Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Luận văn sư phạm Sự vận dụng phương pháp đàm thoại ttrong dạy học môn giáo dục công dân trong trường trung học phổ thông ở Việt Nam hiện na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.27 KB, 71 trang )

Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA: GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ: LÊ THỊ THÁI

TÊN ĐỀ TÀI:
SỰ VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP ĐÀM THOẠI
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN TRONG TRƢỜNG THPT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp giáo dục công dân

HÀ NỘI – 2012
SVTH: Lª ThÞ Th¸i

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo Nguyễn


Quang Thuận, người thầy đã nhiệt tình hướng dẫn em trong suốt quá trình
nghiên cứu để em hoàn thành khóa luận này.
Qua đây em cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo
dục Chính trị đã tạo điều kiện giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận tốt ngiệp
này.
Vì điều kiện thời gian có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu
sót. Em rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của các thầy cô và các bạn để
đề tài này ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Lê Thị Thái

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng em
dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo Nguyễn Quang Thuận, không trùng
khớp với bất cứ công trình nghiên cứu nào đã được công bố trước đó.
Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Lê Thị Thái


SVTH: Lª ThÞ Th¸i

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG………………………………………………………………… .. 6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY
HỌC MÔN GDCD .......................................................................................... 6
1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học GDCD ............................................. 6
1.2. Đặc điểm cơ bản của môn GDCD trong trường THPT ........................... 12
1.3. Phương pháp đàm thoại trong dạy học môn GDCD………………….. .. 19
CHƢƠNG 2: VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP ĐÀM THOẠI TRONG
DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƢỜNG THPT HIỆN NAY ...................... 32
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc vận dụng phương pháp đàm thoại trong
dạy học môn GDCD ở trường THPT hiện nay ............................................... 32
2.2. Thực trạng việc vận dụng phương pháp đàm thoại trong dạy học môn
GDCD trong trường THPT ở Việt Nam hiện nay........................................... 45
2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên ............................................................. 48
2.4. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
GDCD và hiệu quả trong việc vận dụng phương pháp đàm thoại trong giảng
dạy môn GDCD ở trường THPT ..................................................................... 53
2.5. Vận dụng phương pháp đàm thoại vào bài 14: “Công dân với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” chương trình GDCD lớp 10 ............................ 54

KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 65

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. GDCD: Giáo dục công dân
2. THPT: Trung học phổ thông
3. THCS: Trung học cơ sở
4. TCCN: Trung cấp chuyên nghiệp
5. PPDH: Phương pháp dạy học
6. GV: Giáo viên
7. HS: Học sinh
8. SGK: Sách giáo khoa
9. BGH: Ban Giám hiệu
10. GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo
11. DVBC: Duy vật biện chứng
12. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
13. TBCN: Tư bản chủ nghĩa
14. CNH – HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
15. ĐHSP: Đại học Sư phạm
16. VD: Ví dụ
17. Nxb: Nhà xuất bản

18. BCHTW: Ban Chấp hành Trung ương
19. ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
20. ĐHĐB: Đại hội đại biểu

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục công dân (GDCD) là một bộ môn khoa học có vị trí, vai trò
hết sức quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông. Nó có chức năng
trực tiếp giáo dục phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh, góp phần xây
dựng nên những công dân XHCN, cung cấp kiến thức phù hợp với yêu cầu
của thời đại mới thông qua toàn bộ hệ thống chương trình môn học. Tuy
nhiên, thực tế dạy học cho thấy rằng, việc học GDCD ở trường THPT nói
chung cả về chất lượng dạy và học đã và đang suy giảm một cách đáng báo
động, đòi hỏi phải không ngừng đổi mới về phương pháp dạy học. Khác với
môn khoa học khác, môn GDCD trực tiếp hình thành ở học sinh phẩm chất
chính trị, tư tưởng, đạo đức tốt đẹp của người công dân tương lai có thế giới
quan khoa học nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức trong sáng, ra sức thực
hiện đường lối và nhiệm vụ cách mạng đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có ý thức trách nhiệm cao đối với
đất nước.
Môn GDCD có nhiệm vụ giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ

bản, phổ thông của triết học Mác - Lênin về tự nhiên và xã hội, về sự vận động
và phát triển theo những quy luật khách quan và vấn đề con người có thể nhận
thức được những quy luật ấy, hiểu được những kiến thức cơ bản của bộ môn
kinh tế chính trị, hiểu được các quy luật vận động của thị trường, hiểu biết về
pháp luật. Từ đó, biết vận dụng những kiến thức cơ bản vào trong cuộc sống…
Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ của môn GDCD ở trường THPT,
đòi hỏi phải có sự quan tâm đúng mức của những người làm công tác giáo
dục mà đặc biệt là những người giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này. Họ
phải biết sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp trong quá trình dạy học

