Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế kiều hối và tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.45 KB, 33 trang )

MỤC LỤC


2

LỜI MỞ ĐẦU
Kiều hối có vai trò rất quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước đang phát triển. Đối với Việt Nam, kiều hối ngày càng trở nên quan trọng. Trong
những năm gần đây, dòng kiều hối chảy vào Việt Nam không ngừng gia tăng cả về số
tuyệt đối và số tương đối so với GDP, góp phần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại,
xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của một bộ phận người dân nhận kiều hối. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực như vậy, kiều hối cũng tồn tại những mặt trái tiêu
cực như góp phần gây ra tình trạng đô la hoá, tiêu dùng quá mức, rửa tiền...
Vậy kiều hối đã và đang có những tác động như thế nào đến tỷ giá hối đoái tại
Việt Nam?
Trước câu hỏi đó, nhận thức được tầm quan trọng cũng như sức ảnh hưởng của
kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã thực hiện đề tài “Kiều hối
và tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái”.
Mục tiêu nghiên cứu:
-

Cung cấp cái nhìn tổng quan về kiều hối và tỷ giá hối đoái;
Làm rõ thực trạng của kiều hồi, tỷ giá hối đoái và tác động của kiều hối đến tỷ
giá hối đoái tại Việt Nam;

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận tập trung nghiên cứu về kiều hối, tỷ
giá và các tác động của kiều hối đến tỷ giá hối đoái trong giai đoạn 2000-2017.
Phương pháp nghiên cứu:
-

Phương pháp thu thập số liệu: dữ liệu thứ cấp được thu thập website Tổng cục



-

Thống kê, Ngân hàng Thế giới, ...
Phương pháp phân tích số liệu:
Phương pháp so sánh số tương đối. So sánh số liệu giữa các năm bằng cách
tính phần trăm, năm sau bằng bao nhiêu năm trước từ đó so sánh đưa ra nhận
định tăng hay giảm bao nhiêu phần trăm. Xác định năm sau so với năm trước

-

tăng hay giảm nhiêu phần trăm từ đó đưa ra nhận xét.
Phương pháp so sánh số tuyệt đối để phân tích số liệu cần nghiên cứu: = - .
Tính tăng hay giảm cụ thể là con số bao nhiêu rồi đưa ra nhận xét.  


3

CHƯƠNG 1: KIỀU HỐI VÀ THỰC TRẠNG KIỀU HỐI Ở
VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về kiều hối
1.1.1. Khái niệm về kiều hối
Kiều hối là ngoại tệ do người Việt Nam công tác, lao động, học tập, định cư ở
nước ngoài chuyển tiền một chiều về Việt Nam, thể hiện tình cảm, tấm lòng thơm thảo
của người Việt xa xứ đối với gia đình, người thân, quê hương, đất nước. Kiều hối đang
góp phần tạo thêm nguồn lực đáng kể cho nền kinh tế đất nước, giảm bớt sự mất cân đối
trong cán cân thanh toán, cải thiện dự trữ ngoại hối, giảm sức ép tăng tỷ giá…
Theo World Bank, kiều hối bao gồm các khoản tiền chuyển từ nước ngoài có
nguồn gốc là thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện trong
cán cân thanh toán quốc tế là khoản chuyển tiền (ròng).

Còn hiểu theo cách đơn giản nhất thì “Kiều hối là sự di chuyển tiền bạc từ những
người đang sống và lao động ở nước ngoài đến thân nhân của họ ở quê hương”.
Kiều hối là một nguồn ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả khi có cuộc khủng
hoảng kinh tế, so với những nguồn tài chính khác như đầu tư ngoại quốc trực tiếp và
tiền viện trợ. Nó giúp cân bằng cán cân vãng lai, tăng cường ngoại tệ dự trữ, và giúp cải
thiện đời sống của người nhận.
Thực tế cho thấy ngày càng có nhiều người quan tâm và sử dụng dịch vụ liên quan
đến lĩnh vực này. Khi các chính sách, hiệp định về giao thương, kinh tế ngày càng được
thông suốt giữa các quốc gia, người Việt cũng dễ dàng hơn trong việc chuyển kiều hối
về Tổ quốc. Thị trường kiều hối ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống
thường nhật của mỗi người.
1.1.2. Vài nét về kiều hối ở Việt Nam
Vào khoảng giữa những năm 1980 của thế kỷ 20, với những thay đổi căn bản
trong chính sách về kiều hối, Việt Nam đã tiếp nhận một lượng lớn dòng ngoại tệ từ các
kiều bào ở nước ngoài. Tính trung bình, một người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước
khoảng 1000 USD một năm. Những dòng vốn này thật sự đã có những tác động to lớn
đối với các cá nhân nhận tiền nói riêng cũng như sự phát triển của đất nước nói chung.
Từ đó cho tới nay, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam luôn luôn tăng với tốc độ ngày
càng cao. Năm 2000, lượng kiều hối gửi về là 1,34 tỷ USD, đến năm 2005, con số này


4
đã tăng lên là 3,15 tỷ USD (tăng 135% so với năm 2000). Đến năm 2008, mặc dù khủng
hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam không những
không bị suy giảm mà còn tăng vọt lên ở mức 6,8 tỷ USD. Năm 2010, với đà phục hồi
của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận được dòng kiều hối với giá trị 8,26 tỷ USD,
tăng 2,24 tỷ so với năm 2009. Cũng trong năm này, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới
– World Bank xếp vào vị trí 16/20 nước tiếp nhận nguồn kiều hối lớn nhất thế giới,
đứng thứ 2 ở Đông Nam Á, sau Philippines.
Theo ước tính, hiện nay Việt Nam có khoảng hơn 3 triệu người đang sinh sống và

làm việc ở nước ngoài, chủ yếu tập trung ở một số nước phát triển có thu nhập bình
quân đầu người cao như Mỹ khoảng 1,5 triệu người, Pháp khoảng 350.000 người,
Canada khoảng 200.000 người, Úc khoảng 250.000 người. Ngoài ra, số còn lại ở rải rác
khắp các nước khác trên thế giới.
Năm 2015 được xem là một năm bội thu với kiều hối khi doanh số chi trả chỉ tính
riêng trên khu vực TP. HCM đã đạt hơn 5,5 tỷ USD, cao hơn con số dự kiến ban đầu là
5,2 tỷ USD. Đến năm 2016, con số này giảm còn 11,8 tỷ USD (giảm 31,8%).
Hơn 13,7 tỷ USD kiều hối đã chuyển về Việt Nam trong năm 2017. Theo thống kê
của Ngân hàng Thế giới, con số này tăng 16% so với năm 2016. Lượng kiều hối chủ
yếu vẫn từ thị trường Mỹ, chiếm 60% và châu Âu gần 20% và một số nước khác như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Năm 2018, nguồn cung ngoại tệ khá dồi dào với mức tăng trưởng ấn tượng từ 715%. Số kiều hối gửi về nước đã lên tới gần 16 tỉ USD, tăng gấp hơn 100 lần so với
năm 1993. Đáng chú ý là, đầu tư từ nguồn kiều hối trong những năm gần đây với
khoảng 3.000 dự án tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển, nâng cao mức sống của nhân dân, trước hết là những gia đình được
nhận.
Những tín hiệu tích cực về thặng dư trong cán cân thương mại, kiểm soát chỉ số
lạm phát, niềm tin của người dân có xu hướng thu giữ đồng nội tệ cũng như chính sách
quản lý khá kiên định và linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là những yếu tố
giúp thị trường ngoại tệ Việt Nam được dự báo tiếp tục tăng trưởng tốt trong năm 2019.


