Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Luận văn sư phạm Tìm hiểu việc thực hiện chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.14 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

HÀ THỊ ANH ĐÀO

TÌM HIỂU VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở TỈNH PHÚ THỌ
TÓM TẮT KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Người hướng dẫn khoa học
Th.S Hoàng Thanh Sơn

HÀ NỘI, 2012


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận cũng như học tập tại trường
em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy cô trong
khoa Giáo dục Chính trị, nhất là của các thầy cô trong tổ chủ nghĩa xã hội
khoa học, cùng với sự động viên khích lệ của các bạn sinh viên. Em xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo – Thạc
sĩ Hoàng Thanh Sơn đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian
qua để em có thể hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời
gian và do sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên em không tránh khỏi
những thiếu sót khi hoàn thành bài khóa luận. Vì vậy em rất mong được sự
đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và của các bạn để đề tài của em được hoàn
thiện hơn.


Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Hà Thị Anh Đào


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Ths.
Hoàng Thanh Sơn. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Hà Thị Anh Đào


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG....................................................................................................... 5
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH
SÁCH TÔN GIÁO HIỆN NAY ..................................................................... 5
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo ....................... 5
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
tôn giáo ............................................................................................................ 10
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI Ở TỈNH PHÚ THỌ.............................................................................. 24
2.1. Một vài nét về tỉnh Phú Thọ..................................................................... 24
2.2. Thực trạng vấn đề tôn giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh
Phú Thọ ........................................................................................................... 25

2.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú
Thọ................................................................................................................... 54
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIÁI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIẢI
QUYẾT CÓ HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở TỈNH PHÚ THỌ ..................................................................... 59
3.1. Mục tiêu, phương hướng hoàn thiện quản lý Nhà nước về tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ ....................................................................................... 59
3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý bằng pháp luật với các tôn giáo trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ ....................................................................................... 61


KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 76

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. HĐND: Hội đồng Nhân dân
2. MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
3. UBMTTQ: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
4. UBND: Uỷ ban Nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành, phát triển
cùng với sự tiến hóa của loài người. Trong quá trình hình thành, phát triển,
tôn giáo ảnh hưởng trên nhiều phương diện của đời sống xã hội như: chính trị,
kinh tế, văn hóa, đạo đức, phong tục, lối sống, giao tiếp… của mỗi quốc gia dân tộc.
Trong những năm gần đây, đời sống tôn giáo trên thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là
một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Với bề dày

lịch sử và con người đoàn kết yêu thương, trải qua hàng ngàn năm văn hiến
tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành một bộ phận của đạo đức và văn hóa truyền
thống. Một điều đặc biệt đó là các tôn giáo trên thế giới, tín ngưỡng dân tộc
có sự hòa nhập với nhau. Tuy nhiên do tính chất tôn giáo là vấn đề rất nhạy
cảm và phức tạp cho nên các thế hệ thù địch, chống phá cách mạng tăng
cường lợi dụng tôn giáo, coi đó là trọng tâm chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Vì vậy, tình hình tôn giáo ở nước ta trong những năm gần đây có những
chuyển biến phức tạp. Đã từ lâu, quyền tự do tín ngưỡng được thể hiện trong
Hiến pháp và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, mọi sinh hoạt tôn
giáo bình thường được tôn trọng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng
hành cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã
xuất hiện các hoạt động tôn giáo thông thường có phần lấn lướt chính quyền,
vi phạm một số quy định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo. Một số cá
nhân, tổ chức lợi dụng đổi mới cả sự quản lý có những mặt còn yếu kém của
chính quyền để luồn lách, lấn lướt thực hiện các hoạt động tôn giáo vượt quá
khuôn khổ cho phép. Tìm cách kích động một bộ phận chức sắc, tín đồ còn
lạc hậu, cực đoan ở trong các tôn giáo, hòng phối hợp với các thế lực phản
1