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

1

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

để giảm đi sự nặng nề của môn học, giúp cho học sinh có hứng thú học tập
môn GDCD, để học sinh tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức, từ đó nâng cao
chất lượng hiệu quả học tập môn GDCD góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo
con người, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong hệ thống các PPDH, phương pháp đàm thoại là một trong những
phương pháp phát huy tốt tính tích cực của học sinh. Phương pháp đàm thoại
giúp học sinh tiếp thu kiến thức, lĩnh hội tri thức của môn học một cách nhanh
nhất.
Thực tiễn dạy học những năm gần đây cho thấy phương pháp đàm thoại

là một PPDH không thể thiếu trong quá trình dạy học môn GDCD. Tuy nhiên,
việc sử dụng phương pháp đàm thoại khi dạy học không phải là điều dễ dàng
đối với tất cả các giáo viên giảng dạy bộ môn này.
Do vậy, việc xây dựng phương pháp giảng dạy môn GDCD ở trường
THPT nhằm mục đích nâng cao nhận thức về bộ môn và nâng cao vai trò của
bộ môn ngang tầm phát triển của con người nói riêng và của xã hội nói chung,
là một trong những yêu cầu cấp thiết.
Phương pháp đàm thoại là phương pháp có thể đáp ứng những yêu cầu,
đòi hỏi cấp thiết trên, phương pháp này giúp hình thành tri thức cho HS ngay
từ trên lớp và giúp HS nắm được nội dung mà bài học đặt ra, kích thích tư duy
sáng tạo, trang bị thế giới quan khoa học, niềm tin khoa học định hướng cho
HS sự hiểu biết đúng đắn về thế giới, con người và xã hội.
Từ những lý do trên em đã chọn đề tài “Sự vận dụng phƣơng pháp
đàm thoại trong dạy học môn GDCD trong trƣờng THPT ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việc đổi mới phương pháp trong quá trình dạy và học ở bậc THPT
nhằm nâng cao chất lượng trong dạy học, từ trước đến nay đã được quan tâm

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

2

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp


nghiên cứu dưới nhiều góc độ và cách thức khác nhau. Nhiều công trình
nghiên cứu của các tác giả đã có những đóng góp to lớn như:
- Lý luận dạy học đại cương, (Nguyễn Ngọc Quang, Trường cán bộ
Quản lý Giáo dục Trung ương 1, 1989)
- Đổi mới PPDH theo hướng hoạt động hóa người học (Phan Ngọc
Liên, thông báo khoa học, Bộ Giáo dục và đào tạo, 1994).
- Thiết kế bài học theo phương pháp tích cực (Nguyễn Kỳ, Trường cán
bộ Quản lý Giáo dục và đào tạo, 1994)
- Phương pháp giảng dạy GDCD dùng cho THPT (Phùng Văn Bộ
(chủ biên), Trường ĐHSP Hà Nội 1, 1994)
- Phương pháp và tư liệu giảng dạy môn GDCD (Lê Đức Quảng, Nxb
Giáo dục, 1998)
- Dạy học và Phương pháp dạy học trong nhà trường (Phan Trọng
Ngọ, Nxb ĐHSP, 2005)
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau
của việc vận dụng các nhóm PPDH tích cực trong dạy học môn GDCD ở bậc
THPT hoặc đi sâu vào việc khai thác tính hiệu quả của việc vận dụng một
dạng PPDH cụ thể nào đó như: nêu vấn đề, thảo luận nhóm, trực quan… trong
dạy học môn GDCD. Tuy nhiên, cho đến nay có rất ít công trình nghiên cứu
việc vận dụng phương pháp đàm thoại trong quá trình dạy học môn GDCD ở
trường THPT một cách cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng phương pháp đàm thoại trong dạy học môn GDCD ở trường
THPT trên cơ sở đó đi tới tổng hợp, khái quát hóa và nghiên cứu lý luận, quy
trình soạn thảo và thực hiện phương pháp đàm thoại trong dạy học bộ môn, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn GDCD ở trường THPT ở nước ta.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i


3

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Phát huy năng lực tư duy, sáng tạo của học sinh thông qua việc chủ
động tích cực trong lĩnh hội tri thức mới.
Nhằm xây dựng cho mình một phương pháp dạy học mới.
Tìm hiểu phương pháp đàm thoại trong giảng dạy môn GDCD trong
trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của phương pháp dạy học
Tìm hiểu cơ sở lý luận chung và thực tiễn của phương pháp đàm thoại
Tìm hiểu các hình thức của phương pháp đàm thoại trong giảng dạy
môn GDCD
Vận dụng vào bài 14 “Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” trong chương trình GDCD lớp 10.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Cơ sở lý luận chung của phương pháp dạy học và phương pháp đàm
thoại trong dạy học môn GDCD.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vận dụng phương pháp đàm thoại trong dạy học
môn GDCD ở trường THPT.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin

như sử dụng các thao tác tư duy: đánh giá, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều
tra trong thực tiễn giảng dạy và dự giờ.
6. Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài khóa luận sẽ phát triển lý luận của phương pháp dạy học truyền
thống làm phát huy những ưu điểm của phương pháp đàm thoại và hạn chế
những khuyết điểm để phương pháp đàm thoại được vận dụng trong giảng
dạy môn GDCD.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

4

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Đề tài khóa luận góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD,
nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của quá trình dạy học môn GDCD ở trường THPT.
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của khóa luận bao gồm 2 chương 8 tiết.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

