế bào bất thường tồn tại bằng cách xâm
lược, di căn và hình thành mạch.
Các chiến lược kiểm soát sự phát triển của tế bào bao gồm tế bào bắt giữ chu kỳ, ức
chế sự tăng sinh và viêm, ức chế sự hình thành mạch máu và di căn, quy định biểu sinh,
và quy định của con đường sinh hóa. Những cơ chế quản lý có thể được điều chế bằng
hóa chất thực vật để làm giảm nguy cơ ung thư. Một số các hóa chất giúp cho việc điều
tiết và kiểm soát tăng trưởng, phát triển ung thư:
IP6 ức chế sự phát triển tế bào ung thư và sự phát triển chu kỳ tế bào
Một khả năng nổi bật của IP6 như chất chống ung thư đã được xác nhận trong các mô
hình thực nghiệm và các điều kiện khác nhau. Nó được chứng minh làm giảm sự tăng
sinh tế bào, tăng cường miễn dịch, chống oxy hóa và giúp đỡ trong việc phá hủy tế bào
khối u.
Silibinin ức chế các thuộc tính khác nhau của tế bào ung thư và sự phát triển
Một số báo cáo đã chỉ ra ngăn ngừa ung thư hiệu quả của Silibinin trong cả cơ thể
sống và trong ống nghiệm mô hình. Silibinin điều biến sự khác biệt giữa sự sống còn của
tế bào bằng cách can thiệp với các biểu hiện cơ quan quản lý chu kỳ tế bào và protein
tham gia vào quá trình chết tế bào. Nó cho thấy tính chống viêm và hoạt động chống di
căn trong nhiều mô hình thực nghiệm. Trong các nghiên cứu bổ sung ở mức độ tế bào và

mô cho thấy rằng nó có thể được áp dụng cho các ứng dụng lâm sàng trong bệnh ung thư
khác nhau và ngăn ngừa độc tính gây ra thông qua hóa trị và xạ trị. Silibinin giữ G1 bằng
cách ức chế hoạt động của kinase CDK4, CDK6, và CDK2 thông qua gia tăng biểu hiện
protein của Cip1/p21 và Kip1/p27. Nó cũng làm giảm sự biểu hiện của cdc2, cyclin B1 và
hoạt động liên kết kinase dẫn đến giữ G2-M trong các tế bào ung thư tuyến tiền liệt.
Silibinin mạnh làm giảm mức độ E2F1, E2F2, E2F3, E2F4 và E2F5. . Silibinin ức chế
Page 7


hoạt động kinase IKKα đi kèm với một sự ức chế trong IkBα phosphoryl hóa và hoạt
động phiên mã NF-ĸB ở androgen tế bào độc lập. Nó gây phosphoryl hóa các ATM
(Ser1981) dẫn bắt giữ chu kỳ tế bào và gây chết tế bào qua Chk2 kích hoạt trong
keratinocytes.
Genistein ức chế đường dẫn tín hiệu khác nhau trong các tế bào ung thư
Genistein được chỉ ra để điều chỉnh sự biểu hiện của nhiều gen có liên quan với sự
kiểm soát của chu kỳ tế bào và gây chết tế bào. Nó cho thấy tác dụng ức chế hoạt hóa của
NF-ĸB và Akt đường tín hiệu được biết đến để duy trì cân bằng nội môi giữa sự tồn tại
của tế bào và chết tế bào. Nó được báo cáo ảnh hưởng đến estrogen và hooc-mon sinh dục
nam qua trung gian của các chất sinh ung thư. Ngoài ra, nó có tính chất chống oxy hóa
mạnh, ức chế sự hình thành mạch máu và di căn. Genistein chặn chu kỳ tế bào trong các
tế bào ung thư bằng cách điều chỉnh xuống cyclin B dẫn đến bắt giữ G2-M. Trong một
liều nó phụ thuộc vào các tế bào ung thư vú, chẳng hạn như là MDA-MB-231, MDAMB-435 và MCF-7 tế bào ung thư. Genistein gây ra apoptosis trong các tế bào ung thư
thông qua kích hoạt caspase-3 và xuống điều chỉnh của Bcl-2, Bcl-xL, và HER-2/neu (Li
et al. 1999; Sakla et al. 2007). Nó ức chế phosphoryl IĸB và NF-ĸB chuyển vị vào nhân,
mà không cho phép ràng buộc của NF-ĸB để nhắm mục tiêu DNA và ức chế sự phiên mã
của NF-ĸB và nó phải phụ thuộc vào các gen ở cuối. Genistein apoptosis cũng được hiển
thị liên quan đến sự ức chế proteasome và cảm ứng của KIP1 / p27, IĸBα, và Bax. Trong
ung thư mô tế bào gan, nó tạo ra apoptosis trong lưới nội chất (ER) gây căng thẳng làm
ảnh hưởng đến quá trình kích hoạt như GADD153 yếu tố phiên mã, m-calpain, GRP78 và
caspase-12. Trong các mô tuyến tiền liệt của con người genistein gây ức chế sự hoạt hóa