5
Biểu đồ 1.1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 2000-2017

Nguồn: Ngân hàng Thế giới (World Bank)
Các hình thức chuyển tiền kiều hối về Việt Nam:
Theo Quyết định số 170/1999/QĐ - TTg về việc khuyến khích người Việt Nam ở
nước ngoài chuyển tiền về nước thì người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài
được chuyển tiền kiều hối về Việt Nam dưới các hình thức sau:


• Chuyển ngoại tệ thông qua các tổ chức tín dụng được phép;
• Chuyển ngoại tệ thông qua các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính bưu
chính quốc tế;

• Cá nhân mang theo người vào Việt Nam.
Cá nhân ở nước ngoài khi nhập cảnh vào Việt Nam có mang theo ngoại tệ hộ cho
Người Việt Nam ở nước ngoài phải kê khai với Hải quan cửa khẩu số ngoại tệ mang hộ
từ nước ngoài gửi về cho Người thụ hưởng ở trong nước.
Ngoài việc nguồn kiều hối có thể được chuyển vào Việt Nam thông qua kênh
chính thức thì trong thực tế, còn được chuyển theo kênh không chính thức.
Các kênh chuyển kiều hối chính thức bao gồm các công ty kiều hối, các ngân
hàng thương mại được phép làm dịch vụ chuyển tiền quốc tế, các công ty chuyển tiền,
công ty bưu chính. Các tổ chức này chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước.
Các kênh chuyển tiền không chính thức cũng rất đa dạng. Thực tế là có một lượng
không nhỏ kiều hối chảy vào Việt Nam do kiều bào trực tiếp cầm về hoặc nhờ bè bạn,
người thân cầm về giúp. Một nguồn khác được chuyển phi pháp bởi các phi công, tiếp
viên hàng không hay những người thường xuyên di chuyển giữa các nước. Tuy nhiên,
kênh chuyển kiều hối không chính thức nhiều nhất là qua các đường dây chuyển tiền,
trong đó, người gửi tiền chỉ cần chuyển tiền mặt kèm địa chỉ hoặc số điện thoại người
nhận cho một cơ sở nào đó nhận tiền ở nước ngoài, cơ sở đó sẽ làm việc với cơ sở trong
đường dây của họ ở Việt Nam, sau đó, người nhận ở Việt Nam có thể được nhận tiền
ngay tại nhà hoặc qua đường bưu điện.


6
1.2. Thực trạng kiều hối ở Việt Nam
1.2.1. Tính đến trước quý 4 năm 2008
Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam liên tục tăng với con số ấn tượng. Do tình
hình kinh tế của đất nước và phát triển chính trị-xã hội ổn định, vị thế của đất nước ngày

một tăng lên và đặc biệt là những chính sách của Nhà nước thông thoáng tạo nhiều cơ
hội cho người đầu tư và có nhiều lĩnh vực đầu tư có thể tạo sinh lại như là chứng khoán,
địa ốc, hay công nghệ cao..., do đó thu hút được nhiều nguồn, đầu tư cũng như kiều hối
chuyển về cho thân nhân đầu tư.
1.2.2. Giai đoạn từ đầu quý 4 năm 2008 đến hết năm 2009
Nếu xét về tổng lượng kiều hối Việt Nam nhận được trong năm 2008 là 6.81 tỷ
USD thì có thể thấy kiều hối trong năm 2008 tăng so với năm trước (tăng 10.2% so với
năm 2007 là 0.63 tỷ USD). Tuy nhiên, bắt đầu từ tháng 10, lượng kiều hối chuyển về
Việt Nam thông qua các kênh chính thức của ngân hàng đã bắt đầu giảm dần. Trong khi
đó, theo thông lệ hàng năm, bắt đầu từ tháng 10 của năm 2008 đến tháng 1 của năm
2009 mới chính là "mùa kiều hối".
Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Đặc điểm kiều hối nói chung xuất phát từ hai nguồn chính là tiền của
người Việt Nam trong nước đi xuất khẩu lao động gửi về cho gia đình và tiền của người
Việt định cư ở nước ngoài gửi về giúp đỡ người thân trong nước. Do tác động của
khủng hoảng kinh tế, một số quốc gia nhận nhiều lao động xuất khẩu từ Việt Nam đã
gặp không ít khó khăn, lương trả cho công nhân suy giảm, đồng thời việc tiếp nhận lao
động mới cũng không còn được như trước
1.2.3. Giai đoạn năm 2009
Lượng kiều hối vào Việt Nam là 6,02 tỉ USD, giảm 11.6% so với năm 2008. Đây
là lần đầu tiên lượng kiều hối về Việt Nam sụt giảm sau 8 năm tăng liên tiếp. Theo
thống kê trong năm 2009, có sự thay đổi cơ cấu sử dụng kiều hối, cụ thể là tăng tỷ trọng
đầu tư, Đối tượng đầu tư trước hết là bất động sản chiếm 30% tổng lượng kiều hối, tiếp
theo là chứng khoán.
Lượng kiều hối chuyển về nước giảm là tất yếu, do tác động lớn nhất vẫn là của
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều nước trước đây thu nhận nhiều lao động Việt
Nam đã bắt đầu sa thải nhân viên hiện có hoặc ngừng việc thu nhận nhân công mới. Hệ


7

quả là nguồn kiều hối đến từ giới này cạn dần. Theo một ghi nhận của Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội Việt Nam vào cuối tháng 12 năm 2009, mới chỉ có hơn 45.000
lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc trong lúc chỉ tiêu toàn năm của nhà nước là
xuất khẩu được 90.000 lao động. Trước đó, báo chí trong nước liên tục loan tin về
những trường hợp công nhân Việt Nam từ Malaysia, Đài Loan, Nhật Bản, CH Czech,
Slovak phải hồi hương vì mất việc làm.
Tuy nhiên, kiều hối của các lao động Việt Nam hiện ở nước ngoài chỉ chiếm một
phần nhỏ trong số kiều hối gửi về nước. Theo báo Wall Street Journal, gần 2/3 cộng
đồng đông đảo người Việt sinh sống. Kinh tế Mỹ đang trải qua một giai đoạn khó khăn,
nền kinh tế lớn nhất thế giới này tăng trưởng ấm 2% trong 2009. "Bong bóng nhà đất"
nổ tung đã tác động mạnh tới thị trường lao động trong ngành xây dựng, khu vực thu
hút nhiều nhân công nhập cư ở Mỹ, làm lượng kiều hối mà cộng đồng người Việt tại Mỹ
chuyển về Việt Nam trong năm 2009 giảm mạnh.
Kiều hối giảm sẽ không chỉ gây khó khăn cho những gia đình ở Việt Nam nhận số
tiền này mà còn có thể ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ mà nền kinh tế Việt Nam đang
cần. Do dòng kiều hối giảm, nên lượng kiều hối chi trả qua các ngân hàng cũng giảm
đáng kể, ngoại trừ một số ít ngân hàng có thế mạnh.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho biết,
tính tới hết tháng 10, lượng kiều hối được chuyển về nước thông qua Vietcombank đạt 1
tỷ USD, giảm 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Sự sụt giảm này là do lượng kiều hối
chuyển về nhằm mục đích đầu tư giảm mạnh. Trong khi đó, lượng kiều hối chuyển cho
thân nhân trong nước tăng từ 20-25% so với cùng kỳ năm ngoái.
1.2.4. Giai đoạn 2010 - 2017
Nền kinh tế thế giới trên đà phục hồi, lượng kiều hối gửi về nước cao đột biến:
trên 8 tỷ USD. So với mức cao nhất trước đó của năm 2008 kiều hối tăng hơn 11% (so
với 2009)
Để hình dung độ lớn của lượng kiều hối, hãy so sánh với tổng thu nhập quốc nội,
GDP, của Việt Nam, Năm 2010 GDP đạt mức 104,6 tỷ USD, tăng 6,78% so với năm
2009, Nói cách khác lượng kiều hối bằng khoảng 7,7% của GDP, lớn hơn mức gia tăng
của GDP năm 2010 so với năm 2009 (6,78% -7,1 tỷ USD) khoảng 1 tỷ USD. Có thể