5


Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1. Quan niệm về phƣơng pháp dạy học GDCD
1.1.1 Quan niệm về phƣơng pháp và phƣơng pháp dạy học
* Quan niệm về phương pháp
“Phương pháp” là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “Methodos”
nghĩa là “con đường nghiên cứu”, “cách thức nhận thức” nguyên văn là con
đường đi tới một cái gì đó; có nghĩa là cách thức đạt tới mục đích.
Trong thực tế, phương pháp còn được hiểu là hệ thống những quy tắc,
nguyên tắc, quy phạm dùng để chỉ đạo kỹ thuật, là tổ hợp các bước đi, là quy
trình mà trí tuệ phải đi theo để tìm ra và chứng minh chân lý, phương pháp
còn được hiểu theo nghĩa là kế hoạch được tổ chức hợp lý trong quản lý…
Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện để
đạt tới mục đích nhất định, là hoạt động sắp xếp theo một trật tự nhất định để
giải quyết những nhiệm vụ nhất định trong nhận thức và trong thực tiễn.
Phương pháp bao gồm hai mặt: Mặt khách quan và mặt chủ quan. Các
quy luật khách quan chi phối đối tượng mà chủ thể phải ý thức được tạo thành
mặt khách quan của phương pháp.
Phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của con
người, giúp con người nhận thức được hiện thực khách quan, nhận thức được
thực tiễn, mà hiện thực khách quan và thực tiễn vận động theo quy luật khách
quan của bản thân và chịu sự tác động hợp quy luật của thế giới xung quanh.

Do đó, phương pháp là một trong những yếu tố quyết định thành công hay
thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người. Không
có phương pháp con người sẽ hành động không có kết quả, thậm chí phạm sai
SVTH: Lª ThÞ Th¸i

6

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

lầm thất bại, đúng như R.ĐềCác nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII khẳng định:
Thiếu phương pháp thì người tài cũng có thể không đạt kết quả, có phương
pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi thường.
Phương pháp tồn tại và gắn bó với mọi hoạt động của con người. Đối
tượng của hoạt động đều có nội dung và hình thức vận động. Chủ thể được
đánh giá là có phương pháp khi chủ thể đó thao tác đúng với hình thức vận
động của đối tượng ấy. Phương pháp quyết định đi đến khả năng nhanh hay
chậm, quyết định sự thành công. Phương pháp, là cách thức con đường giải
quyết nhiệm vụ để đạt tới mục đích nhất định. Phương pháp có bốn đặc điểm
chính, đó là:
- Tính mục đích: Con người sử dụng phương pháp nhằm đạt được một
mục đích nhất định bằng con đường ngắn, tối ưu nhất.
- Tính cấu trúc có hệ thống: Phương pháp là tư duy khoa học điều hành
khác với lối tư duy tự phát, phương pháp mang tính chất cấu trúc, hệ thống.
- Phương pháp gắn liền với nội dung: Phương pháp bao giờ cũng gắn
với một nội dung và cơ sở lý luận nhất định, có thể nói nội dung quyết định

phương pháp, phương pháp gắn liền với đối tượng, đối tượng nào phương
pháp đó.
- Cơ sở của phương pháp lý thuyết: Lý thuyết bao giờ cũng có trước,
phương pháp hình thành sau, nhưng ngược lại, khi đã có hệ thống phương
pháp hoàn chỉnh, nó sẽ tác động lại nội dung, làm cho nội dung phát triển lên
những bước mới có chất lượng cao hơn.
* Quan niệm về phương pháp dạy học.
Trong giáo dục nói chung, dạy học nói riêng, rất cần có phương pháp.
Phải giúp cho người học bằng sự nỗ lực cố gắng của bản thân, dưới sự hướng
dẫn của giáo viên chiếm lĩnh được kiến thức bằng con đường ngắn nhất. Vì
thế kết quả giáo dục cũng như dạy học trong nhà trường không chỉ đánh giá ở

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

7

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

mặt nội dung mà ở cả mặt phương pháp. Để có phương pháp đúng, con người
không thể chỉ tích lũy kinh nghiệm thực tiễn, mà trên cơ sở kinh nghiệm con
người cần lựa chọn, phân tích rút ra những cơ sở lý luận để chỉ đạo hoạt động
thực tiễn. Do đó việc dạy học không thể chỉ tiến hành bằng kinh nghiệm, bằng
cách đơn giản mà phải dựa vào cơ sở lý luận khoa học về phương pháp được
đúc kết từ thực tiễn, có như vậy quá trình dạy học mới đạt kết quả cao hơn,
vững chắc hơn.

Trong nhà trường, quá trình dạy học bao gồm rất nhiều yếu tố tác động
qua lại với nhau. Trong phạm vi hoạt động trên lớp của người dạy và người
học, quá trình dạy học gồm 3 yếu tố cơ bản: Nội dung môn học, người dạy,
A

người học.
A. Nội dung môn học
B. Người dạy
C. Người học

B

C

Quan hệ giữa A và B là quan hệ xử lý thông tin khoa học của người
dạy. Thông tin khoa học là nội dung tri thức đã được xác định trong SGK và
mang tính pháp lệnh.
Quan hệ giữa B và C là quan hệ tiếp nhận thông tin của người học. Sau khi
đã xử lý đầy đủ, chính xác các thông tin người dạy tìm ra phương thức chuyển
giao thông tin phù hợp với khả năng tiếp nhận thông tin của người học.
Quan hệ giữa C và A là quan hệ xử lý thông tin đã thu nhận được của
người học. Sau khi đã tiếp nhận thông tin do người dạy chuyển giao, người
học phải xử lý thông tin đó, biến tri thức khoa học thu nhận được thành tri
thức của bản thân mình.
Quan hệ giữa các yếu tố cơ bản của quá trình dạy học tạo thành một
vòng khép kín, vòng này là tiền đề cơ sở cho vòng khác tiếp tục. Việc thực
SVTH: Lª ThÞ Th¸i