động trong nước và quốc tế, gây mất ổn định, lôi kéo quần chúng, phục vụ
cho âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ có nhiều biến
đổi. Đặc biệt từ khi tỉnh triển khai thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo,
sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Phú Thọ đã đi vào nền nếp. Bên cạnh đó, trên
địa bàn tỉnh vẫn tồn tại một số tôn giáo trái phép và các tà đạo. Hoạt động của
các tôn giáo trái phép và các tà đạo ít nhiều ảnh hưởng xấu đến kinh tế, văn
hóa, xã hội… của một số địa phương trong tỉnh.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Tìm hiểu việc thực hiện chính sách tôn
giáo trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh Phú Thọ” làm khóa luận tốt nghiệp với

mong muốn đóng góp làm sáng tỏ hơn những quan điểm, chủ trương, chính
sách tôn giáo ở Việt Nam nói chung cũng như việc cụ thể hóa ở tỉnh Phú Thọ
nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Tôn giáo nói chung, chính sách tôn giáo nói riêng là một đề tài có phạm
vi nghiên cứu rộng. Từ xa xưa đến nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm đến vấn đề này. Hiện nay người ta còn đặt sự quan tâm nhiều hơn do tình
hình tôn giáo, tín ngưỡng đang có những diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng lớn
đến sự ổn định của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu biểu có: “Lý
luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn
(2003, Nxb Chính trị quốc gia); “Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt
Nam” của Nguyễn Văn Trung (1993, Nxb Quân đội nhân dân) …
Đây là những công trình đã đi sâu nghiên cứu sự ra đời, phát triển của
tôn giáo nói chung, tôn giáo ở Việt Nam nói riêng và vai trò của tôn giáo đối
với đời sống Việt Nam qua các thời kỳ kịch sử.
Đặc biệt nghiên cứu về tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ có: “Hôn nhân và nếp
sống đạo trong gia đình người Việt Công giáo ở giáo xứ Nỗ Lực, tỉnh Phú
Thọ” của NCS. Lê Đức Hạnh. Tác giả chủ yếu nghiên cứu chuyên sâu về hôn
2


nhân và nếp sống đạo trong gia đình người Việt Công giáo ở giáo họ Nỗ Lực,
tỉnh Phú Thọ.
Các công trình nghiên cứu và các bài viết của các tác giả nêu trên đã đề
cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt về việc thực hiện
chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh Phú Thọ.
Trên cơ sở những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi
trước, em muốn tìm hiểu quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về
giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam nói chung cũng như việc cụ thể hóa ở

tỉnh Phú Thọ nói riêng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích
Trình bày một cách có hệ thống về chính sách tôn giáo và việc thực
hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta từ đó khóa luận nêu lên
thực trạng, những phương hướng và giải pháp cho việc thực hiện chính sách
tôn giáo ở tỉnh Phú Thọ.
- Nhiệm vụ
Đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
+ Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách
tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh Phú Thọ.
+ Phương hướng và giải pháp để giải quyết một cách có hiệu quả những
vấn đề tôn giáo đặt ra ở tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở
tỉnh Phú Thọ.
3


- Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng việc thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú
Thọ và giải pháp để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề tôn giáo
đặt ra ở tỉnh Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên thế giới quan, phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể sử dụng
các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.

- Phương pháp logic – lịch sử.
- Phương pháp xã hội học.
- Phương pháp khảo sát thực tế và liên hệ thực tế.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
ta, từ đó xem xét giải quyết thực tiễn của Việt Nam nói chung và tỉnh Phú
Thọ nói riêng.
Là tài liệu tham khảo cho những người giảng dạy, nghiên cứu các vấn
đề có liên quan đến tôn giáo.
Giúp người viết bước đầu làm quen với việc đọc và tìm hiểu tài liệu, rèn
luyện tư duy khoa học, nâng cao tính tích cực nhận thức khoa học về tôn giáo, có
cái nhìn khách quan về vấn vấn đề tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 3 chương và 7 tiết.