thấy lượng kiểu hội trên 8 tỷ USD lớn đến mức nào.Có 2 nguyên nhân chính dẫn đến sự
chuyển dịch mạnh mẽ của dòng kiều hối vào Việt Nam trong năm 2010, Đó là:


8
Sự sôi động trên thị trường bất động sản và sự hấp dẫn về lãi suất tiền gửi đối với
đồng USD tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Khi lãi suất của đồng USD trên
thế giới hiện nay khá thấp (lãi suất cho vay liên ngân hàng thế giới chỉ dao động quanh
0,23-0,78%/năm cho tất cả các kỳ hạn) thì ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại áp
dụng mức lãi suất quanh 5% cho tiền gửi bằng đồng USD,
Chính sách kiều hối của Việt Nam thông thoáng và cởi mở hơn như cho phép gửi
và nhận tiền bằng đồng USD hay như chính thức cho phép kiều bào tham gia mua bất
động sản (Nghị định 71). Các ngân hàng thương mại triển khai nhiều giải pháp thu hút
nguồn ngoại tệ bằng cách đa dạng hoá các kênh chi trả và nâng cao chất lượng dịch vụ,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nhận và người chuyển tiền.
Sang năm 2011, kinh tế thế giới tuy còn một số khó khăn nhất định nhưng đã phần
nào được cải thiện so với 2 năm trước. Điều này sẽ tác động tích cực đến đời sống của
kiều bào ở nước ngoài. Do đó, kiều hối chuyển về cho người thân sẽ tiếp tục tăng trong
năm tới đây và quả thực là lượng kiều hối đã liên tục tăng ở các năm tiếp theo. Tuy
nhiên vào năm 2016 lượng kiểu hối lại có sự sụt giảm là bởi vào cuối 2015 ông Trump
có cuộc tranh cử lên làm tổng thống Mỹ và kiều bào cũng như người lao động ở nước
ngoài lo sợ sẽ có chính sách tiền tệ thay đổi nên đã gửi ít tiền để đầu tư hơn. Sở dĩ có sự
lo lắng này là do Mỹ là một nước có nền kinh tế vô cùng mạnh và khi Mỹ thay đổi sẽ
ảnh hưởng đến kinh tế rất nhiều nước khác kéo theo nên lượng kiểu hối từ các nước
khác cũng bị tác động. Hơn thế nữa vào cuối 2015, NHNN Việt Nam áp dụng chính
sách lãi suất tiền gửi 0% với đồng usd nên lượng kiều hối mà những người ở nước ngoài
gửi về giảm đáng kể vì họ không được lợi khi gửi tiền về Việt Nam. Tuy nhiên đến
2017, kinh tế bắt đầu ổn định trở lại, các chính sách tiền tệ của các nước cũng ổn định,
kiểu bào cũng như người lao động nước ngoài lại tiếp tục gửi tiền về và lượng kiểu hối
lại tiếp tục tăng để đạt mức hơn 13 tỷ vào 2017.

1.3. Đánh giá ưu - nhược điểm
1.3.1. Ưu điểm
Lượng kiều hối vào nước ta tăng đáng kể qua các năm, đấy là một dấu hiệu đáng
mừng. Nó cho thấy bà con người Việt ở nước ngoài có đóng góp to lớn vào sự phát triển
của đất nước, Có được mức tăng trưởng này là nhờ những năm trước đây chúng ta đã
thực hiện hàng loạt chính sách mang tính khuyến khích, thậm chí đột phá để tạo sự


9
thông thoáng và tin tưởng của bà con Việt kiều lẫn người thân trong nước. Trong những
năm qua, Chính phủ đã ban hành các văn bản:
Quyết định số 170/1999/QĐ-TT ngày 19/8/1999 về khuyến khích người Việt Nam
ở nước ngoài chuyển tiền về nước;
Quyết định số 78/2002/QĐ-TT ngày 17/6/2002 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết
định số 170/1999/QĐ-TT;
Nội dung chủ yếu của các văn bản này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người
Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước, đảm bảo quyền lợi của người gửi và người
nhận tiền; mở rộng các hình thức chuyển tiền, để thu hút nguồn ngoại tệ kiều hối từ
nước ngoài về Việt Nam. Các chính sách trên đã cho phép người thụ hưởng trong nước
được nhận bằng ngoại tệ hay VND theo nhu cầu, được nhận kiều hối bằng ngoại tệ và
được gửi tiết kiệm ngoại tệ tại ngân hàng, được rút ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ, được
sử dụng số ngoại tệ này để chuyển ra nước ngoài cho các mục đích được phép Ngoại tệ
kiều hối chuyển về không bị hạn chế về số lượng và không bị đánh thuế. Gần đây nhất
là cho phép kiều bào tham gia mua bất động sản (Nghị định 71).
Ngoài ra, các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối cũng đã tạo điều kiện thuận
lợi dễ dàng cho người Việt Nam ở nước ngoài có ngoại tệ mang theo người về nước
như: ngoại tệ mang về qua hải quan cửa khẩu không hạn chế về số lượng, chỉ phải khai
báo hải quan nếu vượt mức khai báo. Người không cư trú (gồm cả người Việt Nam ở
nước ngoài và bà con Việt kiều) được mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại ngân hàng đối
với số ngoại tệ có nguồn gốc mang từ nước ngoài hoặc ngoại tệ từ nước ngoài chuyển

vào Việt Nam và được sử dụng ngoại tệ này vào nhiều mục đích khác nhau.
Bước đột phá thứ hai là chất lượng chi trả kiều hối cũng đã được nâng lên. Kiều
hối được chi trả tại nhà, trên khắp cả nước. Cụ thể, các công ty kiều hối trong nước tiếp
cận bằng cách truyền miệng, thông qua người có uy tín, đứng đầu cộng đồng người thiệt
ở từng địa phương để giới thiệu sản phẩm và nhờ họ giới thiệu cho những người quen.
Phí chuyển tiền thông qua các ngân hàng, công ty trong nước chỉ bằng 1/5 so với công
ty nước ngoài,
Bên cạnh kênh chuyển tiền truyền thống là tiền mặt, nhiều công ty kiều hối đã
khai thác thêm các kênh chuyển tiền khác, Công ty kiều hối Đông Á đã ứng dụng
chương trình kiều hối online giúp theo dõi đường đi của kiều hối. Trước đây, khi người
gửi hỏi tiền đã được chuyển đến tay người nhận chưa, nhân viên phải tra cứu thông tin


