Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

tiểu luận tài chính quốc tế đô la hoá và tác động của nó đến với nền kinh tế việt nam giai đoạn 2013 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.77 KB, 47 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với xu hướng toàn cầu hóa, quan hệ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế ngày
càng được củng cố và phát triển mạnh mẽ. Việc tham gia vào phân công lao động quốc
tế đem lại cho những nước đang phát triển như Việt Nam cơ hội lớn để thúc đẩy phát
triển kinh tế trong nước, nâng cao đời sống của nhân dân. Thông qua hoạt động thương
mại, thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam có cơ hội tích lũy nguồn ngoại tệ lớn, đảm
bảo nhu cầu nhập khẩu, tăng cường quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Nhưng đồng thời, nó
cũng làm cho nền kinh tế nước nhà nhạy cảm hơn bao giờ hết với những biến động của
nền kinh tế thế giới, và không tránh khỏi những tác động tiêu cực.

Trong những năm gần đây, một trong những đe dọa từ xu hướng toàn cầu hóa
chính là tình trạng đô la hóa nền kinh tế - khi mà đồng bản tệ mất đi vị trí trọng tâm
của nó trong thanh toán, cất trữ giá trị. Đây là vấn đề chung của những nước đang
phát triển, nhưng đối với Việt Nam thì vấn đề này còn trầm trọng hơn. Tình trạng
lạm phát cao trong quá khứ đã làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào VND. Người
dân trở nên sùng bái USD trong giao dịch các hàng hóa có giá trị và cất trữ.
Từ năm 2013, tiền gửi bằng ngoại tệ giảm mạnh tưởng chừng như hiện tượng
Đô la hóa đã giảm, nhưng kể từ năm 2014 trở đi Đô la hóa lại bắt đầu vận động một
cách rõ ràng. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà Nước cũng đã có những chính sách thay
đổi lãi suất đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để điều tiết nền kinh tế. Ví dụ như quyết
liệt thực hiện “Đề án chống đô la hóa”, với mục tiêu giảm tỉ trọng tiền gửi ngoại tệ
xuống 15% vào năm 2015 và chấm dứt tình trạng đô la hóa trước năm 2020.
Do vậy, chúng em lựa chọn phạm vi nghiên cứu từ 2013 đến nay vì trong thập
kỷ qua, mặc dù lạm phát đã được kiểm soát và có xu hướng ổn định ở mức thấp,
nhưng Đô la hoá vẫn còn là hiện tượng phổ biến ở các nước đang phát triển và các
nền kinh tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam. Nhất là gần đây cuộc chiến
tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến nền kinh
tế thế giới, khiến vấn đề Đô la hóa lại một lần nữa được đề cập đến.
Để tìm hiểu sâu sắc hơn về thực trạng, nguyên nhân, những tác động và từ đó
đưa ra giải pháp cho tình trạng đô la hóa, đề tài “Đô la hoá và tác động của nó đến


với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2013-2019” được thực hiện.
3


Đây là một đề tài khá khó, hơn nữa thời gian làm bài và trình độ của người
viết còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi có những thiếu sót nhất định. Qua đây
chúng em xin cảm ơn PGS TS. Mai Thu Hiền đã tận tình hướng dẫn để chúng em
hoàn thành nghiên cứu này, nếu có thời gian và điều kiện chúng em sẽ mở rộng và
hoàn thiện đề tài này hơn nữa.
2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp phân tích định tính dựa
trên cơ sở lý thuyết kinh tế học đã được chấp nhận rộng rãi, kết hợp với việc phân tích,
suy luận để ứng dụng cho thực tế Việt Nam. Nguồn dữ liệu sử dụng trong đề tài là
nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ NHNN, Tổng cục thống kê, ADB, IMF …

3. Phạm vi nghiên cứu:
Trong nội dung của đề tài này, chúng em sẽ chỉ tập trung xem xét đô la hóa bằng
đồng USD đến nền kinh tế Việt Nam từ năm 2013 cho đến nay. Trọng tâm nghiên cứu
là thực trạng, nguyên nhân đô la hóa ở Việt Nam hiện nay, từ đó có thể nắm rõ được
những tình hình mới nhất của hiện tượng đô la hóa ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt
Nam ra sao và đưa ra đánh giá và kiến nghị giải pháp khắc phục hiện tượng trên.

4. Kết cấu đề tài:
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về đô la hóa.
Chương 2: Thực trạng của đô la hóa đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn
2013 – 2019.
Chương 3: Giải pháp khắc phục tình trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay.

4



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA
1.1.

Khái niệm chung

Theo tiêu chí của IMF, Đô la hóa (dollarization) là tình trạng mà tỷ trọng tiền
gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt
trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Ngoại tệ có thể gồm bất kỳ một loại ngoại tệ nào như: yên Nhật, bảng Anh,
Euro, nhưng trong đa số các trường hợp nghiên cứu hiện tượng đô la hóa với đồng
USD. Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods đầu những năm 1970, USD đã trở
thành phương tiện thanh toán quốc tế và chưa có dấu hiệu bị thay thế bởi một loại
ngoại tệ khác cho đến hiện nay. Hơn thế, Mỹ cũng muốn tận dụng lợi thế là nền
kinh tế hàng đầu thế giới của mình để tăng cường sức mạnh cho đồng USD và tạo
áp lực cho các nền kinh tế mới nổi.
1.2.