4


NỘI DUNG
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TÔN GIÁO VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO HIỆN NAY
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề tôn giáo
1.1.1. Bản chất của tôn giáo
Chủ nghĩa Mác – Lênin coi tín ngưỡng tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh một cách hoang tưởng, hư ảo hiện thực khách quan. Qua
hình thức phản ánh tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội
đều trở nên thần bí. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ănghen đã làm rõ
bản chất tôn giáo trên cơ sở xem xét tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội:

“Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc
con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ; chỉ là sự phản kháng trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế”[13, tr.437 – 438].
Tôn giáo là sản phẩm của ý thức con người, gắn với những điều kiện
lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội nhất định. Do dó, xét về mặt bản chất, tôn
giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước
tự nhiên và xã hội.
Theo C.Mác: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy.
Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [9, tr.570].
Tuy nhiên tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hóa phù hợp
với đạo lý, đạo đức của xã hội.
5


Như vậy, có thể nói tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
một cách hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho những bất lực của con
người trong cuộc sống hàng ngày.
1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện
và biến đổi cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội.
Sự xuất hiện và biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:
* Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp
kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn.
Vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh
hóa những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.

Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu
đuối trước sức mạnh của tự nhiên con người lại cảm thấy bất lực trước những
sức mạnh tự phát hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích được
sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác…và cùng với nhứng yếu tố
ngẫu nhiên may rủi, con người thường hướng niềm tin ảo tưởng vào “thế giới
bên kia” dưới hình thức các tôn giáo.
Như vậy sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần
cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng bất lực trước những bất công
của xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.
* Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
Các nhà duy vật trước Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận thức
của tôn giáo. Còn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, lại quan tâm
trước hết đến nguồn gốc kinh tế xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa
Mác – Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tôn giáo mà còn làm
sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.
6


Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên,
xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng bước
khám phá những điều chưa biết. Song khoảng cách giữa cái biết và chưa biết
luôn luôn tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì dễ bị tôn giáo
thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận
thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn
thế giới khách quan, khái quát hóa thành các khái niệm, phạm trù, quy luật.
Nhưng càng khái quát hóa, trừu tượng hóa đến mức hư ảo thì sự vật hiện
tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ
phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hóa, cường điệu hóa
của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực,

dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hóa đối tượng.
- Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo
Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi sinh ra thần
linh”. Lênin tán thành và phân tích thêm sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của
tư bản…, sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt
vong…, dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo
hiện đại.
Ngoài sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo làm nảy sinh những tình cảm như lòng biết ơn sự kính trọng, tình yêu
trong quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người. Đó là
những giá trị tích cực của tín ngưỡng tôn giáo.
Tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống nỗi trống vắng
trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế,
dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin vẫn bấu víu vào. C.Mác
7


đã nói: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế
giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không
có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [9, tr.570].
1.1.3. Tính chất, chức năng và vai trò của tôn giáo
- Tính chất của tôn giáo
+ Tính lịch sử của tôn giáo thể hiện ở chỗ: Tôn giáo là một hiện tượng
lịch sử, là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử. Nó ra đời khi con người có khả
năng trừu tượng hóa, khái quát hóa về những hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Tôn giáo vận động và biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi của lịch sử.
Những biến đổi lớn lao trong những phong trào tôn giáo thường gắn liền với
những lịch sử xã hội và thực chất sự biến đổi trong các tôn giáo chỉ là sự phản
ánh các biến đổi của lịch sử.