10
sổ sách rất mất thời gian. Nay chỉ cần một cú nhấp chuột là có câu trả lời, thời gian
chuyển tiền cho người nhận ở Việt Nam chỉ còn khoảng 8-12h (nội thành) và tối đa 24h
(vùng xa xôi).
Sacombank đã triển khai dịch vụ chi trả kiều hối qua thẻ, người nhận có thể rút
tiền tại bất kỳ ATM nào. Tại Western Union, người gửi tiền có thể chọn cách gửi tiền về
quê từ tài khoản của mình thông qua 16 ngân hàng đại lý của công ty, hoặc sử dụng dịch
vụ chuyển tiền bằng điện thoại di động từ 70.000 điểm giao dịch đại lý tại 27 quốc gia.
Hiện công ty cung cấp dịch vụ gửi tiền trực tuyến tại 17 quốc gia có số lượng lớn kiều
bào sinh sống như Mỹ, Canada, Anh, Úc, Đức.
1.3.2. Nhược điểm
1.3.2.1. Kiều hối - “Thiếu vẫn thiếu, thừa vẫn thừa”
Thiếu trong ngân hàng
Ở Việt Nam, kiều hối do cộng đồng người Việt sinh sống ở nước ngoài lâu năm
hoặc những lao động xuất khẩu gửi về cho thân nhân và gia đình. Số ngoại tệ này được
nhiều người dân cất giữ, hoặc đơn giản hơn là bán ra thị trường tự do thông qua hệ
thống các cửa hàng vàng. Làm như vậy không chỉ thuận tiện, mà điều đáng nói là tỷ giá

luôn cao hơn ở ngân hàng.
Điều này cũng giải thích vì sao thời gian qua, các ngân hàng liên tục tăng lãi suất
tiền gửi bằng USD nhằm thu hút ngoại tệ cũng như hy vọng người dân sau khi nhận
kiều hối sẽ đem gửi ngân hàng. Cụ thể, trong năm 2010 lãi suất huy động USD trên thị
trường tiền tệ được các ngân hàng điều chỉnh tăng với biên độ khá rộng.
Theo báo cáo của NHNN, Chi nhánh TP.HCM, lượng huy động bằng ngoại tệ của
các NH ngân hàng trên địa bàn năm 2009 là 167 206 tỷ đồng, tăng 39,6% so với năm
2008 và chiếm 27,7% tổng huy động vốn của các ngân hàng.
Trước Tết 2010, lãi suất huy động USD của các ngân hàng trên địa bàn tăng từ
0,1% 0,3% so với trước đó và lãi suất dao động từ 3,3% - 4,5% cho các kỳ hạn dưới 12
tháng. Cụ thể, ngân hàng Quốc tế (VIB) đã tăng lãi suất tiền gửi đối với USD từ 0,43%.
0,85%/năm ở tất cả các kỳ hạn; mức cao nhất lên tới 4,13%/năm. ngân hàng TMCP Sài
Gòn (SCB), ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank), ngân hàng Eximbank tăng
thêm khoảng 0,3%/năm cho tất cả các kỳ hạn...


11
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi ngoại tệ dù đã được điều chỉnh vẫn bị khách hàng
đánh giá thấp, khiến nhiều người dân rút ngoại tệ từ ngân hàng để cất giữ, đầu tư vào
những lĩnh vực khác hoặc bán ngoại tệ lấy nội tệ gửi tiết kiệm làm nguồn tiền gửi USD
của ngân hàng giảm đi đáng kể. Trong khi đó, các doanh nghiệp xuất khẩu lại thích vay
USD vì lãi suất thấp hơn
Thừa trong dân
Trong bối cảnh lượng cung ngoại tệ đang rất lớn trên thị trường hiện nay nhưng
các Ngân Hàng lại gặp khó khăn trong việc mua USD. Doanh số chi trả kiều hối qua
Sacombank trong năm 2009 là 850 triệu USD, nhưng chi 10% trong số đó được bản lại
cho ngân hàng, và cũng rất ít người gửi lại ngân hàng.
Ngoài nguyên nhân tỷ giá thấp, việc nhiều người dân không muốn bán USD cho
ngân hàng còn là do khi họ cần mua ngoại tệ phục vụ các nhu cầu chính đáng như du
học, du lịch, khám chữa bệnh ở nước ngoài thì thường không được NH đáp ứng, hoặc

nếu có thì với số lượng rất ít và thủ tục phiền phức, Do vậy, bên cạnh thói quen mua,
bán USD tại các cửa hàng vàng, nhiều người dân đã chọn cách cất giữ loại ngoại tệ này.
Trong khi đó, các ngân hàng cho biết, chỉ cần 50% lượng kiều hối chuyển về được bán
cho ngân hàng thì sẽ giải quyết cơ bản nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp có hoạt
động nhập khẩu.
Như vậy, tỷ giá chợ đen và tỷ giá chính thức chênh lệch, nên xảy ra hiện tượng
người nhận kiều hối không bản cho ngân hàng, khiến lượng ngoại tệ lưu thông ngoài hệ
thống ngân hàng tăng lên làm cho nền kinh tế cũng bị “đô la hóa” trầm trọng hơn.
1.3.2.2. Sử dụng kiều hối chưa hiệu quả
Lượng kiều hối vào nhiều nhưng chúng ta khai thác và sử dụng chưa thực sự
mang lại hiệu quả cho nền kinh tế, Bởi ngoài việc trang trải cuộc sống, người nhận kiều
hối chưa đưa lượng tiền này đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh mà còn để chạy
lòng vòng" ở các kênh đầu tư có nhiều rủi ro.
Với dòng kiều hối xuất phát từ nguồn xuất khẩu lao động: đội ngũ xuất khẩu lao
động chủ yếu là nông dân nên số tiền gửi về đổ trực tiếp vào khu vực nông thôn, góp
phần cải thiện đời sống của khu vực này, nó khác hẳn với kiều hối từ nguồn khác. Vấn
đề nằm ở chỗ, cái thiếu nhất ở khu vực nông thôn là cơ hội kinh doanh nên số tiền này
hầu như sẽ chuyển thành tiền tiết kiệm, là “cất giấu dưới gầm giường” hoặc tiền xây nhà
gạch, bê tông. Thậm chí ở một số nơi, kiều hối không những không mang lại hiệu quả