Phân loại đô la hóa

1.2.1. Căn cứ vào hình thức
Căn cứ vào hình thức để phân loại, đô la hóa thể hiện dưới 3 hình thức với
mức độ đô la hóa tăng dần: Đô la hóa thay thế tài sản, Đô la hóa phương tiện thanh
toán và Đô la hóa định giá, niêm yết. Đây là 3 bước phát triển của tình trạng đô la
hóa ứng với các chức năng của tiền tệ là: phương tiện cất trữ giá trị, phương tiện
thanh toán và là thước đo giá trị.
1.2.1.1. Đô la hóa thay thế tài sản
Đô la hóa thay thế tài sản thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương

tiện thanh toán (FCD/M2). Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh tế đó
được cho là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc trong điều hành tài chính
tiền tệ vĩ mô. Biểu hiện của tình trạng này là người dân thích nắm giữ trái phiếu
ngoại tệ, gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ để bảo vệ tài sản của họ trước tình hình lạm
phát trong nước. Đây là bước đầu tiên trong quá trình đô la hóa ở các nước đô la
hóa không chính thức

5


1.2.1.2. Đô la hóa phương tiện thanh toán
Đô la hóa phương tiện thanh toán thể hiện qua mức độ sử dụng ngoại tệ trong
thanh toán. Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá
nhất là đối với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam. Biểu hiện của tình trạng
này là người dân nắm giữ một lượng lớn tiền gửi bằng đồng ngoại tệ trong hệ thống
ngân hàng (nếu được pháp luật cho phép). Các khoản tiền lương, thuế, chi phí sinh
hoạt hàng ngày vẫn sử dụng đồng bản tệ nhưng đối với những hàng hóa có giá trị
cao như bất động sản, ô tô thì được chi trả bằng ngoại tệ.
1.2.1.3. Đô la hóa định giá, niêm yết giá
Đô la hóa định giá, niêm yết giá là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng
ngoại tệ. Người dân sẽ có xu hướng neo giữ tất cả các loại mặt hàng vào một đồng
ngoại tệ mạnh để quy đổi ra đồng nội tệ.
1.2.2. Căn cứ vào phạm vi
Theo Connie Mack (Các vấn đề cơ bản của đô la hóa, 1999) thì đô la hóa được
chia thành 3 loại căn cứ vào phạm vi là: Đô la hóa chính thức, Đô la hóa bán chính
thức và Đô la hóa không chính thức.
1.2.2.1. Đô la hóa chính thức
Đô la hóa chính thức hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn xảy ra khi đồng ngoại
tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ
được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp

trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng ngoại tệ còn tồn tại thì nó chỉ
có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ.
Thông thường, các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc
thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Ví dụ về một số nước đang bị đô la hóa chính thức: Panama, Ecuador,
Salvador. 1.2.2.2. Đô la hóa bán chính thức
Đô la hóa bán chính thức hay còn gọi là đô la hóa từng phần là tình trạng đồng
ngoại tệ được sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị
và phương tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng
ngoại tệ có chức năng như một đồng tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các
nước ở tình trạng này vẫn duy trì một NHTW để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
6


Ví dụ về một số nước đang bị đô la hóa bán chính thức: Bahamas, Campuchia,
Haiti, Lào, Liberia
1.2.2.3. Đô la hóa không chính thức
Đô la hóa không chính thức là trường hợp đồng ngoại tệ được sử dụng rộng rãi
trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những
nước có nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với
việc sử dụng đồng ngoại tệ nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng
ngoại tệ, cấm dùng ngoại tệ đối với hầu hết giao dịch trong nước.
Một số nước bị xếp vào nhóm này phải kể đến: hầu hết các nước ở châu Mỹ
Latin, phần lớn các nước thuộc liên bang Xô viết cũ. IMF cũng xếp Việt Nam vào
trong nhóm các nước bị đô la hóa không chính thức.
Ngoài ra, hiện tượng đô la hóa còn được phân loại thành Đô la hóa trực tiếp và
Đô la hóa gián tiếp. Theo Andreas Hauskrecht (2010) :
- Đô la hóa trực tiếp là khi một đồng ngoại tệ được sử dụng trong một nước
khác như là phương tiện thanh toán, cất trữ giá trị và là đơn vị hạch toán kế toán
- Đô la hóa gián tiếp là khi chính phủ một nước buộc phải phát hành trái phiếu

chính phủ bằng đồng ngoại tệ (thường là USD) vay nợ, hoặc cho phép các doanh
nghiệp neo giá trị các hợp đồng theo loại ngoại tệ này thay vì cho phép sử dụng trực
tiếp ngoại tệ.
1.3.

Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa

Đô la hóa là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt ở các nước
chậm phát triển. Các nguyên cứu của Andreas Hauskrecht (2010), Benjamin Cohen
(2009) và Calvo & Guidotti (1998) đưa ra rất nhiều nguyên nhân khác nhau để lý
giải cho hiện tượng này, bao gồm những nguyên nhân xuất phát từ thực trạng yếu
kém của nền kinh tế cũng như nguyên nhân khách quan từ bên ngoài.
1.3.1. Nguyên nhân bên ngoài
Theo Benjamin Cohen, toàn cầu hóa được coi là nguyên nhân bên ngoài cho hiện
tượng đô la hóa vì đây là xu hướng không tránh khỏi trong quá trình phát triển. Đô la
hóa xuất phát từ việc các đồng tiền mạnh có các quốc gia phát triển, đặc biệt là Mỹ,
được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Nói cách khác, USD là đồng
7


tiền mạnh có thể tự do chuyển đổi và lưu thông trên toàn cầu. 70% các giao dịch
thương mại trên thế giới được thực hiện bằng đồng USD.
Ngày nay, khi mà hầu hết các nước đều theo xu hướng mở cửa hội nhập nền
kinh tế, các giao dịch thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng trực tiếp
đến nền kinh tế và hệ thống chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia. Việc này đã tạo ra
cầu sử dụng ngoại tệ. Ở một mức độ nào đó, đô la hóa có thể được coi là hiện tượng
tất yếu.
1.3.2. Nguyên nhân bên trong
 Thâm hụt ngân sách nhà nước
Theo Andreas Hauskrecht, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là tình

trạng thâm hụt ngân sách rất thường thấy ở các quốc gia đang phát triển. Thâm hụt
NSNN, đi kèm với việc thâm hụt cán cân thương mại và cán cân vãng lai đã kích
thích tình trạng vay nợ nước ngoài, tạo ra một lượng lớn cung ngoại tệ cho nền kinh
tế. Hơn nữa, thực trạng này nếu kéo dài sẽ làm giảm sút lòng tin của dân chúng vào
đồng nội tệ, kích thích tình trạng găm giữ ngoại tệ.
 Phòng ngừa rủi ro