của p38MAP kinase và MMP-2, và các tế bào ngăn ngừa các tác động bởi TGF-β, và
cũng ngăn ngừa cytokine gây ra ERK1 / 2 kích hoạt và thúc đẩy tiêu diệt các tế bào
apoptosis. Nó cũng dùng để ức chế sự tăng trưởng Insulin giống như yếu tố phát triển 1
receptor (IGF-1R) báo hiệu dẫn đến ức chế sự tăng sinh tế bào và cảm ứng apoptosis.
Đây là báo cáo để nâng cao chỉ số xạ trị ở tuyến tiền liệt ung thư thông qua việc làm giảm
sự biểu hiện của apyrimidine apurinic endonuclease 1 / oxi hóa khử factor-1 (Banerjee et
al. 2008).
Page 8


Curcumin chặn một số cơ chế viêm và ung thư
Nhiều thí nghiệm đã cung cấp các bằng chứng cho tiềm năng của chất curcumin như
chống xâm hại cho nhiều loại ung thư. Curcumin ức chế một số đường di truyền tín hiệu ở
nhiều cấp độ như thụ thể, các yếu tố phiên mã và các enzyme dẫn đến việc bắt giữ chu kỳ
tế bào và giảm sự sống còn của gen chống gây chết tế bào (Shehzad et al. năm 2010;
Bảng 24.2). Curcumin gây ra chết tế bào và tế bào chu kỳ qua upregulating điều hòa sự
biểu hiện của gen p53 tiếp bằng cảm ứng của Cip1 / p21, Kip1 / p27. Nó ức chế cyclin D1
với CDK4 / CDK6 và PRB phosphoryl hóa như một kết quả của chu kỳ tế bào trong giai
đoạn G1. Nó cũng là một chu kỳ tế bào trong G1 hoặc G2-M giai đoạn trong các tế bào
nội mô mạch rốn (ECV304) qua quy định của CDKI và xuống điều chỉnh của cyclin B1
và cdc2. Curcumin ức chế IKK chịu trách nhiệm cho IĸB phosphoryl hóa, và ức chế NFĸB Kích hoạt và gây ra chết tế bào. Trong các tế bào ung thư ruột kết, nó gây độc qua
caspase-3 kích hoạt, gia tăng biểu hiện Bax, cytochrome c phát hành và tăng p53, cùng
với việc giảm sự biểu hiện của Bcl-2 và Bcl-xL. Curcumin ức chế sự hoạt động của TPAinduced của ERK cũng như kích hoạt phiên mã của NF-ĸB dẫn đến giảm biểu hiện của
MMPs trong các tế bào biểu mô ung thư vú ở người Trong các khối u não, curcumin
down-regulated sự biểu hiện của MMP-9 qua ức chế NF-ĸB và AP-1 liên kết với các khu
vực DNA promoter (Shehzad et al. 2010). Do đó, chất curcumin là mục tiêu trên con
đường của các tế bào ung thư.
Luteolin ức chế sự di động và sự sống còn của tế bào ung thư
Luteolin cũng được chứng minh là có tác dụng ngăn ngừa ung thư trong nhiều thử
nghiệm mô hình. Đó là quan sát để gây ra apoptosis để đáp ứng với quy định oxi hóa khử