12
về mặt kinh tế mà còn gây ra những vấn đề về tệ nạn xã hội do người nông dân không
biết cách sử dụng đồng tiền. Không ít người thay vì sử dụng kiều hối vào mục đích làm
kinh tế, họ lại đổ vào các quán nhậu, chơi bời rồi dính vào nghiện hút lúc nào chẳng
hay. Kiều hối dạng này ngoài ý nghĩa cải thiện đời sống vật chất ngắn hạn, nó không
mang tính chất thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn. - Với dòng kiều hối được gửi về
cộng động Việt kiều: Số tiền này chủ yếu đổ vào các đô thị bởi vì phần đông những
người Việt trước khi đi định cư ở nước ngoài đều sống ở các đô thị. Ngoài việc giúp cải
thiện đời sống ngắn hạn cho những người thân, đầu tư nhà đất, chứng khoán và kinh

doanh, một phần số tiền này cũng bị “lãng phí” trong các nhà hàng, siêu thị, salon ô tô...
không phải với tư cách đầu tư mà đơn thuần chỉ là mua sắm. Như vậy, lượng kiều hối
đổ vào đô thị ngoài việc cải thiện đời sống ngắn hạn cho gia đình, nó còn góp phần đẩy
giá bất động sản lên cao, góp phần làm gia tăng nhập siêu vì nhu cầu tiêu dùng các mặt
hàng xa xỉ tăng.
1.3.3. Cơ hội đầu tư kiếm lời
Lãi suất tiền gửi bằng USD ở Việt Nam ở mức cao (khoảng 5%/năm) trong khi
tiền gửi tại Mỹ có lãi suất khoảng 0,5%/năm dẫn đến hiện tượng dòng kiều hối về
"Bước chỉ để tiết kiệm nhằm hưởng lãi suất tiền gửi chứ không hề sử dụng cho mục
đích đầu tư phát triển kinh tế. Đồng thời sự chênh lệch lãi suất này cũng gây khó cho
việc quản lý ngoại hối và việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, Con số hơn 8 tỉ
USD (năm 2010) cũng là áp lực gia tăng tổng phương tiện thanh toán thông qua gia tăng
tài sản có yếu tố nước ngoài ròng (NFA), gây khó khăn cho NHNN trong kiểm soát tiền
tệ.
Như vậy, đưa ra mặt trái của kiều hối chỉ là để chúng ta nhìn nhận vấn đề cho chính xác
hơn chứ hoàn toàn không phủ nhận vai trò to lớn của kiều hối đối với nền kinh tế Việt
Nam. Trái lại, chúng ta đang và sẽ vẫn rất cần tiếp tục khơi tăng nguồn kiều hối. Vấn đề
ở đây là song song với các biện pháp khơi tăng, nên thực thì các chính sách nhằm định
hướng hoặc tạo động lực để kiều hối đầu tư vào khu vực sản xuất và các lĩnh vực con
người như giáo dục và sức khỏe cộng đồng... nhằm tạo tại các hiệu ứng phát triển tích
cực về dài hạn cho đất nước.


13


14

CHƯƠNG 2: TỶ GIÁ VÀ THỰC TRẠNG TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về tỷ giá hối đoái

2.1.1. Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái được hiểu theo các đơn giản là giá cả của một đồng tiền này tính
theo một đồng tiền khác.
Có 2 cách thể hiện tỷ giá hối đoái:
Thứ nhất, tỷ giá hối đoái được thể hiện bằng: 1 số đơn vị nội tệ so với 1 đơn vị
ngoại tệ: USD/VND = 23000;
Thứ hai, tỷ giá hối đoái được thể hiện bằng: 1 số đơn vị ngoại tệ so với 1 đơn vị
nội tệ: VND/USD = 1/23000.
2.1.2. Các cách phân loại tỷ giá hối đoái
Trong giao dịch ngoại hối, tín dụng và thanh toán thương mại quốc tế, các loại tỷ
giá hối đoái khác nhau được hình thành và phục vụ mục đích khác nhau. Theo quan
điểm của Tài chính quốc tế thì có tỷ giá hối đoái được chia làm 4 loại:





Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
Tỷ giá hối đoái thực
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương
Tỷ giá hối đoái thực đa phương
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là giá của một đồng tiền so với một đồng tiền khác mà

chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa, dịch vụ giữa chúng hay lạm phát.
Tỷ giá hối đoái thực giữa hai đồng tiền bằng tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã được
điều chỉnh yếu tố lạm phát giữa nước trong với nước ngoài.
RER = e.P*/P
Ngoài ra, tỷ giá này còn biểu thị tỷ số giữa giá hàng hóa nước ngoài so với giá
hàng hóa trong nước (đã được quy về cùng đơn vị tiền tệ). Vì vậy, Nếu RER = 1 có
nghĩa là các hàng hóa này ngang giá nhau. RER > 1 thì hàng hóa nước ngoài mắc hơn

một cách tương đối so với hàng hóa trong nước (hay ta nói đồng tiền nước này bị định
giá thấp). Ngược lại, RER < 1 có nghĩa giá hàng hóa nước ngoài rẻ hơn một cách tương
đối so với hàng hóa trong nước (đồng tiền nước này bị định giá cao).


15
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương: là tỷ giá đo lường giá trị đối ngoại hay sức
mua đối ngoại của một đồng tiền so với các đống tiền khác của các nước đối tác. Nó
phản ánh mối quan hệ bình quân giữa tỷ giá song phương của một đồng tiền so với đồng
tiền khác.

Công thức:
Dựa vào công thức này có thể kết luận, nếu NEER tăng thì đồng nội tệ giảm giá
so với tất cả các đồng tiền được so sánh còn lại. Ngược lại, nếu NEER giảm thì đồng
nội tệ tăng giá so với tất cả các đồng tiền được so sánh còn lại.
Tỷ giá hối đoái thực đa phương: bằng tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương đã
được điều chỉnh tỷ lệ lạm phát, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua đối ngoại giữa
đồng nội tệ so với các đồng tiền còn lại.
Công thức:

REER = NEER x

Nếu REER tăng thì VNĐ mất giá so với tất cả các đồng tiền được so sánh còn lại.
Ngược lại, nếu REER giảm thì đồng nội tệ tăng giá so với tất cả các đồng tiền được so
sánh còn lại.
2.2. Thực trạng của tỷ giá hối đoái tại việt nam từ năm 2008 đến nay:
2.2.1. Giai đoạn năm 2008
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, năm 2008 là một năm mà tỷ giá
hối đoái đầy biến động và được coi là biến động nhất trong lịch sử tỷ giá hối đoái của
Việt Nam. Khi mà phải đến 3 lần NHNN nới lỏng biên độ thay đổi của tỷ giá.

Lần thứ nhất là vào 2/2008 khi mà theo số liệu thống kê có hơn 60000 kiều hối về
nước mang theo 300-400 triệu USD khiến lượng USD tăng cao dẫn đến nhu cầu đổi nội
tệ để tiêu dùng vầ sinh hoạt lớn. Đồng VND tăng giá, tỷ giá USD/VND giảm mạnh
nhưng với sự can thiệp của NHNN thì tỷ giá vẫn được ổn định, biên độ 0,5-1.1%.