8


Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

hiện liên tiếp các vòng đó của người dạy và người học sẽ giúp người dạy hình
thành và xây dựng phương pháp dạy học bộ môn với tư cách là khoa học giúp
người học nâng dần nhận thức khoa học và có thái độ học tập đúng đắn.
Bản chất của dạy học là quá trình xử lý, chuyển giao thông tin tri thức
của người dạy và quá trình thu nhận, xử lý thông tin đó của người học. Tính
hiệu quả của quá trình này không những phụ thuộc vào chất lượng của thông
tin mà quan trọng là phụ thuộc vào phương pháp thực hiện hoạt động đó. Vì
vậy để đạt hiệu quả người dạy cần có những phương pháp dạy học thích hợp.
Trong thực tiễn căn cứ vào các cấp độ của quá trình dạy học, khái niệm
phương pháp dạy học là khái niệm đa cấp độ.
- Cấp độ rộng nhất: Phương pháp dạy học là những quan điểm tư tưởng
về tổ chức dạy học, là cách thức triển khai của một hệ thống dạy học đa tầng,
đa diện cho một bậc học, cấp học, ngành học, phương thức học.
- Cấp độ thứ hai: Phương pháp dạy học là chiến lược và mô hình dạy
học, là cách thức triển khai một quá trình dạy học cụ thể, diễn ra theo một quá
trình, trong một không gian, thời gian nhất định và được cấu trúc bởi mục
tiêu, nội dung dạy học và các hoạt động dạy - học và kết quả dạy học.
- Cấp độ thứ ba: Phương pháp dạy học là những phương pháp dạy học
cụ thể, là cách thức tiến hành các hoạt động của người dạy và người học nhằm
thực hiện một nội dung dạy học đã được xác định.
Những cấp độ đó cho thấy phương pháp dạy học không phải là một
thực thể độc lập vì mục đích tự thân mà phương pháp dạy học chỉ là hình thức
vận động của một hoạt động đặc thù: hoạt động dạy học. Do đó trong lý luận

dạy học có khá nhiều khái niệm về phương pháp dạy học.
- N.M Veczilin và V.M Coocxunskaia: “Phương pháp dạy học là cách
thức thầy truyền đạt kiến thức, đồng thời là cách thức lĩnh hội của trò”.
- Nguyễn Ngọc Quang (1970): “Phương pháp dạy học là tổ hợp cách thức
làm việc của thầy và của trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của
thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học”.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

9

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

- Đặng Vũ Hoạt (1971): “Phương pháp dạy học là tổ hợp cách thức hoạt
động của thầy và trò trong quá trình dạy học, được tiến hành dưới vai trò chỉ
đạo của thầy nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học”.
- Đinh Quang Báo (2000): “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt
động của thầy tạo ra mối liên hệ qua lại với hoạt động của trò để đạt mục đích
dạy học”.
- Trần Bá Hoành (2002): “Phương pháp dạy học là con đường cách thức
giáo viên hướng dẫn, tổ chức chỉ đạo các hoạt động học tập tích cực, chủ
động của học sinh nhằm đạt các mục tiêu dạy học”.
- Kazansky – Nazarova, lý luận dạy học, (sách dịch 1978). “Phương
pháp dạy học là cách thức làm việc của giáo viên và học sinh để học sinh lĩnh
hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo”.

- Iu. K. Babansky, giáo dục học, Matxcơva, (1983) “ Phương pháp dạy
học là những cách thức hoạt động tương tác được điều chỉnh của giáo viên và
học sinh hướng vào việc giải quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển trong quá trình dạy học”.
- Nguyễn Ngọc Quang, lý luận dạy học đại cương, Hà Nội, 1989.
“Phương pháp dạy học là con đường chính yếu, cách thức làm việc phối hợp,
thống nhất của thầy và trò, trong đó thầy truyền đạt nội dung trí dục để trên cơ
sở đó và thông qua đó chỉ đạo sự học tập của trò, còn trò lĩnh hội và tự chỉ
đạo sự học tập của bản thân để cuối cùng đạt tới mục đích dạy học”.
- Giáo dục học, Nxb Giáo dục, (1996) “Phương pháp dạy học là tổ hợp
những thao tác phải tự giác liên tiếp được sắp xếp theo một trình tự hợp lý,
hợp quy luật khách quan mà chủ thể tác động lên đối tượng, nhằm tìm hiểu và
cải biến nó”.
Như vậy có thể nêu lên một cách khái quát về khái niệm phương pháp
dạy học là: “Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của thầy và trò

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

10

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

trong mối liên hệ qua lại, thầy giữ vai trò chủ đạo, điều khiển, chỉ đạo hướng
dẫn tổ chức các hoạt động học tập của trò một cách tích cực, chủ động nhằm
đạt các mục tiêu dạy học đề ra”.