+ Tính chính trị của tôn giáo: Trong xã hội không có giai cấp, tôn giáo
chưa mang tính chất chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện
khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về lợi ích, các giai cấp thống
trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình.
+ Tính quần chúng của tôn giáo thể hiện ở chỗ: các phong trào tôn giáo
trong lịch sử thường là các phong trào quần chúng, thể hiện ước mơ nguyện
vọng và ý chí của quần chúng
- Chức năng của tôn giáo bao gồm các chức năng
+ Chức năng đền bù hư ảo
+ Chức năng thế giới quan
+ Chức năng điều chỉnh hành vi
+ Chức năng liên kết
+ Chức năng giao tiếp
- Vai trò của tôn giáo
+ Vai trò tiêu cực
8


Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, tôn giáo chỉ là “hạnh phúc hư ảo” của
nhân dân, là “vòng hào quang thần thánh” trong cái biển khổ của nhân dân, là
những “bông hoa tưởng tượng” trên xiềng xích của con người, là “mặt trời ảo
tưởng” xoay xung quanh con người. Do đó tôn giáo thường hạn chế sự phát
triển tư duy duy vật, khoa học, làm cho con người có thái độ nhẫn nhục,
không tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc tạo dựng hạnh phúc thật nơi
trần thế, mà hy vọng hạnh phúc ở cuộc sống sau khi chết.
Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo thường bị giai cấp thống trị lợi dụng
để thực hiện ý đồ chính trị.
Vì cơ sở nhận thức của tôn giáo là chủ nghĩa duy tâm, thần bí, nên bản
thân tôn giáo chứa đựng những yếu tố mê tín. Mê tín đến mức độ cuồng tín,
mê muội, mất lý trí, suy đoán tùy tiện vào những điều quái dị thì trở thành mê

tín dị đoan.
+ Vai trò tích cực
Bên cạnh những biểu hiện tiêu cực, tôn giáo có những mặt tích cực của
nó. Điều đó thể hiện ở chỗ: tôn giáo vừa là sự khốn cùng của hiện thực, đồng
thời lại là sự phản kháng chống lại sự khốn cùng của hiện thực ấy. Đó chính
là sự đấu tranh chống lại sự bất công, tàn bạo trong xã hội có giai cấp và bóc
lột giai cấp. Tôn giáo bao giờ cũng đề cao tính nhân văn, hướng thiện, khuyên
con người thương yêu giúp đỡ nhau, tránh điều ác, phi nhân cách, phi đạo
đức. Đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp với đạo đức xã hội, và nhiều
khi trở thành những giá trị văn hóa tinh thần của nhân loại.
Tôn giáo là một thành tố của văn hóa. Các nền văn minh lớn trên thế
giới thường mang dấu ấn của tôn giáo. Nhiều khi người ta lấy tên của một tôn
giáo để chỉ đặc điểm, sắc thái của một nên văn hóa. Ví dụ: văn hóa Cơ đốc
giáo, văn hóa Hồi giáo, văn hóa Phật giáo…Tôn giáo luôn là mảnh đất màu
mỡ, trên đó hình thành và phát triển những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng.
9


1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về
vấn đề tôn giáo
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo là sự vận dụng sáng tạo
quan điểm mácxít về tín ngưỡng, tôn giáo trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Tư tưởng này được xây dựng trên cơ sở nhận thức rõ đặc
điểm văn hóa Việt Nam. Một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, các tín ngưỡng
tôn giáo có lịch sử hình thành, phát triển và có đặc điểm riêng, với xu thế hòa
đồng, tồn tại đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau.
Ở Việt Nam không có xung đột, chiến tranh tôn giáo. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã tạo

nên giá trị truyền thống vô cùng quý báu, trong đó yêu nước là giá trị hàng
đầu. Trong lịch sử dân tộc đã từng có sự đồng điệu giữa đức tin tôn giáo và
lòng yêu nước, Trần Nhân Tông vừa là ông vua yêu nước có công lãnh đạo
quân dân ta hai lần đánh thắng quân Nguyên, vừa là nhà thiền học tiêu biểu
của Thiền phái Trúc Lâm. Sự đồng điệu ấy đã góp phần to lớn tạo nên sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc trong suốt cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Kế thừa truyền thống ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: lòng yêu
nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ
với nhau. Một người dù theo tôn giáo nào thì trước hết người đó phải là công
dân, có nghĩa vụ với dân tộc, đất nước.
Như vậy, đặc điểm văn hóa dân tộc nói chung, truyền thống yêu nước
nói riêng là cơ sở thực tiễn của Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo.
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo là nhằm xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân vì mục tiêu dân giàu nước mạnh độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính sách tôn giáo theo tư tưởng của Người,
10