16
Biểu đồ 2.2: Tỷ giá USD/VND tại Việt Nam năm 2008

Lần thứ 2 vào 27/6/2008, Đây cũng là giai đoạn mà giá tỷ giá VND/USD bất ổn
định nhất khi mà trên thị trường đầu năm tỷ giá chỉ xoay quanh ở mức 15.000 đến
16.000 VND/1 USD, vậy mà chỉ trong vòng 5 tháng, con số này suýt soát chạm ngưỡng
19.500 VND. Nguyên nhân do nhu cầu sử dụng ngoại tệ quá lớn của doanh nghiệp và
nhà đầu tư nước ngoài khi khủng hoảng diễn ra.
Lần thứ 3 là 7/11/2008, do làn sóng thoái vốn đầu tư ngoại trên thị trường chứng
khoán.
2.2.2. Giai đoạn 2009-2010
Năm 2009, tiếp tục làn sóng 4 tháng cuối năm 2008, biên độ tỷ giá lại được nới
lên mức 5% kéo tỷ giá trên thị trường vượt ngưỡng 18.000 VND/USD. Cuối năm 2009,
bằng một loạt các biện pháp nhằm thực hiện việc bình ổn tỷ giá như nâng lãi suất VND,
nâng tỷ giá liên ngân hàng, yêu cầu các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các ngân hàng
thương mại… từ đó đã đẩy lùi được tình trạng bất ổn của tỷ giá.
Từ cuối năm 2009 đến năm 2010, biên độ lãi suất đã được hạ xuống chỉ còn 3%.
Trong giai đoạn này tỷ giá trên thị trường chủ yếu xoay quanh giá bán ở mức 18.000
VND – 19.000 VND/USD.


17
Bảng 2.1: Tỷ giá hối đoái các tháng năm 2009 và 2010
Tháng

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Tỷ giá
17,484.5
17,480.5
17,786.0
17,783.0
17,775.0
17,773.0
17,813.5
17,819.0
17,840.5
17,940.0
18,385.0
18,474.0

2009
Tỷ lệ dao động
0.01%

-0.02%
1.75%
-0.02%
-0.04%
-0.01%
0.23%
0.03%
0.12%
0.56%
2.48%
0.48%

2010
Tỷ giá
Tỷ lệ dao động
18,474.0
0.00%
19,050.0
3.12%
19,090.0
0.21%
18,975.0
-0.60%
18,875.0
-0.53%
19,080.0
1.09%
19,075.0
-0.03%
19,495.0

2.20%
19,475.0
-0.10%
19,490.0
0.08%
19,499.0
0.05%
19,497.5
-0.01%
Nguồn: vn.investing.com

2.2.3. Giai đoạn 2011-1016
Những năm 2011 - 2016 là những năm thể hiện sự rất bình ổn về tỷ giá. Biên độ
chỉ vào khoảng 1%. Với cam kết cứng rắn rằng sẽ ghim giữ tỷ giá ổn định, NHNN đã
thực hiện rất tốt lời hứa của mình đồng thời tạo ra được môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định, bằng chứng là chỉ số lạm phát trong năm 2014 rất thấp (khoảng 3,95%) mức thấp
nhất trong 15 năm trở lại đây.
Tỷ giá biến động mạnh nhất trong các năm trong giai đoạn này chủ yếu là khoảng
thời gian từ tháng 1 đến tháng 2. Do lượng kiều bào về nước nhân dịp tết Nguyên đán
và mang theo lượng kiều hối lớn.


18
Bảng 2.2: Tỷ giá và tỷ lệ dao động của tỷ giá tháng 1 và tháng 2 giai đoạn 2012 2016
Năm

Tháng 1

Tháng 2


Tỷ lệ dao động

2012

20835

20865

0.07%

2013

20795

20995

0.77%

2014

21060

21100

0.2%

2015

21317


21555

1.14%

2016

22241

22351

0.50%
Nguồn: vn.investing.com

2.2.4. Từ cuối năm 2016 đến nay
Năm 2018, dư địa để NHNN điều hành tỷ giá đã được mở rộng hơn so với các
năm trước, các chính sách được áp dụng đã có sự linh hoạt và mang tính thị trường hơn
nhưng vẫn đảm bảo được sự ổn định cần thiết.
Năm 2018, tỷ giá biến động xuất phát một phần từ việc đồng USD mạnh lên, thể
hiện qua chỉ số USD Index, là chỉ số đo lường giá trị đồng USD so với một nhóm 6
đồng tiền hàng đầu thế giới bao gồm đồng EUR của liên minh châu Âu, JPY của Nhật,
GBP Anh, CAD của Canada, SEK của Thụy Điển và đồng CHF của Thụy Sỹ. Tuy
nhiên, nếu quan sát kỹ, chỉ số này từ đầu năm 2018 mới bắt đầu có xu hướng tăng trở lại
từ vùng đáy 90 điểm và tăng lên mới đạt mức 95 điểm, còn cách khá xa vùng đỉnh 105
điểm được thiết lập vào cuối năm 2016.
Các dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng rút khỏi các thị trường mới nổi để
quay trở lại Mỹ. Quá trình này được đẩy nhanh khi FED dự kiến nâng lãi suất 4 lần
trong năm nay thay vì 3 lần như nhiều dự báo trước đó đã gây ra sự xáo trộn trên thị
trường tài chính toàn cầu, không chỉ riêng Việt Nam.
Yếu tố đột biến tác động đến tỷ giá lại đến từ những diễn biến khó lường của
chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng gây tâm lý hoang mang cho nhà

đầu tư. Nhưng khác với năm 2015, chính sách và dư địa điều hành tỷ giá của NHNN
hiện đã có nhiều thay đổi và được mở rộng.
2.2.5. Khả năng ổn định tỷ giá
Trước tiên, dư địa để NHNN thực hiện các biện pháp can thiệp đã khác với đợt
biến động năm 2015, khi cán cân thương mại của Việt Nam là nhập siêu 3,5 tỷ USD, dự


19
trữ ngoại hối chỉ 30 tỷ USD. Trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam có được
nguồn cung ngoại tệ khá tốt nhờ trạng thái xuất siêu, thặng dư 3,1 tỷ USD và nguồn dự
trữ ngoại hối cũng đã đạt hơn 60 tỷ USD, tăng gấp 2 lần so với năm 2015.
Biểu đồ 2.3: Cán cân thương mại và dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2012
- 2018

(Nguồn: MBS Talk 15)
Bên cạnh đó, về dòng vốn ngoại, mặc dù thị trường chứng khoán 6 tháng đầu năm
nay diễn biến khó lường, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) vẫn tăng mạnh
82,4%, đạt 4,1 tỷ USD. Điều này cho thấy các nguồn vốn ngoại trung và dài hạn vẫn coi
Việt Nam là điểm đến hấp dẫn so với nhiều quốc gia khác.
Dư địa được mở rộng cũng là điều kiện để nhà quản lý tiếp tục duy trì các chính
sách “cứng rắn”, hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ và thị trường ngoại tệ được vận
hành ổn định.
Cụ thể, trần lãi suất huy động USD vẫn được giữ ở mức 0%; tín dụng ngoại tệ
được siết chặt hơn; lãi suất tiền đồng được giữ ở mức hấp dẫn, khuyến khích người dân
chuyển đổi từ USD sang VND.
Ngoài ra, từ đầu năm 2016, NHNN đã bắt đầu áp dụng cách thức điều hành chính
sách tỷ giá trung tâm. Cụ thể, tỷ giá trung tâm sẽ được NHNN được công bố và điều
chỉnh hàng ngày, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng xác định tỷ giá mua, giá bán của
VND so với USD trong biên độ +/- 3% theo quy định.
Cơ chế tỷ giá này có cả 2 chiều lên hoặc xuống, được xác định trên cơ sở tham