1.1.2 Phƣơng pháp dạy học Giáo dục công dân
Ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã có những hiểu biết về thế giới
xung quanh nhưng phải đến khi công cụ lao động được cải tiến, sản xuất được
đẩy mạnh, xã hội phân chia thành giai cấp thì khoa học mới ra đời. Khoa học
là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, được xây dựng trên cơ sở nhận
thức hiện thực khách quan, là sự tổng kết những hiểu biết, kinh nghiệm của
con người trong lao động sản xuất và trong quan hệ xã hội nhưng đã đạt đến
trình độ đi sâu vào bản chất sự vật, nêu quy luật vận động của sự vật và đạt
đến trình độ khái quát hóa, trừu tượng hóa. Khoa học được hiểu là hệ thống
những tri thức về mọi quy luật của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy.
Một khoa học được hình thành khi đạt được những tiêu chí nhất định:
Có đối tượng nghiên cứu, tức là một hiện thực khách quan mà người
nghiên cứu tác động vào để tìm hiểu. Mỗi khoa học có một đối tượng nghiên
cứu riêng, không có đối tượng nghiên cứu sẽ không có khoa học.
Có hệ thống lý thuyết bao gồm những khái niệm, phạm trù, định luật,
định lý. Hệ thống lý thuyết này xác định sự tồn tại của một khoa học trong hệ
thống các khoa học.
Có phương pháp luận riêng được xây dựng trên cơ sở thế giới quan,
nhân sinh quan của một giai cấp nhất định.
Có chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu riêng, trong đó,
chức năng là công việc mà mỗi khoa học phải thực hiện, vì sự tồn tại của
mình, phương pháp nghiên cứu là cách tiếp cận với đối tượng riêng của từng
khoa học.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

11

Líp: K34B GDCD



Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Do có đối tượng nghiên cứu khác nhau nên có những khoa học khác
nhau, đồng thời sự phân chia thành các ngành khác nhau lại dẫn tới một số
ngành khoa học có những chỗ gặp nhau, tích hợp với nhau và làm xuất hiện
một số ngành khoa học mới.
Với tư cách là một khoa học, phương pháp dạy học giáo dục công dân
được xem là một bộ phận khoa học giáo dục. Dạy học môn Giáo dục công
dân là quá trình chuyển giao thông tin khoa học của bộ môn giữa giáo viên và
học sinh, nó bao gồm hai quá trình: Quá trình chuyển giao thông tin khoa học
của bộ môn giữa thầy giáo và quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin đó của học
sinh. Hai quá trình này tác động qua lại với nhau, bổ sung cho nhau, tạo điều
kiện tốt cho nhau để hoàn thành toàn bộ quá trình dạy học. Trong sự tác động
đó sẽ bộc lộ những quy luật của quá trình dạy học môn Giáo dục công dân.
Do đó, những giáo viên dạy bộ môn Giáo dục công dân, phải đạt đến trình độ
khái quát những kinh nghiệm phong phú của thực tiễn dạy học môn Giáo dục
công dân, làm cơ sở khoa học cho việc xác định các phương pháp dạy học có
hiệu quả, phù hợp với nội dung, đặc thù tri thức môn học, tâm lý lứa tuổi và
mục tiêu của nhà trường Việt Nam. Từ đó, cho thấy phương pháp dạy học
Giáo dục công dân là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo viên
và học sinh nhằm phát hiện những quy luật của quá trình dạy học môn Giáo
dục công dân, xây dựng hệ thống các nguyên tắc, hình thức và phương pháp
dạy học cụ thể để tổ chức thành công các hoạt động dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường trung học phổ thông.
1.2 Đặc điểm cơ bản của môn giáo dục công dân trong trƣờng THPT.
1.2.1 Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của môn giáo dục công dân trong trƣờng

THPT.
a. Vị trí và đặc điểm của môn Giáo dục công dân trong trường THPT.
Mỗi môn học trong trường phổ thông đều có một vị trí nhất định, việc
xây dựng các môn học trong hệ thống chương trình đều xuất phát từ mục tiêu

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

12

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

đào tạo con người đáp ứng được yêu cầu của đất nước. Điều 27, Luật Giáo
dục nước ta chỉ rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách của con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham
gia xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc”.
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII khẳng định: “Hết sức coi trọng giáo
dục chính trị, tư tưởng nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực
hành” nhằm giữ vững mục tiêu Xã hội chủ nghĩa trong nội dung và phương
pháp giáo dục, đào tạo, góp phần phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Vị trí môn Giáo dục công dân ở nhà trường THPT đã được xác định

trong chỉ thị số 39/1998/CT - BGD&ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo ngày 20/5/1998. Theo đó: “Môn Giáo dục công dân ở trường THPT có vị
trí hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh thông
qua việc cung cấp hệ thống tri thức cơ bản về giá trị đạo đức nhân văn, đường
lối chính sách lớn của Đảng, Nhà nước và pháp luật kế thừa các truyền thống
đạo đức bản sắc dân tộc Việt Nam, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại và thời đại.
Từ mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, mục tiêu của cấp THPT được
xác định như sau: “Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những
hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học Đại học,
Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Môn Giáo dục công dân được xác định là một môn khoa học xã hội, có
vị trí quan trọng trong trường THPT, nó khác với giáo dục công dân theo
nghĩa thông thường.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