Theo nghiên cứu của Gianni De Nicolo, Patrick Honohan và Alain Ize
(2003), nguyên nhân sâu xa của tình trạng đô la hóa chính là để phòng ngừa rủi ro,
đặc biệt là rủi ro về lạm phát. Khi chênh lệch lạm phát giữa 2 quốc gia là lớn, tỷ giá
danh nghĩa sẽ không còn phản ánh chính xác ngang giá sức mua giữa 2 đồng tiền.
Quốc gia có lạm phát cao đứng trước nguy cơ phá giá đồng nội tệ về giá trị thực của
nó. Người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ, từ đó họ phải tìm các công cụ dự trữ
giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với chức năng ban đầu làm
phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ
trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.


Nhận tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ

Khi có một lượng lớn ngoại tệ trong tay, các ngân hàng sẽ cho vay ra nền kinh tế
hoặc đẩy lượng ngoại tệ này vào trong lưu thông. Dựa vào công thức tính số nhân tiền
có thể thấy lượng ngoại tệ trong nước sẽ tăng lên. Khi người dân nắm trong tay lượng
ngoại tệ này sẽ có xu hướng dùng trong thanh toán, gây ra tình trạng đô la hóa.
8


Việc cho vay bằng ngoại tệ sẽ càng đẩy mạnh tình trạng đô la hóa. Với một
lượng K đơn vị ngoại tệ ban đầu đi vay, khách hàng cần trả ngân hàng K(1+i) đơn vị
ngoại tệ. Việc này làm cho cầu ngoại tệ trong nước tăng lên, vị trí của đồng nội tệ bị

xói mòn. Nó khiến cho người dân thêm kỳ vọng vào sự giảm giá nội tệ và tình trạng
đô la hóa càng trầm trọng hơn.


Vốn đầu tư nước ngoài

Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn trong nước (bao gồm: vốn từ
NSNN, vốn tư nhân) cho nhu cầu đầu tư phát triển là không đủ. Các nước này sẽ
cách thu hút thêm nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài như FDI, ODA, các khoản vay
thương mại. Việc thu hút được nhiều vốn đầu tư từ nước ngoài cũng đồng nghĩa với
việc có một lượng ngoại tệ lớn trong nền kinh tế, kích thích tình trạng đô la hóa.

1.4.

Tác động của đô la hóa đối với nền kinh tế

1.4.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, đô la hóa làm giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ
lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có
một lượng lớn ngoại tệ mạnh trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ
chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư
nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này
NHTW sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời
NSNN sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân
sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân
sách sẽ mang tính tích cực hơn.
Thứ hai, đô la hóa giúp tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng
hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các

ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải
vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của NHTW đối với luồng ngoại
tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy
quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
9


Thứ ba, hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi
phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng
tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết,
các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
Thứ tư, thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính
thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ,
khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể
được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách tiảm
xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
Thứ năm, thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính
thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để
chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức sang thị trường chính thức.
1.4.2. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong
một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ
mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng
bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
Thứ hai, làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ Đô la hóa gây khó
khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa
ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và
kịp thời. Đô la hóa cũng làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên
ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền
kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. Thêm vào đó,

đô la hóa sẽ tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có
thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ
đồng nội tệ sang ngoại tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi
các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia
bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu
thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái. Ở trong các nước đô la hoá không chính
thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất
ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất
10


giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi
bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra
sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá).
Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc đặt mục tiêu cung tiền
trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường
hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân
đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt
là cho vay dài hạn, khi đó NHTW của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được
vì không có chức năng phát hành ngoại tệ.
Thứ tư, Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của NHTW là người
cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la
hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin
tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên
nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này
chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với
ngoại tệ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn
hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi
chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CỦA ĐÔ LA HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH

TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOAN 2013 – 2019
2.1.

Thực trạng của hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam giai đoạn 2013-2019

2.1.1. Giai đoạn 2013-2015
 Năm 2013:
Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế giảm nên NHNN đã mua được một
lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Trong 8 tháng đầu năm 2013,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện đồng bộ các biện pháp ổn định tỷ giá và
thị trường ngoại tệ, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối, hỗ trợ cho việc thực thi
chính sách tiền tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Một số biện pháp quan trọng cho thấy sự chủ động của NHNN trong việc điều
hành chính sách quản lý tỷ giá và thị trường ngoại tệ như công khai ngay từ đầu năm
11


định hướng tiếp tục duy trì ổn định tỷ giá trong năm 2013 với mức biến động 2 - 3%
nhằm ổn định tâm lý thị trường, định hướng kỳ vọng tỷ giá và củng cố niềm tin của
người dân vào VND.
Bên cạnh đó, NHNN đã điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ
mức 20.828 VND/USD lên mức 21.036 VND/USD kể từ ngày 28/6/2013, đồng thời
điều chỉnh giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của tổ chức, cá nhân tại
TCTD, đảm bảo phù hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ, các cân đối vĩ mô, diễn
biến cán cân thanh toán quốc tế, chính sách điều hành lãi suất VND và tiếp tục
khuyến khích người dân nắm giữ VND, giảm nắm giữ ngoại tệ.
Việc điều hành linh hoạt tỷ giá mua vào USD của NHNN đã khuyến khích các
TCTD bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều chỉnh linh
hoạt tỷ giá bán ra để can thiệp thị trường phù hợp với mục tiêu ổn định thị trường.
Đồng thời, NHNN đã kết hợp chặt chẽ việc điều hành chính sách quản lý tỷ giá và