chiếu diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; diễn


20
biến tỷ giá trên thị trường quốc tế của một số đồng tiền của các nước có quan hệ thương
mại, vay, trả nợ, đầu tư lớn với Việt Nam, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu
chính sách tiền tệ.
Xét về mặt tổng thể, đây là một trong những giải pháp góp phần thu hẹp đối tượng
được vay vốn bằng ngoại tệ, chuyển dần quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ sang
quan hệ mua-bán ngoại tệ, tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại sử dụng công cụ
phái sinh kỳ hạn trong giao dịch với khách hàng.
Sau 2 năm áp dụng, chính sách điều hành tỷ giá mới đã góp phần tạo điều kiện hỗ
trợ tích cực cho sự phát triển thị trường phái sinh ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa
rủi ro tỷ giá của các tổ chức tín dụng cũng như cáBiểu đồ 2.4c doanh nghiệp, tăng tính
thanh khoản và phát triển thị trường tài chính.
Trên hết, chính sách này đã giúp NHNN có những sự điều chỉnh sát sao cần thiết,
bám sát cung cầu trên thị trường, hạn chế những cú sốc lớn đối với doanh nghiệp và
người dân như trước đây.
Trước mục tiêu hàng đầu vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ và định
hướng ổn định tỷ giá theo mức linh hoạt dao động 2% so với cuối năm 2017, ngoại trừ
trường hợp bất khả kháng, nhiều khả năng NHNN sẽ tiếp tục nỗ lực để giữ tỷ giá biến
động không vượt xa con số 2% này.


21

CHƯƠNG 3: TÁC ĐỘNG CỦA KIỀU HỐI ĐẾN TỶ GIÁ HỐI
ĐOÁI
3.1. Xây dựng mô hình nghiên cứu
3.1.1. Các nghiên cứu trước đây

Acosta, Lartey và Mandelman (2008) nghiên cứu tác động của kiều hối đến tỷ giá
hối đoái thực với dữ liệu phân chia ngành sử dụng dữ liệu mảng không cân bằng cho
109 quốc gia đang phát triển và chuyển tiếp trong giai đoạn 1990-2003. Phân tích được
thực hiện bằng mô hình tác động cố định quốc gia OLS và phương pháp tổng quát
(GMM) cho thấy GDP bình quân đầu người, chỉ số thương mại và tăng trưởng GDP dẫn
đến tăng tỷ giá hối đoái thực và chúng có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Mặt khác, người
ta thấy rằng độ mở thương mại không có ý nghĩa thống kê. Điều quan trọng, họ thấy
rằng sự gia tăng kiều hối ở các nền kinh tế đang phát triển dẫn đến tăng chi tiêu dẫn đến
sự gia tăng giá của các sản phẩm phi thương mại. Do đó, điều này dẫn đến sự tăng giá tỷ
giá hối đoái thực. Ngoài ra, việc tăng giá phi thương mại cũng dẫn đến sự dịch chuyển
tài nguyên, do đó làm giảm năng suất trong lĩnh vực sản xuất.
Trong một nghiên cứu tương tự, Acosta, Baerg và Mandelman (2009) xác nhận
rằng kiều hối dẫn đến sự tăng giá tỷ giá hối đoái thực. Nghiên cứu cho thấy các quốc gia
có thị trường tài chính phức tạp hơn được trang bị tốt hơn để giảm bớt thách thức kinh
tế vĩ mô về sự tăng giá của đồng nội tệ trong khi vẫn duy trì cạnh tranh. Sử dụng cùng
một dữ liệu, họ cũng chỉ ra rằng nếu sự mất giá xảy ra, số tiền mà đồng tiền mất giá phụ
thuộc vào khả năng của nền kinh tế trong nước đối với các khoản chuyển tiền theo
hướng đầu tư.
Sử dụng các kỹ thuật hợp nhất và mô hình dữ liệu mảng VAR, Izquierdo và
Montiel (2006) tập trung vào sáu nền kinh tế từ Trung Mỹ và Caribbean trong giai đoạn
1985-2004. Trái ngược với hầu hết các phát hiện, nghiên cứu chỉ ra rằng đối với
Honduras, Jamaica và Nicaragua, kiều hối không có ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thực.
Ở Dominica, kiều hối làm giảm tỷ giá hối đoái thực sự, trong khi đối với El Salvador,
kiều hối tác động dương đến tỷ giá hối đoái.
3.1.2. Lựa chọn mô hình nghiên cứu
Nghiên cứu của Kemeisha Barrett (2014) sử dụng mô hình đánh giá tác động của
tỷ trọng kiều hối tính trên GDP (REM), chi tiêu của chính phủ (GS), tỷ lệ trao đổi


22

thương mại (TOT), độ mở của thương mại (OPN), viện trợ tài chính từ nước ngoài
(AID) và lãi suất thế giới (WIR) lên tỷ giá hối đoái (RER) của Jamaica:
RER = f(REM, GS, TOT, OPN, AID, WIR)
Bên cạnh đó, mô hình đánh giá tác động đến tỷ giá hối đoái của các nước Mỹ
Latin và vùng Caribbean (q) trong nghiên cứu của Catalina Amuedo-Dorantes và Susan
Pozo vào năm 2004 sử dụng các yếu tố như kiều hối của công nhân (W), viện trợ nước
ngoài (A), tăng trưởng công nghệ (αdiff), chi tiêu chính phủ (G), tỷ lệ trao đổi thương mại
(TOT) và lãi suất thế giới (Rw).
q = f(W, A, αdiff, G, TOT, Rw)
Qua các nghiên cứu trên và tìm hiểu, nhóm đưa ra mô hình đánh giá tác động lên
tỷ giá hối đoái như sau:
RER = f(REM, GS, TOT, AID, INF)
Bảng 3.3: Các biến được lựa chọn
Đại lượng
RER
REM
GS
TOT
AID
INF

Mô tả
Tỷ giá hối đoái thực tế
Kiều hối về Việt Nam
Tỷ trọng chi tiêu chính phủ trong GDP
Tỷ lệ trao đổi thương mại
Viện trợ nước ngoài
Chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam

Đơn vị

VND/USD
USD
%
Đơn vị
USD
%

Mô hình hồi quy có dạng:
= + + + + + +
3.1.3. Cơ sở dữ liệu
Do hạn chế về sự sẵn có của số liệu, nhóm sẽ ước lượng ảnh hưởng các nhân tố
trong giai đoạn 2000 – 2017. Chi tiết về nguồn số liệu được mô tả trong bảng dưới:


23
Bảng 3.4: Mô tả dữ liệu
Đại
lượng
RER

REM
GS
TOT
AID

INF

Mô tả

Nguồn


Tỷ giá hối đoái Số liệu về tỷ giá hối đoái danh nghĩa bình quân
thực tế
VND/USD, CPI của Việt Nam và Mỹ được lấy từ dữ
liệu của ngân hàng Thế giới (World Development
Indicators
(WDI))
theo
đường
dẫn
Riêng với tỷ giá hối đoái
danh nghĩa bình quân giai đoạn 2014 – 2017, nhóm
tính từ số liệu tỷ giá hối đoái danh nghĩa theo tháng từ
trang .
Kiều hối
Việt Nam

về Dữ liệu của ngân hàng Thế giới (World Development
Indicators
(WDI))
theo
đường
dẫn
/>Tỷ trọng chi Dữ liệu của ngân hàng Thế giới (World Development
tiêu chính phủ Indicators
(WDI))
theo
đường
dẫn
trong GDP