và thiệt hại DNA. Nó ức chế sự hoạt hóa của nhiều kinase protein dẫn đến ức chế tế bào
ung thư tăng sinh, di căn và mạch. Nó gây ra khả năng gây độc bằng cách ngăn chặn các
con đường sinh tồn của tế bào và kích hoạt con đường tự hủy (Lin et al. 2008). Một số
phần của hợp chất này được chuyển đổi để glucuronides đi qua niêm mạc ruột (Shimoi et
al. 1998). Đáng chú ý, đó là thấm qua hàng rào máu não (Wruck et al. 2007). Luteolin có
tác dụng phòng chống ung thư trong cơ thể và làm giảm tốc độ tăng trưởng khối u thông
qua hiệu ứng gây độc tế bào (Bảng 24.2). Luteolin gây ra vụ bắt giữ G1 lên quy định của
Page 9


Kip1 / p27 và Cip1 / p21 và ức chế hoạt động CDK2 trong OCM-1 khối u ác tính và HT29 các tế bào ung thư đại trực tràng. Nó ức chế IGF-1R và Akt gây ra bởi IGF-1 và dẫn ức
chế phosphoryl p70S6K1, GSK-3β, và FKHR / FKHRL1, các mục tiêu Akt, đó là liên kết
với sự đàn áp của D1 cyclin và khuếch đại Cip1 biểu / p21. Trong các tế bào gan của con
người, luteolin tăng sự biểu hiện Fas và tạo ra chết tế bào gây ra sự suy thoái STAT3,
cũng như thông qua các cảm ứng của tổn thương DNA và kích hoạt p53. Luteolin ức chế
sự biểu hiện các chất ức chế apoptosis và anti-apoptosis Bcl-2 protein gia đình. Nó ức chế
PKC hoạt động, trong đó giảm XIAP bởi ubiquitination và suy thoái proteasomal. Trong
các tế bào ung thư biểu mô tế bào gan, luteolin giảm mức độ Bcl-XL và tăng tỷ lệ của
Bax / Bcl-xL để kích thích quá trình apoptosis. Hơn nữa, luteolin cho thấy sự ức chế đến
MMP, trong một số trường hợp thông qua ức chế NF-ĸB tín hiệu (Lin et al. 2008). Như
vậy, luteolin có mục tiêu trong việc truyền đạt các hoạt động ngăn ngừa ung thư của nó.
Resveratrol ức chế thuộc tính khác nhau của sự tăng trưởng ung thư
Resveratrol hoạt động trên nhiều con đường di truyền tín hiệu trong các tế bào ung
thư dẫn đến bắt giữ trong tế bào tiến triển chu kỳ, cảm ứng apoptosis và giảm viêm, mạch
và di căn. Ngoài ra, resveratrol cho thấy hoạt động oxy hóa gây thiệt hại DNA mà còn dẫn
đến bắt giữ chu kỳ tế bào và apoptosis (Athar et al 2009;. Bảng 24.2). Resveratrol điều
chỉnh chu kỳ tế bào qua Rb, CDK, cyclin và quy định c-myc. Nó gây ra apoptosis qua p53
điều hòa tăng và xuống điều chỉnh của anti-apoptosis Bcl-2, Bcl-XL, XIAP, survivin và
TRAF2. Resveratrol kích hoạt gen SIRT1 liên quan đến quá trình apoptosis. Resveratrol
cũng ức chế mạch và di căn thường thông qua điều chỉnh sự biểu hiện của MMPs, VEGF,

cathepsin D, ICAM-1 và E-selectin. Nó cũng cho thấy tác dụng chống oxy hóa mà là qua
trung gian thông qua cảm ứng của enzyme chống oxy hóa như glutathione peroxidase,
hemoxygenase, catalase và superoxide dismutase. Như vậy, resveratrol có tiềm năng cho
nhiều mục tiêu để ngăn chặn sự tăng trưởng và phát triển của ung thư.
2.3.2.