thể hiện tính nhất quán lâu dài, thực sự tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo; thái độ
mềm dẻo khéo léo trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo. Trong: “Tám
điều mệnh lệnh” của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi rõ: Chính
phủ, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tự do tín ngưỡng, phong tục tập quán
của đồng bào.
Ngày 5-4-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 điều nên và không nên
làm, trong đó ghi: không nên xúc phạm đến tín ngưỡng, phong tục của nhân
dân. Chính cương của Mặt trận Liên Việt ở điểm 1 Điều 7 có ghi: “Tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng cho mọi người”. Sắc lệnh 234/52 do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 14-6-1955 đã thể hiện rõ tính nhất quán lâu dài
của chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Kế thừa quan điểm mácxit về tôn giáo trong việc xử lý các vấn đề tôn

giáo rằng “tuyên chiến ầm ĩ… với tôn giáo là dại dột” [7, tr.512 ]. Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn có thái độ mềm dẻo, biện pháp khôn khéo, hợp tình hợp lý
trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta.
Về nguyên tắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi các tổ chức tôn giáo phải
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo quy định tại Điều 14(chương IV)
Sắc lệnh về tôn giáo do Người ký: “Các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo
pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, như mọi tổ chức khác của
nhân dân”. Trên cơ sở nguyên tắc ấy, các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa
các tôn giáo, quan hệ giữa người theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa tôn giáo với
chính quyền… đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xử lý hoàn hảo.
Người phân định rạch ròi thái độ, cách thức ứng xử theo các mức độ
khác nhau, như đối với chủ nghĩa thực dân và các thế lực tôn giáo phản động
kết cấu với nhau đó là đấu tranh chống kẻ địch; còn đối với đồng bào tôn giáo
làm sai chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước là đấu tranh trong nội bộ
nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo dõi tình hình một cách thường xuyên
11


và chỉ đạo giải quyết rất kịp thời. Phương pháp của Người là kiên trì, nhẫn
nại, chân tình. Nếu đã kiên trì mà không đạt kết quả thì Người rất kiên quyết,
rất nghiêm khắc: “Trong Hiến pháp nước ta đã định rõ quyền tự do tín
ngưỡng, kẻ nào vi phạm Hiến Pháp và khiêu khích bà con công giáo sẽ bị xử
lý”. Như vậy phương pháp giải quyết vấn đề tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là để giải tỏa hiểu lầm, tăng cường đoàn kết nhân dân. Muốn vậy phải
tỉnh táo phân biệt rõ bạn, thù để có cách xử lý phù hợp.
Trên quan điểm về chính sách tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra
những quan điểm, giải pháp đúng đắn để thực hiện thành công vấn đề đoàn
kết tôn giáo mà trọng tâm là đoàn kết Lương – Giáo.
Đoàn kết là một nội dung cơ bản, bao trùm, có ý nghĩa quyết định thành
công sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đối với tôn giáo thì sự chân tình và bền

vững như là một điều kiện tiên quyết để thực hiện đoàn kết. Người nhấn mạnh
rằng: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài. Đoàn kết là một
chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu
tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc; ta phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà. Ai có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân
thì ta đoàn kết với họ” [16, tr.428].
Đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong chiến lược đại đoàn
kết toàn dân của chủ tịch Hồ Chí Minh. Để thực hiện đoàn kết tôn giáo,
Người đã tìm ra cơ sở khoa học, đó là sự tương đồng giữa các tôn giáo, thể
hiện ở chỗ:
Thứ nhất, các tôn giáo chân chính xét đến cùng đều có hi vọng giải thoát
con người, mong muốn con người được sung sướng tự do, hạnh phúc Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: “Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha. Đức Giê Su
sinh ra là niềm hạnh phúc cho mọi người, phúc lợi cho xã hội. Khổng Tử sinh ra
là để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng”.
12