thị trường ngoại tệ với các công cụ chính sách tiền tệ để điều hòa lượng tiền VND
cung ứng khi mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước nhằm không gây áp lực
lên lạm phát và không ảnh hưởng đến điều hành tỷ giá.
Nhờ triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp ổn định thị trường, trong 8
tháng đầu năm 2013, thị trường ngoại tệ và tỷ giá về cơ bản diễn biến ổn định, phù
hợp với diễn biến cung cầu ngoại tệ trên thị trường và góp phần thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu, hạn chế nhập siêu và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, chuyển dần quan hệ huy
động - cho vay ngoại tệ sang quan hệ mua - bán ngoại tệ, đảm bảo an toàn hệ thống
TCTD, tăng niềm tin vào VND. Những biến động bất thường trong một số thời
điểm đã được NHNN can thiệp kịp thời nên thị trường ngoại tệ và tỷ giá đã nhanh
chóng ổn định trở lại.
Tín dụng bằng ngoại tệ cũng giảm mạnh phù hợp với chủ trương chuyển quan
hệ huy động-cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua-bán bằng ngoại tệ, giảm sức
ép tín dụng bằng ngoại tệ và rủi ro liên quan đến chênh lệch giữa các loại tiền của
hệ thống ngân hàng. Nhờ tỷ giá ổn định, tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế giảm
nên NHNN đã mua được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước,
góp phần tăng tiềm lực tài chính và uy tín của quốc gia.
12


Hình 1: Dữ trữ ngoại hối cứa Việt Nam đến năm 2013
(Nguồn: Trung tâm nghiên cứu, Tập đoàn Đầu tư Phát triển Việt Nam)
 Năm 2014:
Năm 2013 khép lại một năm bận rộn khi nhiều chính sách điều hành tài chính tiền tệ của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) được triển khai liên tục,
quyết liệt và nhiều chính sách đã phát huy tác dụng góp phần ổn định và phục hồi
kinh tế. Một trong những chính sách đó đã đạt được hiệu quả rõ rệt trong thời gian
qua là công tác chống đô la hóa nền kinh tế. Tỷ lệ đô la trong nền kinh tế đã được
giảm mạnh.
Với mục tiêu giảm tỷ trọng tiền gửi ngoại tệ xuống 15% vào năm 2015 và

chấm dứt tình trạng đô la hóa trước năm 2020, NHNN đã lên kế hoạch và thi hành
nhiều chính sách, biện pháp ngay từ năm 2011. Trong hơn 2 năm qua, thị trường
ngoại hối cơ bản ổn định, thanh khoản ngoại tệ của hệ thống được cải thiện. Có thời
điểm tỷ giá có áp lực tăng nhưng chủ yếu do yếu tố tâm lý và đã nhanh ổn định
ngay sau những động thái can thiệp kịp thời của NHNN.
Để mở đường trước khi đưa Pháp lệnh quản lý ngoại hối (ban hành năm 2013)
với hàng loạt sửa đổi nhằm quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn sẽ có hiệu lực từ 1/1/2014,
NHNN đã thi hành một loạt các biện pháp như tăng mạnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại
tệ, giảm mạnh trạng thái ngoại hối của các NHTM (giảm trạng thái ngoại tệ của các
13


tổ chức tín dung (TCTD) xuống mức ±20% vốn điều lệ so với yêu cầu trước đó là
±30%), áp trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp hơn và yêu cầu kết hối ngoại tệ 100%
đối với doanh nghiệp Nhà nước; hạn chế ngân hàng cho vay ngoại tệ và đối tượng
được vay ngoại tệ; giảm lãi suất huy động tiền gửi bằng ngoại tệ đối với cá nhân và
doanh nghiệp; nghiêm cấm các giao dịch, niêm yết giá trong nước bằng vàng, ngoại
tệ…
Với chủ trương và các biện pháp quyết liệt như vậy từ NHNN đã khiến cho
tính hấp dẫn của ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD giảm xuống. Tín dụng bằng ngoại
tệ cũng giảm mạnh, kéo theo hiện tượng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ, cũng giảm đi
đáng kể, đồng thời góp phần quan trọng giúp cho vị thế của tiền đồng, niềm tin vào
tiền đồng được nâng lên. Ngoài ra, hiện tượng niêm yết bằng đồng USD tại các
khách sạn, một số trung tâm mua bán cũng giảm đáng kể. Việc niêm yết, mua bán
bằng USD đối với đồ điện tử, ôtô, bất động sản… gần như đã biến mất sau nhiều
năm làm đau đầu các nhà quản lý.
Thành công lớn nhất của các biện pháp chống đô la hóa thể hiện rõ khi đến
cuối 2013, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán tiếp tục giảm, còn
khoảng 12%, dữ trữ ngoại hối tăng gấp hai lần so với cuối năm 2011. Đặc biệt, nhờ
đó, tâm lý nắm giữ ngoại tệ được đẩy lùi, thị trường tự do bị thu hẹp. Tình trạng

đôla hóa giảm, lòng tin vào đồng Việt Nam được nâng cao.
Từ đầu năm 2014, ngày 2/1/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01 về
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014. Về chính sách tiền tệ,
Chính phủ yêu cầu NHNN chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương điều
hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính
sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng
hợp lý; bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng và của nền kinh tế.
Cũng trong Nghị quyết này, Chính phủ nhấn mạnh vai trò của NHNN trong việc
quản lý hiệu quả thị trường ngoại hối, thị trường vàng, tiếp tục củng cố kết quả chống
vàng hóa, kiên quyết đẩy nhanh chống đô la hóa, có các biện pháp huy động nguồn lực
từ vàng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện thanh

14


toán không dùng tiền mặt cũng như hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính đối
với thị trường tiền tệ.

Hình 2: Tỷ lệ các phương thức thanh toán năm 2013-2014
Số lượng người sử dụng ví điện tử năm 2014 tăng 29%.
Ngay sau đó, NHNN cũng đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực
hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2014.
Theo đó, mục tiêu trong năm 2014 sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ chủ động,
linh hoạt. Điều hành tỷ giá và lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đặc
biệt diễn biến lạm phát, bảo đảm giá trị tiền đồng. Đồng thời thực hiện các giải pháp
quản lý ngoại hối nhằm quản lý thị trường ngoại hối, ổn định tỷ giá, khắc phục tình
trạng đôla hóa nền kinh tế, tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.