13

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Các tri thức của môn Giáo dục công dân được truyền thụ cho học sinh
có thể mang nhiều nội dung khác nhau nhưng đều được coi là tri thức lý luận
chính trị. Những tri thức đó được xây dựng trên các môn khoa học cơ bản

như: Triết học, Đạo đức học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Pháp luật học và các đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, của
Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tri thức của môn Giáo dục
công dân được sắp xếp hợp lý, kết cấu chặt chẽ, logic, phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh, thể hiện rõ tính đặc thù, riêng biệt, đồng thời khuynh
hướng tư tưởng cũng rất rõ ràng và nổi trội so với các môn khoa học khác. Có
thể nêu lên một số đặc điểm như sau:
Một là, nội dung tri thức môn Giáo dục công dân bao gồm phạm vi kiến
thức rộng lớn, bao quát toàn bộ đời sống xã hội, những kiến thức này được
khái quát từ những vấn đề rất gần gũi, thiết thực trong đời sống xã hội,
Hai là, các tri thức của môn Giáo dục công dân mang tính khái quát
cao, tính trừu tượng, tính quy luật, tính logic chặt chẽ. Đây là những tri thức
mang tính định hướng chính trị sâu sắc, nó trực tiếp đề cao đến những vấn đề
chính trị tư tưởng của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản Việt Nam, trực
tiếp xác lập, củng cố định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa cho học sinh.
Toàn bộ nội dung môn Giáo dục công dân từ lớp 10 đến lớp 12 tập trung vào
việc xây dựng cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
phương pháp luận đúng đắn với những biện pháp và hình thức khách quan.
Những kiến thức triết học - nền tảng của thế giới quan, phương pháp luận
khoa học đã trực tiếp giúp học sinh có được định hướng đúng đắn trong hoạt
động thực tiễn, biết cách giải quyết các mối quan hệ của bản thân với cộng
đồng trên các lĩnh vực và ở những phạm vi khác nhau. Những kiến thức về
kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, đạo đức… trực tiếp giúp cho học sinh
bước đầu biết tìm hiểu, phân tích, đánh giá và tự rút ra kết luận đúng đắn về

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

14

Líp: K34B GDCD



Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

những vấn đề nóng bỏng của đất nước và thế giới. Đây là đặc điểm nói lên
khả năng to lớn và trách nhiệm nặng nề của môn giáo dục công dân trong
trường THPT.
Ba là, tri thức của môn Giáo dục công dân mang tính tích hợp, có quan
hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học, nhiều lĩnh vực khoa học khác.
Ví dụ: Nguyên lý về sự phát triển trong triết học có liên quan đến Toán
học, Hóa hoc, Lý học, Sinh học. Khái niệm tồn tại xã hội trong triết học có
liên quan tới địa lý, dân số.
Bốn là, tri thức môn Giáo dục công dân gắn bó mật thiết với hiện thực,
phản ánh một cách sinh động đời sống hiện thực. Nếu việc dạy học những tri
thức của môn Giáo dục công dân tách khỏi thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì sẽ mất hết ý nghĩa và tác dụng. Bởi lẽ
dạy học Giáo dục công dân là dạy để học sinh trở thành người công dân có
tinh thần trách nhiệm của một thành viên hữu ích cho đất nước, có những kiến
thức và kỹ năng cần thiết để tham gia vào một thế giới đang thay đổi nhanh
chóng. Do vậy mà quá trình dạy học bộ môn phải gắn trực tiếp, cụ thể với đời
sống, với việc rèn luyện, tu dưỡng của học sinh.
Cùng với các môn khoa học khác, môn Giáo dục công dân góp phần
hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của người công dân trong
thời đại mới. Song với đặc thù tri thức, môn Giáo dục công dân đã trực tiếp
hình thành niềm tin, lý tưởng và ý thức pháp luật cho các thế hệ công dân của
đất nước Việt Nam. Điều này cho thấy, môn Giáo dục công dân là môn học
giữ vững vai trò chủ chốt trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi,
góp phần hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất và năng lực

cần thiết của người công dân trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Điều đó cho thấy vị trí của môn Giáo dục công dân rất quan trọng, phải
nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí của môn học này thì mới góp phần thực

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

15

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

hiện được “chiến lược con người” mà chúng ta đang triển khai trong cả tư duy
và trong hành động.
b, Chức năng và nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân trong trường
THPT.
Môn Giáo dục công dân trong trường THPT có nhiệm vụ góp phần đào
tạo học sinh thành những người lao động mới, hình thành ở học sinh những
phẩm chất tốt đẹp của người công dân tương lai. Môn Giáo dục công dân có
vai trò quan trọng hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Từ đó, môn giáo dục
công dân có những chức năng cơ bản sau.
- Chức năng giáo dưỡng: Trang bị cho học sinh một cách tương đối có
hệ thống những tri thức phổ thông cơ bản, thiết thực của các môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam, Pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
- Chức năng giáo dục: Bước đầu giáo dục cho học sinh những quan
điểm khoa học và cách mạng. Tư duy mới về thế giới và thời đại, về con