Chế độ ăn kiêng chứa hóa chất thực vật trong việc điều trị bệnh

ung thư
Có một số hóa chất thực vật trong chế độ ăn kiêng thể hiện giá trị phòng ngừa và điều
trị. Theo truyền thống, nhiều nguồn thực vật được sử dụng cho mục đích y tế và một số
Page 10


trong số chúng đã cho thấy hiệu quả của chúng như là các nhóm chống ung thư. Có rất
nhiều các cây thuốc và thực vật vẫn chưa được khoa học khám phá cho vấn đề làm thuốc.
Ở Ấn Độ, người ta dự đoán hơn 90% số cây thuốc như vậy cần phải được các nhà khoa
học xem xét để xác nhận khoa học của mình. Tuy nhiên, nhiều nhóm trong số các nguồn
thực vật này đã được sử dụng trong dạng thuốc Ayurvedic cho các bệnh khác nhau. Các
nghiên cứu với một số nguồn thực vật cho thấy hoạt tính chống ung thư của nó trong các
thí nghiệm, và các nguyên tắc hoạt động đã được xác định. Dưới đây là một số chất có
hiệu quả ngăn ngừa ung thư và các cơ chế liên quan của một số hóa chất thực vật hoạt
động và chống lại bệnh ung thư 1 cách khác nhau.
Carnosol
Carnosol là hợp chất polyphenolic tìm thấy trong cây hương thảo (Rosmarinus
officinalis) và cây xô thơm (Salvia carnosa) đã được sử dụng để chế biến thực phẩm và
dược liệu dùng nhiều ở châu Âu. Nó được phân lập lần đầu tiên từ cây xô thơm vào năm
1942 và cấu trúc hóa học của nó đã được đưa ra bởi Brieskorn (Johnson 2011;. Brieskorn
et al 1964). Nó cho thấy tác dụng chống ung thư trong tuyến tiền liệt (Johnson et al. 2008,
2010a, b), vú (Hussein et al. 2007), da (Mengoni et al 2011;. Huang et al 1994), bệnh

bạch cầu (Zunino và Bão năm 2009; Dorrie et al. 2001) và ung thư ruột kết (Cheng et al.
2011). Các nghiên cứu cho thấy tiềm năng của carnosol với bệnh ung thư như protein
apoptosis (Cheng et al. 2011), NF-ĸB (Lian et al. 2010), AMPK đường (Johnson et al.
2008), các thụ thể androgen và estrogen (Johnson et al. 2010b) và PI3K / Akt (Martin et
al. 2004). Tất cả kết quả trên chủ yếu dựa trên các nghiên cứu trong các mô hình nuôi cấy
tế bào và động vật do đó các nghiên cứu được lưu lại trong các mô hình động vật để
chứng minh hoạt động của nó như là một cách ngăn ngừa ung thư.

5-Deoxykaempferol
Nó là một flavonol tự nhiên được phân lập từ lá xương cựa beckari (Hasan et al.
2010). Nó đã được tìm thấy để nhằm mục tiêu Src, PI3K và ribosome S6 kinase (RSK2) ở
trong ống nghiệm cũng như nghiên cứu những con chuột bị ung thư da (Lee et al. 2010c).
Page 11