Năm 2015:

Báo cáo Tình hình kinh tế năm 2015 và tháng 5 năm 2014 của Ủy ban Giám
sát tài chính quốc gia phân tích, đối với ngoại tệ, thanh khoản đang chịu áp lực nhất
định. Trong khi tính đến tháng 4, tiền gửi bằng ngoại tệ giảm 9,1%, cho vay ngoại tệ
đã tăng 7,2% so với đầu năm. Do đó, tỷ lệ cho vay/tiền gửi ngoại tệ đã tăng từ
84,3% cuối năm 2013 lên 99,5% vào cuối tháng 4/2014.
Không ít doanh nghiệp trước kia để có USD trả nợ nước ngoài, đã vay bằng
VND, sau đó hoán đổi sang ngoại tệ để trả nợ thay, vì vay nợ trực tiếp bằng USD sẽ
đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng lên, tuy nhiên, hiện tượng này dường như đang lặp lại.
15


Các chuyên gia kinh tế độc lập phân tích, phần huy động ngoại tệ đang giảm
khoảng 4 - 5% từ đầu năm đến giờ, trong khi đó, dư nợ tăng lên nhanh chắc chắn sẽ
gây sức ép lên ngoại tệ. Bản thân các ngân hàng cũng không còn dư ngoại tệ nhiều,
không thể âm trạng thái nhiều như trước, bởi muốn âm trạng thái, phải vay ngoại tệ
bằng cách vay nước ngoài hay trong nước. Vay nước ngoài trước đây khá dễ dàng,
dẫn đến tình trạng huy động ngoại tệ nhiều, có phần không dùng đến, bán ra thị
trường lấy tiền đồng cho vay với lãi suất tốt hơn hay đầu tư vào trái phiếu chính
phủ. Nhưng vay nước ngoài giờ đây không dễ, trong khi phần huy động thấp hơn
mà phần đầu tư lớn, nên lượng ngoại tệ cơ bản ngân hàng nắm giữ ít chắc chắn sẽ
gây áp lực lên ngân hàng.
Cảnh báo đô la hóa sẽ có thể quay trở lại. Như vậy, diễn biến của việc cho vay
ngoại tệ tăng nhanh cũng khiến cơ quan quản lý cần thận trọng, nhưng để giảm đô la
hóa bằng cách đẩy lãi suất tiền đồng xuống thấp hơn nữa, để khi lãi suất VND và
USD tiệm cận nhau thì không còn nhu cầu vay mượn ngoại tệ rõ ràng là điều không
dễ dàng. Lộ trình chống đô la hoá sẽ kéo dài đến năm 2020, nhưng hiện Chính Phủ
đã thực hiện thông qua việc tăng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ và đưa ra
danh mục không được phép cho vay ngoại tệ, giảm lãi suất huy động tiền gửi bằng

ngoại tệ đối với cá nhân và doanh nghiệp. Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2017-2018
sẽ không còn tiền gửi ngoại tệ và cho vay ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng thương
mại.

Hình 3: Các cân tài chính Việt Nam (tỷ USD) 2013-2015
16


Hình 4: Diễn Biến lạm phát 2013-2015

2.1.2. Giai đoạn 2016-2017
 Năm 2016
Bước sang năm 2016, sau khi trải qua năm 2015 đầy biến động khi mà để duy trì
ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN phải bán ra một số lượng ngoại tệ đáng kể để can
thiệp vào thị trường, thị trường ngoại hối năm 2016 của Việt Nam nhìn chung là khá ổn
định, bất chấp bối cảnh thị trường thế giới tiềm ẩn nhiều rủi ro với sự gia tăng
17


các yếu tố bất định từ các sự kiện địa chính trị xảy ra bất ngờ như việc nước Anh bỏ
phiếu rời EU (Brexit), kết quả bầu cử Tổng thống Mỹ cũng như việc Thủ tướng Ý
tuyên bố từ chức sau trưng cầu dân ý thất bại, thêm vào đó là kỳ vọng Fed tăng lãi
suất thúc đẩy luồng vốn rút khỏi các thị trường mới nổi, tỷ giá các đồng tiền liên tục
biến động. Chính sách thông báo tỷ giá trung tâm hàng ngày của NHNN bước đầu
phát huy tác dụng, góp phần ổn định thị trường ngoại tệ, giảm tâm lý đầu cơ của các
nhà đầu tư.
Như vậy, thay vì trước đây tỷ giá USD/VNĐ được điều chỉnh dựa trên sự biến
động và áp lực cung cầu của đồng USD trên thị trường thì giờ đây NHNN đã dựa
vào 8 đồng tiền của các nước có quan hệ thương mại, vay, trả nợ và đầu tư lớn vào
thị trường Việt Nam để làm cơ sở, cụ thể là các đồng USD, EUR, nhân dân tệ, yên