người và cộng đồng về các quá trình xã hội diễn ra trên thế giới và trên đất
nước ta, về cuộc đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa cái
tiến bộ và cái bảo thủ, lạc hậu. Trên cơ sở đó, hình thành niềm tin có cơ sở
khoa học về chế độ xã hội chủ nghĩa - lý tưởng cao đẹp mà con người luôn
luôn mơ ước.
- Chức năng phát triển: Bước đầu phát triển ở học sinh phương pháp tư
duy biện chứng trong nhận thức và hành động, biết phân tích, đánh giá các
hiện tượng xã hội theo quan điểm khoa học và tiến bộ, biết kế thừa những giá
trị tốt đẹp của dân tộc và nhân loại, biết ủng hộ cái mới đúng đắn và tích cực
đấu tranh chống cái cũ, lỗi thời, lạc hậu. Từng bước hình thành ở học sinh
thói quen và kỹ năng vận dụng những tri thức đã học vào cuộc sống, có định
hướng đúng đắn về chính trị, tư tưởng, đạo đức trong các hoạt động xã hội,
trong cuộc sống hiện tại và sau này.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

16

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Các chức năng của môn Giáo dục công dân được gắn liền hữu cơ với
nhau và tác động, ảnh nhưởng lẫn nhau. Nắm tri thức là phương tiện để đi tới
mục đích giáo dục phẩm chất, tư tưởng và hình thành năng lực tư duy không
thể giáo dục chung chung, mà phải giáo dục tư tưởng trên nền tảng của tri
thức khoa học. Tri thức chính là mảnh đất làm nảy sinh quan niệm, ý tưởng và

hành động. Không có tri thức thì không có sự giáo dục nào cả. Môn Giáo dục
công dân góp phần giáo dục cho học sinh niềm tin vào chủ nghĩa xã hội - con
đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Nhưng niềm tin đó phải dựa trên cơ
sở khoa học của các tri thức Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Đạo đức học, Pháp luật học. Điều đó cho thấy những chức năng của
môn Giáo dục công dân có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau và
đều được thực hiện đồng bộ trong quá trình dạy học nhằm tạo ra những năng
lực chủ yếu đáp ứng mục tiêu giáo dục và phát triển con người trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Việc nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, chức năng của
môn Giáo dục công dân sẽ giúp giáo viên tránh được những sai lầm phạm
phải như: Đơn giản hóa, tầm thường hóa những tri thức khoa học của môn
Giáo dục công dân, thiếu tự tin sáng tạo trong giảng dạy bộ môn. Đồng thời
bằng chính năng lực chuyên môn nghiệp vụ, bằng niềm tin, lương tâm và
trách nhiệm của người thầy bảo vệ phát triển được những quan điểm khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối
cách mạng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2 Phƣơng pháp dạy học Giáo dục công dân là một bộ phận của khoa
học giáo dục.
Với tư cách là một khoa học, Phương pháp dạy học Giáo dục công dân
là một bộ phận của khoa học giáo dục, nó không chỉ có quan hệ chặt chẽ hữu
cơ với môn Giáo dục công dân ở trường THPT mà còn có quan hệ chặt chẽ

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

17

Líp: K34B GDCD



Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

với các bộ môn khác của Giáo dục học, chủ yếu là Lý luận dạy học, Tâm lý
học, Logic học, Xã hội học.
- Quan hệ giữa Phương pháp dạy học Giáo dục công dân với Lý luận
dạy học đại cương:
Lý luận dạy học đại cương là những nguyên tắc có tính chất phương
pháp luận chung. Xuất phát từ những nguyên tắc chung đó để xây dựng
những nguyên tắc, những quy luật riêng cho việc giảng dạy từng môn học,
ngành học, đối tượng học. Phương pháp dạy học Giáo dục công dân được xây
dựng, phát triển phù hợp với các quy luật, nguyên tắc lý luận dạy học đề ra.
Nội dung môn học được soạn thảo dựa trên cơ sở lý thuyết của môn Giáo dục
công dân trong trường THPT, phương pháp và yêu cầu của quá trình dạy học
cũng phù hợp với phương pháp và yêu cầu của lý luận dạy học đại cương, tiến
trình dạy học cũng phù hợp với các tổ chức dạy học chung trong nhà
trường… Hiện nay, các nhà giáo dục học đã coi phương pháp dạy học các bộ
môn là những môn học về lý luận dạy học cụ thể. Quan niệm như vậy trong
một mức độ nào đó phản ánh được mối quan hệ của môn Phương pháp dạy
học môn Giáo dục công dân trong hệ thống các khoa học giáo dục .
- Quan hệ giữa phương pháp dạy học Giáo dục công dân với Logic học:
Logic học chú trọng vào nghiên cứu cách thức tư duy cụ thể của học
sinh như thế nào cho đúng đắn trong việc học tập bộ môn. Và phương pháp
dạy học Giáo dục công dân là môn học ngày càng gắn bó chặt chẽ với logic
học, những quy luật của logic học đã được sử dụng cụ thể của học sinh như
thế nào cho đúng đắn trong việc học tập bộ môn. Vì vậy mà logic là tính bắt
buộc đối với bất cứ môn học.
- Quan hệ giữa phương pháp dạy học với Tâm lý học.
Phương pháp dạy học Giáo dục cộng dân có quan hệ hết sức chặt chẽ