Nó cho thấy tác dụng ngăn ngừa ung thư do UVB gây ra hai giai đoạn ung thư da cũng
như ức chế UVB gây ra COX-2 và biểu VEGF (Lee et al. 2010c). Những dữ liệu này
được dựa trên các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm cùng một loại điều kiện; nó cần
nghiên cứu thêm để đánh giá hiệu quả và độc tính trong các mẫu ung thư khác nhau. Tuy
nhiên, 5- deoxykaempferol có tiềm năng là một chất ngăn ngừa ung thư.
Deguelin
Deguelin là dẫn xuất của rotenoid được tìm thấy trong loài Mundulea có hoa và nó là
một chất chống ung thư được đưa ra từ năm 1997 bởi các nhóm nghiên cứu khác nhau.
Deguelin cho ta biết phạm vi hoạt động của chất chống ung thư với các bệnh ung thư lúc
trước như ung thư dạ dày (Lee et al 2010c.), ung thư vú (Chu et al. 2011), tuyến tiền liệt
(Thamilselvan et al. 2011), phổi (Hu et al. 2010) và bệnh bạch cầu (Wu et al. 2007a, b).
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng deguelin có liên quan với ung thư với nhiều con
đường bao gồm PI3K / Akt (Chu et al.2011), glycogen synthase kinase-3 β/β -. Catenin
đường (Thamilselvan et al 2011), protein sốc nhiệt 90 (Kim 2009c et al.), NF-ĸB (Datetal.
2008), antiangiogenesis và apoptosis cảm ứng (Lee et al. 2008). Tuy nhiên, nhiều nghiên

cứu cần thiết trong tương lai lại cho sự hiệu quả và an toàn trong các mô hình động vật để
chứng minh điều đó là điều hữu ích trong việc ngăn ngừa ung thư.
Trà Rooibos
Rooibos (Aspalathus linearis) là cây họ đậu được tìm thấy ở Nam Phi. Nó được sử
dụng như trà thảo dược và được gọi là trà đỏ hoặc trà đỏ châu Phi. Nó được sử dụng trong
kết hợp với bụi cây (lessertia frutescens), vỏ hạt gấu vuốt (Harpagophytum procumbens)
và Bambara lạc (Vignea subterranean) để điều trị một số malig-nancies và các rối loạn
ammatory fl ở châu Phi (Na et al. 2004). Nó cho thấy hiệu lực ức chế trên NF-ĸB trong
cách liều phụ thuộc và cũng ức chế TPA-induced COX-2 biểu thức (Na et al. 2004). Các
nghiên cứu liên quan đến trà rooibos đang trong giai đoạn đầu và cần thêm nghiên cứu để
chứng minh tính ứng dụng của nó ở mức độ lâm sàng.
Dinh dưỡng, chế độ ăn trong việc ngăn ngừa ung thư

Page 12


Sử dụng hóa chất ngăn ngừa ung thư đã được tập trung nghiên cứu chuyên sâu sau
hơn hai thập kỷ. Bằng chứng dịch tễ học đã cho thấy một phần nhỏ, nhưng quan trọng
không thể thiếu là mối liên hệ giữa trái cây và tiêu thụ rau an toàn và giảm nguy cơ ung
thư. Chế độ ăn uống có thể chiếm khoảng 35% nguyên nhân các bệnh ung thư. Việc tuyên
bố rộng rãi đạt hiệu quả trong việc thực hiện chế độ ăn đặc biệt trong việc xác định một
người có nguy cơ phát triển ung thư, từ bảo vệ chống lại bệnh ung thư khi bắt đầu, tiến
triển và di căn. Một mảng rộng các thành phần thức ăn đã được chứng minh là có hiệu
quả trong việc chiến đấu với ung thư. Hướng tới một sự hiểu biết tăng các chất dinh
dưỡng, tập thể dục và chế độ ăn uống trong việc ngăn ngừa bệnh ung thư hoặc ức chế sự
tiến triển của nó đã dẫn đến việc phát hiện và phát triển các loại thuốc mới và hiệu quả,
điều chỉnh tín hiệu của nội bào trong cơ thể. Đây là một thông tin có thể rất hữu ích để
khám phá mới lạ và nâng cao chiến lược ngăn ngừa ung thư hiệu quả cho việc giảm gánh
nặng sức khỏe của bệnh ung thư.
3. Kết luận