Thứ hai, tín đồ các tôn giáo căn bản đều là những người lao động bị chế
độ cũ áp bức bóc lột. Họ đều là những người yêu nước thực sự, do vậy họ là
lực lượng của cách mạng, là bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn
dân với tư cách là chủ thể của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh sự tương đồng giữa các
tôn giáo mà còn tìm ra sự tương đồng giữa các tôn giáo chân chính với chủ
nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội. Người coi tôn giáo như một nơi gửi
gắm nguyện vọng thiết tha của một bộ phận quần chúng lao động mong chờ
sự giải thoát khỏi áp bức, bất công, nghèo khổ, từ đó cổ vũ họ tham gia kháng
chiến, kiến quốc. Đối với các chức sắc tôn giáo, Người luôn động viên, khơi
dậy lòng yêu nước thương nòi, giữ gìn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Ngay cả bọn giám mục bị bọn đế quốc phản động lợi dụng, như giám

mục Lê Hữu Từ, Người cũng có thái độ ứng xử rất mềm dẻo, chân tình. Nhận
làm bạn, mời làm cố vấn của Chính phủ và lựa lời khuyên giải.
Như vậy, với cái sắc sảo về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh
cái chung, cái tương đồng của các tôn giáo để thực hiện đoàn kết tôn giáo, gắn
sự nghiệp tôn giáo vào sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc điều này đã
được người xác định rõ trong thư gửi tướng Trần Tu Hòa: “Việt Nam độc lập
đồng minh không phải là một Đảng mà là một mặt trận toàn dân, bao gồm các
đảng phái (đảng Dân chủ, phái Xã hội), các phần tử Quốc dân Đảng, Đảng
Cộng sản (đã tự động giải tán) và các đoàn thể yêu nước không đảng phái như
Hội thanh niên cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc, Hội Cơ đốc giáo cứu
quốc…” [14, tr.117].
Nội dung tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang
tính chất toàn diện, điều đó được thể hiện cả trong kinh tế, chính trị và văn
hóa, xã hội. Người nói “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa các đồng bào Lương và
các đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây
dựng Tổ quốc” [18, tr.606].
13


Trọng tâm tư tưởng về chính sách tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
vấn đề đoàn kết Lương - Giáo. Cơ sở của đoàn kết Lương - Giáo theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là sự “đồng nhất” với mục tiêu độc lập, tự do của dân tộc.
Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, trong đó trọng tâm là đoàn kết Lương –
Giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những giải pháp có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn: Xây dựng hệ thống chính trị trong vùng đồng bào tôn giáo,
làm tốt công tác vận động với các chức sắc và tín đồ tôn giáo, tích cực đấu
tranh chống bọn đế quốc, phản động lợi dụng tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác vận động đối với các
chức sắc tôn giáo và đồng bào tôn giáo. Người luôn biểu lộ sự tôn trọng, quan
tâm đối với các chức sắc tôn giáo và tìm cách tốt nhất để tranh thủ họ xong

cũng có thái độ xử sự dứt khoát, kiên quyết, trừng trị những kẻ mượn tiếng
đạo, làm nhục chúa, làm hại dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo đến đời sống của đồng bào tôn
giáo chăm sóc cả “phần xác” và “phần hồn”. Từ đó Người chỉ đạo Chính phủ
cần có chính sách cụ thể để cải thiện cuộc sống cho đồng bào, tích cực tăng
gia sản xuất, nâng cao đời sống.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ ở các vùng đồng bào công giáo. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc” và “Công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém” [15, tr.273]
Như vậy thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo để giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở
Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, văn
hóa và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tín đồ tôn giáo
Việt Nam thực hiện tư tưởng của Người về chính sách tôn giáo đã và đang
sống theo phương châm sống “phúc âm trong lòng dân tộc”, sống “tốt đời đẹp
đạo”, “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.
14