với môn Tâm lý dạy học, những tri thức về các quy luật tâm lý giúp cho

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

18

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

Phương pháp dạy học Giáo dục công dân có những hiểu biết về các quy luật
của hoạt động nhận thức, cơ chế của sự phản ánh, những quy luật hình thành
thuộc tính tâm lý cá nhân. Chính sự hiểu biết các quy luật hình thành nhân
cách và tâm lý của con người cho phép phương pháp dạy học giáo dục công
dân thiết lập cho mình những nguyên tắc, biện pháp, phương tiện dạy học có
hiệu quả nhất.
Có thể nói, Phương pháp dạy học Giáo dục công dân không thể tách rời
cơ sở khoa học của các khoa học có liên quan. Các khoa học trên là phương
pháp luận chung là cơ sở khoa học để phương pháp dạy học Giáo dục công
dân vân dụng. Do vậy mà muốn xem xét một kết luận về phương pháp dạy
học Giáo dục công dân, cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các khoa
học khác.
1.3 Phƣơng pháp đàm thoại trong dạy học môn Giáo dục công dân
1.3.1 Quan niệm về phƣơng pháp đàm thoại
Trong lý luận dạy học, phương pháp dạy học đàm thoại gắn liền với tên
tuổi của nhà hiền triết Hy Lạp nổi tiếng Socrat (469 - 339 TCN). Socrat chống
đối mọi kiểu dạy học giáo điều và xây dựng được một phương pháp độc đáo

là sự đàm thoại tranh luận.
Theo ông, người dạy đặt ra cho người học những câu hỏi bẫy, dựa vào
mâu thuẫn chứa đựng trong lời đáp của họ, người dạy dẫn dắt họ tìm ra mâu
thuẫn của chính bản thân của người học từ đó người học có vẻ như tự lực tìm
ra chân lý. Có thể nêu lên bản chất của phương pháp: Người dạy khéo léo dẫn
dắt người học bằng một hệ thống câu hỏi và câu trả lời tự lực tìm ra chân lý
chính họ mang trong mình mà không hay biết.
Thuật ngữ “Oritxtic” hay còn gọi là phương pháp phát kiến tìm tòi. Điều
này đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu như S.JaGhecđơ, B.E.Raicop, …
vào những năm 70 của thế kỷ XIX. Các nhà khoa học này đã nêu lên phương án

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

19

Líp: K34B GDCD


Tr-êng §HSP Hµ Néi 2

Kho¸ luËn tèt nghiÖp

tìm tòi phát triển trong dạy học nhằm hình thành năng lực nhận thức của học
sinh bằng cách đưa học sinh vào hoạt động tìm kiếm ra tri thức, học sinh là chủ
thể của hoạt động học, là người sáng tạo ra hoạt động học. Đây có thể là một
trong những cơ sở lý luận của phương pháp dạy học này.
Đàm thoại thực chất là quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh
trong đó, GV đặt ra một hệ thống câu hỏi để HS lần lượt trả lời, đồng thời để
trao đổi qua lại với nhau hay với GV. Kết quả là dưới sự dẫn dắt của giáo
viên, học sinh thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình, khám phá và lĩnh

hội được nội dung bài học.
Trong quá trình giảng dạy môn Giáo dục công dân, căn cứ vào nội dung
kiến thức của từng bài giảng, giáo viên thường phải nêu ra những câu hỏi để
dẫn dắt học sinh thu kiến thức mới hoặc hiểu sâu và nắm vững kiến thức đó.
Những câu hỏi do giáo viên nêu ra nhằm gợi lại những tri thức đã có ở học
sinh, kể cả kiến thức học sinh đã thu nhận được ở cuộc sống hàng ngày giúp
cho học sinh dần tiếp cận với tri thức mới và cuộc sống.
Ví dụ 1: Để giảng bài 10: Quan niệm về đạo đức - GDCD lớp 10. Giáo
viên có thể đặt ra câu hỏi: Em hiểu thế nào là đạo đức? Con người có đạo đức
là con người như thế nào? Dựa vào hiểu biết của mình, em hãy lấy ví dụ về
đạo đức có thể là ca dao, tục ngữ danh ngôn nói về đạo đức.
Ví dụ 2: Để giảng bài 7: Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và
tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước - GDCD lớp 11. Giáo viên đặt ra
những câu hỏi như: Thành phần kinh tế là gì? Tính tất yếu khách quan của sự
tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là gì? Các thành phần kinh tế là
gì, nó có vai trò, nội dung như thế nào? Thông qua hệ thống câu hỏi đó giáo
viên dẫn dắt học sinh đến việc lĩnh hội tri thức mới.
Như vậy, đàm thoại là phương pháp dạy học trong đó việc truyền thụ và
lĩnh hội tri thức mới của giáo viên và học sinh thông qua hệ thống câu trả lời
những yêu cầu gợi ý do giáo viên nêu lên những câu hỏi để học sinh trả lời.

SVTH: Lª ThÞ Th¸i

20

Líp: K34B GDCD


×