Tất cả các chất phytochemical thảo luận ở trên có cấu trúc hóa học đa vòng như vậy
nó có kích thước lớn và tan ít nước mà không tạo ra các vấn đề sinh hóa khác. Điều này
có thể được cải thiện bằng cách sử dụng các hãng thuốc như dendrimer polyamidoamine
trong đó tăng cường độ hòa tan và sinh hóa của SILYBIN (Huang et al. 2011). Nghiên
cứu sâu hơn đòi hỏi tiềm năng vận chuyển của hệ thống phân phối như Nanocurc Tm
chuyển giao curcumin với hạt nano (Bisht et al. 2010) và nhận biết các cơ chế ở cấp độ.
Các phương pháp điều trị hiện nay như hóa trị, xạ trị, phẫu thuật, miễn dịch và liệu
pháp gen có nhiều hạn chế, tác dụng phụ, đắt tiền và độc hại hơn so với phytochemicals.
Chế độ ăn và khống chế độ ăn uống phytochemicals đã cho thấy tiềm năng của họ để điều
trị ung thư andmany của themare ở thử nghiệm lâm sàng cho vài bệnh ung thư. Vì nhiều
trong số họ là một phần của chế độ ăn bình thường, WHO cho thấy rằng bằng cách sử
dụng chế độ ăn lành mạnh thường xuyên chúng ta có thể tiết kiệm nhiều cuộc sống ung
thư ở mức độ lớn hơn hoặc có thể cung cấp nơi trú ẩn hoàn toàn hoặc không đầy đủ từ
ung thư. tiến bộ như vậy, tốt hơn trong nghiên cứu phytochemicals hoạt tính sinh học và

Page 13


công chúng nâng cao nhận thức cho các hợp chất như vậy chắc chắn sẽ giúp cải thiện sức
khỏe cộng đồng.

Tài liệu tham khảo

Page 14


[1] Agarwal C, Dhanalakshmi S, Singh RP, Agarwal R (2004) Inositol hexaphosphate

inhibits growth and induces G1 arrest and apoptotic death of androgen-dependent human
prostate carcinoma LNCaP cells. Neoplasia 6(5):646–659

[2] Berge G, Øvrebø S, Eilertsen E, Haugen A, Mollerup S (2004) Analysis of

resveratrol as a lung cancer chemopreventive agent in A/J mice exposed to
benzo[a]pyrene. Br J Cancer 91(7): 1380–1383
[3] Arts IA (2005) Polyphenols and disease risk in epidemiologic studies. Am J Clin

Nutr 81: 317S–325S
[4] Aggarwal B, Sundaram C, Malani N, Ichikawa H (2007) Curcumin: the Indian

solid gold. Adv Exp Med Biol 595:1–75
[5] Banerjee S, Li Y, Wang Z, Sarkar F (2008) Multi-targeted therapy of cancer by

genistein. Cancer Lett 269(2):226–242
[6] Bang CI, Paik SY, Sun DI, Joo YH, Kim MS (2008) Cell growth inhibition and

down-regulation of survivin by silibinin in a laryngeal squamous cell carcinoma cell line.
Ann Otol Rhinol Laryngol 117(10):781–785
[9] Athar M, Back JH, Kopelovich L, Bickers DR, Kim AL (2009) Multiple

molecular targets of resveratrol: anti-carcinogenic mechanisms. Arch Biochem Biophys
486(2):95–102
[10] Baci´ c I, Druzijani´ c N, Karlo R, Skifi´ cI,Jagi´ c S (2010) Efficacy of IP6

inositol in the treatment of breast cancer patients receiving chemotherapy: prospective,
randomized, pilot clinical study. J Exp Clin Cancer Res 29(1):1–5
[11] Bai Y, Mao QQ, Qin J, Zheng XY, Wang YB, Yang K et al (2010) Resveratrol

induces apoptosis and cell cycle arrest of human T24 bladder cancer cells in vitro and
inhibits tumor growth in vivo. Cancer Sci 101(2):488–493


Page 15


[12 ] />[13] />
thu-the-gioi-332534.html
[14] 3.Nutrition-Diet-and-Cancer.pdf – Foxit reader-chương 24 (Samilar Sankar

Rakesh K, Srivastava Editors)

Page 16



×