1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo
Chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một chính sách nhất quán
trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng trước những biến động
của tình hình và nhiệm vụ cách mạng nói chung và của tình hình tín ngưỡng,
tôn giáo cũng như việc thực hiện chính sách tôn giáo trong tình hình mới thì
chúng ta cần có những nhận thức mới về tôn giáo và chính sách tôn giáo mới
phù hợp. Vì vậy, năm 1990 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết 24, Nghị quyết Trung ương là Nghị quyết
chuyên đề về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Nghị quyết
xác định 4 mục tiêu cơ bản sau: tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín

ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân; đạo đức tôn giáo có
nhiều điểm phù hợp công cuộc xây dựng xã hội mới; các giáo và tổ chức tôn
giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích
điều lệ phù hợp với nhà nước pháp luật, có tổ chức và bộ máy nhân sự đảm
bảo tốt về hai mặt đạo, thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp
cụ thể để cho phép hoạt động. Các Đại hội Toàn quốc lần thứ VII - VIII của
Đảng tiếp tục khẳng định nội dung trên. Đến năm 1998 Bộ Chính trị khóa
VIII ra chỉ thị 37 - CT/TW về “Công tác tôn giáo trong tình hình mới”. Ngày
19-4-1999 Chính phủ ban hành chỉ thị số 26-NĐ-CP về các hoạt động tôn
giáo. Nghị quyết đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định “Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt bình thường theo đúng pháp
luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo
và đồng bào không theo tôn giáo, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, nâng
cao đời sống cho đồng bào” [5, tr.128].
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần VII của Đảng ta
khẳng định: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
15


dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân, thực hiện quyền bình đẳng đoàn kết giữa các tôn giáo.
Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi thành kiến phân biệt đối sử với đồng bào có
đạo, chống mọi hành vi vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm và
ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc
chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”[4, tr.78].
Vấn đề tôn giáo là một vấn đề phức tạp nó có ảnh hưởng rất lớn đến xã
hội, vì vậy thực hiện tốt chính sách tôn giáo góp phần ổn định xã hội an ninh,
chính trị, củng cố đoàn kết toàn dân; tạo điều kiện cho các chức sắc, tín đồ tôn
giáo làm tốt việc đạo, hoàn thành tốt nghĩa vụ công dân. Chính sách tôn giáo

thực sự cần thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay khi tình hình tôn
giáo thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp; sự xuất hiện của
nhiều hiện tượng tôn giáo mới các thế lực thù địch đang ráo riết lợi dụng kẽ
hở trong hoạt động tôn giáo để phá hoại thành quả cách mạng cũng như sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Do đó việc thực hiện chính sách tôn giáo là nhiệm vụ của Đảng, toàn
dân và toàn quân ta. Đó là một khối sức mạnh to lớn, là động lực là mục tiêu
của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng vấn đề
tôn giáo, coi công tác tôn giáo là một nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết trong
thời kỳ mới của đất nước.
- Nội dung chính sách tôn giáo của Đảng và nhà nước ta hiện nay
Để đưa ra chính sách tôn giáo phù hợp trong giai đoạn hiện nay, Đảng
và Nhà nước ta đã căn cứ vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo và giải quyết vấn đề tôn giáo. Đồng thời dựa vào
yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng của chủ nghĩa xã hội và tình hình tôn
giáo, cũng như việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chính
sách tôn giáo với các nội dung cơ bản sau:
16


+ Thực hiện chính sách nhất quán tôn giáo và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của mọi công dân. Mọi
công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật, không phân
biệt người theo đạo hay không theo đạo, cũng như giữa các người theo các tôn
giáo khác nhau.
+ Thực hiện đoàn kết của các đồng bào theo các tôn giáo và không theo
tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc. Giữ gìn và phát huy những giá trị
tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên tôn vinh những người có công với
Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối sử với công dân vì lý do

tín ngưỡng và tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an
ninh quốc gia.
+ Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
+ Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng
lợi ích chính Đảng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hóa,
đạo đức tôn giáo, kể cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể được tôn trọng
và khuyến khích phát huy.
+ Mọi hành vi lợi dụng hoạt động, lợi dụng tôn giáo làm mất trật tự
an toàn xã hội, phương hại đến nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách
đoàn kết dân tộc, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, gây tổn hại đến các giá trị đạo đức, lối sống văn hóa của dân tộc,
ngăn cản tín đồ, chức sắc tôn giáo, thực hiện nghĩa vụ công dân đều bị xử
lý theo pháp luật.