nhật, đô la Singapore, đồng Won, đô la Đài Loan và đồng bath Thái. Về biên độ
giao dịch thì NHNN vẫn nhất quán duy trì ở tỷ lệ 3% vốn được điều chỉnh tăng từ
2% lên từ ngày 19/08/2015 cho đến nay.
Với tỷ giá trung tâm được điều chỉnh linh hoạt mỗi buổi sáng trước giờ giao
dịch đã giúp cho sự biến động hàng ngày không quá lớn và cũng không gây sốc cho
doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh sử dụng nhiều
ngoại tệ trong giao dịch thanh toán, vay mượn. Ngoài ra, sự điều chỉnh linh hoạt ở
đây là có tăng có giảm, tức đi theo xu hướng thị trường cũng như xu hướng tăng
giảm của các ngoại tệ mạnh trên thế giới, thay vì chỉ đi theo mỗi chiều tăng lên như
giai đoạn trước đây.
Qua chế độ tỷ giá này. không chỉ ngăn chặn hoạt động đầu cơ “lướt sóng” mà
còn giúp ổn định thị trường ngoại hối và tăng cường giải pháp chống “đô la hóa”
nền kinh tế. Về lâu dài, điều này sẽ giúp tăng vị thế của VND và tăng tính ổn định
của thị trường ngoại hối.
Vào cuối tháng 5 năm 2016, tỷ giá tại nhiều ngân hàng thương mại có dấu
hiệu nóng lên do ảnh hưởng của tin đồn về khả năng cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ
(FED) sẽ tăng lãi suất vào tháng 6/2016 và ảnh hưởng từ sự giảm tốc của nền kinh
tế Trung Quốc làm đồng Nhân Dân tệ giảm đáng kể. Bên cạnh đó, trên thị trường
Việt Nam, việc mua vào 7 tỷ USD để dự trữ của NHNN cũng góp phần làm giá
đồng USD tăng lên.
18


Lãi suất liên ngân hàng vào tháng 5/2016 lại có những diễn biến trái chiều so
với tháng trước đó, có chiều hướng giảm sâu và giữ ở mức thấp liên tiếp trong nhiều
tuần tiếp theo do các nguyên nhân sau: huy động vốn VNĐ tăng nhanh hơn tín dụng
VND, NHNN đã bơm hơn 72.000 tỷ VND thông qua kênh ngoại hối.
Nhìn chung, trong 10 tháng đầu năm 2016, với những điều kiện thị trường trong
và ngoài nước có nhiều yếu tố thuận lợi hỗ trợ sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại
tệ . Tỷ giá trung tâm được NHNN điều chỉnh dao động từ 21.828 VND/USD đến

21.946 VND/USD, dao động dưới mức ±0,5%. Tỷ giá chỉ giảm nhẹ khoảng 0,1% so
với thời điểm cuối năm 2015. Tỷ giá giao dịch của các NHTM diễn biến linh hoạt trong
biên độ cho phép. Thanh khoản ngoại tệ toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam được cải
thiện, lòng tin vào giá trị của đồng Việt Nam được củng cố.
Sau 10 tháng tương đối ổn định, thị trường ngoại tệ Việt Nam trong 2 tháng cuối
năm 2016 chịu áp lực bởi nhiều yếu tố biến động từ trong nước và từ thị trường quốc
tế. Trên thị trường tài chính quốc tế, đồng USD có xu hướng tăng giá từ đầu tháng 10
do kỳ vọng Fed tăng lãi suất, đặc biệt, USD tăng giá mạnh sau khi ông Donald Trump
đắc cử Tổng thống Mỹ với kế hoạch tăng chi tiêu ngân sách và thu hút đầu tư về Mỹ để
kích thích kinh tế trong nước, khiến lạm phát của Mỹ có thể tăng nhanh trong thời gian
tới và thúc đẩy Fed thắt chặt chính sách tiền tệ nhanh hơn nữa. Chỉ trong 2 tuần sau kết
quả bầu cử tại Mỹ được công bố ngày 9/11, đồng USD tăng giá tới 3,7% kéo theo sự
sụt giảm của hàng loạt đồng tiền các nước mới nổi. Đà tăng giá của đồng USD còn tiếp
diễn sau khi Fed quyết định tăng lãi suất mục tiêu thêm 25 điểm phần trăm và phát tín
hiệu về khả năng tăng lãi suất 3 lần trong năm 2017 thay cho 2 lần trong cuộc họp
tháng 11/2016. Trên thị trường trong nước, tình hình cung cầu ngoại tệ kém thuận lợi
hơn so với các tháng đầu năm theo quy luật mùa vụ. Cán cân thương mại sau khi thặng
dư trong 9 tháng đầu năm thì từ tháng 10, đã chuyển sang nhập siêu phản ánh nhu cầu
ngoại tệ phục vụ nhập khẩu tăng trong những tháng cuối năm. Thêm vào đó là việc xuất
hiện tin đồn thất thiệt về việc NHNN sắp đổi tiền khiến một bộ phận người dân đổ đi
mua đô-la Mỹ và vàng khiến tỷ giá trên thị trường tự do tăng mạnh, tác động tiêu cực
tới tâm lý thị trường.
Những diễn biến phức tạp nói trên đã tạo ra áp lực mạnh lên tỷ giá VND/USD.
Trong điều kiện đó tỷ giá tham chiếu trung tâm liên tục được NHNN điều chỉnh tăng
19


dần. Tính đến ngày 21/12/2016, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá trung tâm lên mức
22.154, tăng 1,21% so với đầu năm (UBGSTCQG, 2016). Điều này có thể được
nhìn nhận như biện pháp điều chỉnh linh hoạt từ NHNN khi một số ngoại tệ chủ

chốt trên thế giới giảm giá mạnh so với USD, đặc biệt là đồng Nhân dân tệ (CNY)
và Bảng Anh (GBP). Đây cũng có thể coi là bước chuẩn bị cho việc tăng giá USD
do nhu cầu ngoại tệ có thể tăng trở lại đáp ứng nhu cầu thanh toán cuối năm và dự
phòng cho khả năng FED tăng lãi suất vào tháng 12/2016.
Bên cạnh điều chỉnh tỷ giá trung tâm linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường
trong và ngoài nước, NHNN còn chủ động thực hiện đồng bộ các giải pháp để ổn định
thị trường ngoại tệ. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, NHNN liên tục
phát đi thông điệp sẵn sàng bán ra USD để bình ổn thị trường, bác bỏ tin đồn không căn
cứ cũng như cảnh báo rủi ro đối với hoạt động đầu cơ tỷ giá để người dân và doanh
nghiệp nắm được tình hình. Đi cùng với truyền thông là các biện pháp cụ thể khẳng
định thực hiện cam kết đã đưa ra như việc NHNN niêm yết tỷ giá bán và bán ngoại tệ
hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD với tỷ giá thấp hơn tỷ giá trần, qua đó giúp củng cố
lòng tin của thị trường vào điều hành của NHNN. Các công cụ chính sách tiền tệ cũng
được phối hợp đồng bộ, kịp thời nhằm giảm bớt áp lực trên thị trường ngoại tệ như mở
rộng kỳ hạn phát hành tín phiếu NHNN và nâng nhẹ lãi suất phát hành để thu tiền đồng
về, giảm động lực đầu cơ ngoại tệ ngắn hạn trên thị trường trong khi vẫn tạo điều kiện
giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN kịp thời ban hành
Thông tư số 31/2016/TT-NHNN ngày 15/11/2016 về cho vay bằng ngoại tệ, trong đó
cho phép gia hạn các đối tượng được vay vốn bằng ngoại tệ tại Thông tư 24/2015/TTNHNN và Thông tư 07/2016/TT-NHNN đến hết năm 2017 cũng là yếu tố thuận lợi cho
sự ổn định của thị trường và tỷ giá ở mức phù hợp