/>Tỷ lệ trao đổi Dữ liệu của ngân hàng Thế giới (World Development
thương mại
Indicators
(WDI))
theo
đường
dẫn
/>Viện trợ nước Dữ liệu viện trợ nước ngoài bao gồm hỗ trợ phát triển
ngoài
chính thức (ODA) và hỗ trợ chính thức (OA) lấy từ
ngân hàng Thế giới (World Development Indicators
(WDI)) theo đường dẫn />Chênh
lệch Tỷ lệ lạm phát của Mỹ và Việt Nam được lấy từ dữ liệu
lạm phát giữa của ngân hàng Thế giới (World Development Indicators
Mỹ và Việt (WDI)) theo đường dẫn />Nam
Tỷ giá hối đoái thực tế được tính theo công thức:
x
Trong đó là tỷ giá hối đoái tại thời điểm t, là chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ tại thời

điểm t, là chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam tại thời điểm t.
3.1.4. Đề xuất giả thuyết
Tác động mà kiều hối sẽ gây ra với tỷ giá hối đoái thực sẽ phụ thuộc vào mục đích
sử dụng tiền của người nhận. Roberts (2006) đã chỉ ra rằng một tỷ lệ kiều hối đáng kể
được sử dụng cho mục đích tiêu dùng trong khi tỷ lệ nhỏ hơn được sử dụng để đầu tư.
Tỷ giá hối đoái thực biến động như thế nào phụ thuộc vào loại hàng hóa được tiêu thụ.
Nếu hầu hết các sản phẩm trong nước được tiêu thụ, cầu về nội tệ sẽ tăng, đường cầu
nội tệ dịch phải làm giá nội tệ tăng, điều này sẽ dẫn đến sự tăng giá tỷ giá hối đoái thực


24

của nội tệ trên một USD. Trong những trường hợp có sự phụ thuộc cao vào nhập khẩu,
tác động sẽ khác, nghĩa là, điều này sẽ làm giảm tỷ giá hối đoái thực.
Chỉ số trao đổi thương mại (Terms of Trade) là chỉ số đánh giá mức độ xuất khẩu
so với nhập khẩu, được tính bằng thương của giá xuất khẩu với giá nhập khẩu. Nếu tốc
độ tăng giá xuất khẩu của một quốc gia nhanh hơn tốc độ tăng giá nhập khẩu, thì tỷ lệ
trao đổi thương mại đã được cải thiện tích cực. (Quyết, 2016) Tỷ lệ trao đổi thương mại
tăng cho thấy nhu cầu về hàng xuất khẩu của nước đó đang tăng, cung ngoại tệ tăng lên,
ngoại tệ mất giá, tỷ giá hối đoái giảm. Nếu tốc độ tăng trưởng của giá xuất khẩu chậm
hơn so với nhập khẩu, giá trị của đồng ngoại tệ sẽ tăng tương đối với các đối tác thương
mại.
Chi tiêu chính phủ tương đối (G) có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Tác động
của chi tiêu tài chính đến tỷ giá hối đoái thực tế phụ thuộc vào thành phần chi tiêu của
ngành.
Ta có công thức PPP ở dạng tuyệt đối:
E=
Trong đó: E là tỷ giá hối đoái của 1 đơn vị ngoại tệ theo nhiều đơn vị nội tệ; là
chỉ số giá của nhóm hàng hoá có thể tham gia thương mại quốc tế (ITG) ở nước ngoài;
là chỉ số giá của nhóm của hàng hoá ITG ở trong nước; là chỉ số giá của nhóm hàng
hoá không thể tham gia thương mại quốc tế (NITG) ở nước ngoài; là chỉ số giá của
nhóm của hàng hoá NITG ở trong nước; α là tỉ trọng hàng hoá nhóm NITG; β là tỉ trọng
hàng hoá nhóm ITG.
Mức giá cả giữa hàng hóa ITG và NITG [tức tỷ số và ] có ảnh hưởng đến tỷ giá.
Trong mỗi nền kinh tế, nếu các nhân tố khác không đổi, chính phủ tăng chi tiêu cho
nhóm hàng hoá NITG sẽ làm cho giá hàng hóa NITG tăng tương đối so với giá hàng
hoá TTG (tức tăng), làm cho tỷ giá giảm, tức nội tệ lên giá. Điều này xảy ra là vì, trong
khi chỉ số giá cả chung không đổi, thì tăng chỉ có thể xảy ra khi tăng và phải giảm. Do
giảm làm cho tỷ giá giảm để duy trì PPP (vì = E.). Ngược lại, nếu các nhân tố khác
không đổi, thì khi chính phủ tăng chi tiêu cho nhóm hàng hoá ITG sẽ đẩy giá hàng hóa
ITG tăng tương đối so với giá hàng hoá NITG, làm cho tỷ giá tăng, tức nội tệ giảm giá.
(Tiến, 2011) Do đó, không rõ chi tiêu chính phủ cuối cùng sẽ có tác động gì đến tỷ giá

hối đoái thực.


25
Theo nguyên tắc chung, khi một đất nước duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, giá trị
của đồng tiền nước này sẽ tăng lên, bởi sức mua trong nước tăng lên tương đối so với
các đồng tiền khác. Trong nửa cuối của thế kỷ 20, những nước có lạm phát thấp bao
gồm Nhật Bản, Đức và Thụy Sĩ, còn Mỹ và Canada mãi về sau mới đạt được mức lạm
phát thấp. Còn đồng tiền của những nước có lạm phát cao hơn thường mất giá so
với với đồng tiền của các đối tác thương mại của mình. Hiện tượng này cũng thường đi
kèm với lãi suất cao hơn. (Quyết, 2016)
Như vậy, ta có bảng kỳ vọng tác động của các biến độc lập lên biến phụ thuộc:
Bảng 3.5: Kỳ vọng dấu của các biến độc lập
Tên biến
lnRER
lnREM
GS
lnTOT
lnAID
INF

Ý nghĩa
Logarit của tỷ giá hối đoái
Logarit của kiều hối
Tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP
Logarit tỷ lệ trao đổi thương mại
Logarit của viện trợ quốc tế
Chênh lệch tỷ lệ lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam

Dấu kỳ vọng

+/+/+/-

3.2. Kết quả nghiên cứu
3.2.1. Thống kê mô tả
Nhóm tác giả thực hiện thống kê mô tả dữ liệu và rút ra những đặc điểm cơ bản về
các biến như giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, lớn nhất như sau:
Bảng 3.6: Thống kê mô tả
Biến
lnRER
lnREM
GS
lnTOT
lnAID
INF

Số quan
sát
18
18
18
18
18
18

Trung bình

Độ lệch
Giá trị lớn
Giá trị nhỏ
chuẩn

nhất
nhất
10.6568
3.171767
9.676138
23.34654
22.37531
0.8448196
20.81858
23.40184
6.069424
0.354431
5.465202
6.509513
4.800718
0.1672371
4.580432
5.300238
21.63695
0.3806817
20.96709
22.16206
-4.623942
5.767223
-19.27722
5.087195
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tự tính toán bằng phần mềm Stata

3.2.2. Kết quả hồi quy
Kết quả hồi quy mô hình được trình bày trong bảng:

Bảng 3.7: Kết quả hồi quy
Biến

Hệ số hồi quy

p-value

Khoảng tin cậy ở mức ý nghĩa 5%


×