17


+ Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, MTTQ Việt Nam và các đoàn thể, các
tổ chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động
quần chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
+ Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo mở trường đào
tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.

Việc theo đạo truyền bá đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật, không được lợi dụng tôn giáo để
truyền đạt tà đạo và hoạt động mê tín dị đoan và không được ép buộc người
dân theo đạo, nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và hình
thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện mục tiêu:
“Độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được cụ thể hóa bằng những
chính sách cụ thể có trong Nghị quyết số 26/1999/NĐ - CP do Chính phủ ban
hành ngày 19/04/1999.
- Đối với các tín đồ tôn giáo
+ Tín đồ các tôn giáo có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không
trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tiến hành nghi
thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo,
học tập quản lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
+ Tín đồ các tôn giáo không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm
trái pháp luật, không được hoạt động mê tín dị đoan.
+ Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt theo
tôn giáo pháp luật Việt Nam.
18


- Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
+ Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền:
Được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi
trách nhiệm đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận.
Được nhận xét, khen thưởng công lao đóng góp trong sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Được hưởng các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
công dân.

+ Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có nhiệm vụ:
Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách
nhiệm tôn giáo đã được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi
trách nhiệm đó.
Động viên tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật
của Nhà nước
+ Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lí hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Người đang chấp hành án phạt tù hoặc
đang bị quản chế hành chính không thực hiện chức trách, chức vị tôn giáo.
Việc phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo của người đã hết hạn chấp hành
các hình phạt trên phải do tổ chức tôn giáo quản lý người đó đề nghị và được
các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền chấp nhận.
+ Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được
phép của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức và hoạt động của nhà trường thực
hiện theo các quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ giáo dục và đào
tạo. Các trường thực hiện quy chế, chính sách pháp luật của Nhà nước theo sự
hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của các cơ quan chức năng Nhà nước và
UBND cấp tỉnh sở tại.
19


+ Việc phong giáo phẩm, giáo chức cho chức sắc, nhà tu hành tôn giáo,
việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành…phải được sự chấp
thuận của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh.
- Đối với các tổ chức tôn giáo
+ Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ
cấu tổ chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép
hoạt động thì được pháp luật bảo hộ.
+ Tổ chức tôn giáo hoạt động trái tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành

đạo, cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ hoạt
động. Những cá nhân chịu trách nhiệm về hành vi đó bị xử lí theo pháp luật.
+ Chức sắc, nhà tu hành, tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy
định của Nhà nước. Các cơ sở từ thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ chức
tôn giáo bảo trợ hoạt động theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng của
Nhà nước.
- Đối với các hoạt động tôn giáo
+ Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng kí hàng năm và thực
hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
+ Những hoạt động tôn giáo vượt qua ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự
hoặc chưa đăng kí hàng năm phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
+ Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận của các tu sĩ tập
trung từ những cơ sở, dòng tu của đạo Thiên Chúa, các cuộc bồi linh của mục
sư và truyền bá đạo của Tin lành, các kì an cư của tăng ni đạo Phật và những
sinh hoạt tôn giáo tương tự của các tôn giáo khác thực hiện theo quy định của
cơ quan quản lí Nhà nước cấp tỉnh về tôn giáo. Đại hội, Hội nghị của tổ chức
tôn giáo các cấp ở địa phương phải được phép của chủ tịch UBND cấp tỉnh.
+ Việc in ấn, xuất bản các loại kinh, sách và các xuất bản ấn phẩm tôn
giáo việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo phải
20


×