Nhờ các giải pháp điều hành đồng bộ nói trên của NHNN mà thị trường ngoại
tệ năm 2016 nhìn chung khá ổn định, bất chấp đồng USD có những biến động mạnh
so với các ngoại tệ khác trên thị trường tài chính thế giới. Theo đánh giá của
UBGSTCQG, mặc dù tỷ giá có tăng theo xu hướng thế giới vào những tháng cuối
năm 2016, nhưng mức biến động thấp hơn so với các đồng tiền trong khu vực (xem
Hình A) và vẫn thấp hơn tỷ giá trần cho phép 50 đồng.

20



Hình 6: Mức giảm giá của các đồng tiền trong khu vực so với đồng USD, năm
2016
Đến cuối năm 2016, cả tỷ giá trung tâm và tỷ giá thị trường chỉ tăng 1,2% so với
cuối năm 2015. Đây là mức biến động khá ổn định nếu so với các ngoại tệ khác, cũng
như trong bối cảnh đồng USD trên thế giới tăng giá mạnh mẽ. Điều quan trọng là mặc
dù tỷ giá tăng nhưng thanh khoản thị trường vẫn đảm bảo, các giao dịch ngoại tệ trên
thị trường vẫn diễn ra bình thường, không có tình trạng căng thẳng như tại một số thời
điểm ở các năm trước do nguồn cung ngoại tệ dồi dào từ hoạt động kiều hối, đầu tư
nước ngoài và hoạt động đầu cơ, găm giữ ngoại tệ đã giảm bớt đáng kể.

21


Hình 7: Tỷ giá USD/VND niêm yết sáng 31/12/2016
(Nguồn: Bloomberg, VCBS (trích dẫn từ: />Theo NHNN, tín dụng bằng đồng Việt Nam tăng 8,11% so với cuối năm 2015,
tăng 22,95% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 90,8% tổng tín dụng nền kinh tế.
Trong khi đó tín dụng bằng ngoại tệ giảm 4,64% so với cuối năm 2015. Lý giải cho
việc tín dụng bằng ngoại tệ sụt giảm, NHNN cho rằng xu hướng này cũng phù hợp
với điều kiện kinh tế vĩ mô và định hướng điều hành của NHNN khi hoạt động sản
xuất kinh doanh đang được cải thiện và chủ trương của Chính phủ về hạn chế tình
trạng đô la hóa…
Như vậy, với việc kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, phối hợp hài hòa, chặt chẽ trong điều hành giữa lãi suất, tỷ giá và được hỗ trợ
từ cách thức điều hành tỷ giá mới, thông tin tuyên truyền đầy đủ, tỷ giá và thị
trường ngoại tệ diễn biến ổn định, thanh khoản đảm bảo, các nhu cầu mua ngoại tệ
hợp pháp, hợp lý được đáp ứng đầy đủ, tình trạng đô la hóa tiếp tục được đẩy lùi,
dự trữ ngoại hối Nhà nước được củng cố. Lầu tiên Việt Nam có 41 tỷ USD dự trữ
ngoại hối, cao nhất từ trước đến thời điểm đó.


22


Hình 8: Dữ trự ngoại hối Việt Nam 2016
 Năm 2017
Năm 2017, được nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế đánh giá là năm thành
công trong công tác quản lý ngoại hối, quản lý thị trường ngoại tệ và thị trường vàng
của NHNN. Trong năm, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm; trong điều
kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào, điều chỉnh linh hoạt tỷ giá mua ngoại tệ phù hợp với
diễn biến thị trường để mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước. Đồng thời
thực hiện linh hoạt các công cụ CSTT để duy trì chênh lệch lãi suất VND và USD ở
mức hợp lý, điều hành thanh khoản tiền đồng để vừa hỗ trợ ổn định tỷ giá khi cần thiết,
vừa hỗ trợ thực hiện mục tiêu ổn định lãi suất trên thị trường (huy động của các ngân
hàng từ dân cư và tổ chức kinh tế). Theo đánh giá của Bloomberg, đồng Việt Nam là
một trong những đồng tiền ổn định nhất Châu Á. Thanh khoản thị trường thông suốt,
các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, hệ thống
các TCTD mua ròng ngoại tệ từ tổ chức, cá nhân với khối lượng lớn, từ đó có điều kiện
bán lại cho NHNN để bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Trong những năm gần đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tương đối thành
công trong việc thực hiện mục tiêu ổn định tỷ giá. Tính trung bình, VND chỉ mất giá
23


khoảng 2%/năm trong năm 2017 so với USD trong giai đoạn 2012 - 2016. Theo lý
thuyết, trong điều kiện lãi suất huy động VND hiện nay là 5%, còn trần lãi suất huy
động USD theo quy định của NHNN là 0%, việc VND chỉ mất giá 2%/năm so với
USD sẽ khiến tình trạng đô la hoá giảm.
Trên thực tế, tình trạng đô la hoá cũng đã có xu hướng giảm trong giai đoạn
2012 - 2016. Tuy nhiên, theo Uỷ ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tín dụng ngoại tệ
trong 6 tháng đầu năm 2017 đã tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2016, chiếm 8,3%

tổng tín dụng. Nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng này là do khi rủi ro về tỷ giá
không lớn (đặc biệt là khi đồng USD giảm giá mạnh trong 6 tháng đầu năm 2017),
còn lãi suất cho vay VND lại ở mức cao, nhu cầu vay và huy động USD sẽ có xu
hướng gia tăng.
Cụ thể, với mức lãi suất cho vay tháng 8/2017 là 7%, còn kỳ vọng VND mất
giá so với USD chỉ khoảng 2%/năm, các doanh nghiệp sẽ có nhu cầu vay USD với
mức lãi suất từ 4-5%, và do vậy, các ngân hàng thương mại cũng sẽ có nhu cầu huy
động USD từ nền kinh tế với mức lãi suất từ 1 - 2%.
Trước thực trạng chênh lệch lãi suất VND và lãi suất USD nêu trên, một
số đề xuất cho rằng NHNN cần nâng lãi suất tiền gửi USD để huy động vốn USD
với lãi suất thấp.
Tuy nhiên, TS Nguyễn Đức Độ, Viện Kinh tế Tài chính (Học viện Tài chính)
cho rằng nếu lãi suất chỉ được nâng nhẹ lên mức 0,5% - 1%, nó sẽ không có tác
động đáng kể tới việc huy động thêm vốn cho nền kinh tế, bởi các NHTM hiện vẫn
đang huy động USD với lãi suất 2%. Nhưng nếu nâng lãi suất huy động USD lên
mức 2% hoặc cao hơn, thì với rủi ro tỷ giá là 2%/năm và chênh lệch lãi suất huy
động và cho vay (NIM) là 3%, lãi suất cho vay VND sẽ khó có thể giảm xuống dưới
mức 7% hiện nay, và do vậy, chủ trương giảm lãi suất của Chính phủ sẽ khó được
thực hiện. Nói cách khác, yêu cầu hạ lãi suất VND và nâng lãi suất USD để tăng
huy động vốn có thể mâu thuẫn nhau nếu không được tính toán kỹ lưỡng.
Bởi vậy, một giải pháp khác cho thực trạng chênh lệch lãi suất giữa USD và
VND hiện nay là giảm lãi suất cho vay VND để từ đó giảm nhu cầu vay USD từ các
doanh nghiệp cũng như nhu cầu huy động USD từ các ngân hàng. Khi lãi suất cho
vay giảm xuống, chẳng hạn còn 6% thay cho 7% như trước đây, và NHNN tiếp tục
24


ổn định tốc độ mất giá của VND so với USD ở mức khoảng 2%/năm, các doanh
nghiệp sẽ chỉ có nhu cầu vay USD nếu lãi suất cho vay USD giảm xuống còn từ 34% và các NHTM sẽ chỉ có nhu cầu huy động USD ở mức lãi suất từ 0-1%.
Về lý thuyết, tình trạng găm giữ USD sẽ chủ yếu phụ thuộc vào tương quan lãi

suất giữa VND và lãi suất USD, nên khi giảm đồng thời 1% đối với cả lãi suất VND và
lãi suất USD, sẽ không có tác động giảm tình trạng đô la hoá. Tuy nhiên, trên thực tế do
việc nắm giữ USD phải chịu các chi phí liên quan đến mua/bán, chuyển đổi, thậm chí
cả vấn đề pháp lý, nên khi mức lãi suất USD giảm về mặt tuyệt đối xuống còn 0%,
động cơ nắm giữ USD và tình trạng đô la hóa nhiều khả năng sẽ giảm theo.

Có thể thấy, trong suốt thời gian đó, NHNN đã thực hiện các giải pháp điều
hành tỷ giá linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường trong nước và quốc tế,
có kết hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác, tỷ giá và thị trường
ngoại tệ. Chính vì vậy, từ năm 2016 đến nay về cơ bản diễn biến tỷ giá ổn định, Tỷ
giá năm 2017 về cơ bản ổn định, tỷ giá USD/VND chỉ tăng 1,2%. Đây là điểm sáng
để Việt Nam được nâng xếp hạng tín nhiệm bởi các tổ chức quốc tế. Cùng với đó,
thanh khoản thị trường ngoại tệ thông suốt. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền
kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Hệ thống các tổ chức tín dụng mua ròng ngoại tệ từ tổ chức, cá nhân với khối
lượng lớn, từ đó có điều kiện bán lại cho Ngân hàng Nhà nước để bổ sung. Mạng
lưới hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ ngày càng được mở rộng nhằm thu hút
lượng ngoại tệ trong dân cư vào hệ thống ngân hàng và là một trong những kênh
quan trọng thu hút được nguồn ngoại tệ tiền mặt từ cá nhân là người nước ngoài đến
Việt Nam du lịch, thăm viếng… Tính đến thời điểm cuối năm 2017, số lượng đại lý
đổi ngoại tệ đã tăng lên mức 538 đại lý, doanh số đổi ngoại tệ năm 2017 ước đạt tới
khoảng 245 triệu USD. Đồng thời, tổng doanh số ngoại tệ tiền mặt TCTD mua từ cá
nhân trong năm 2017 ước đạt khoảng 3,3 tỷ USD cho thấy, xu hướng nắm giữ ngoại
tệ tiền mặt của người dân đã giảm mạnh.
Như vậy, đi đôi với việc kiên định thực hiện chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và
kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, tiếp tục điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm theo sát
diễn biến thị trường, trong năm 2017, NHNN đã chủ động thực hiện nhiều giải pháp về
quản lý ngoại hối được nêu ở phần trên để từng bước chuyển hóa nguồn lực
25



ngoại tệ và vàng trong tổ chức và dân cư phục vụ sản xuất kinh doanh, tăng nguồn
cung cho thị trường ngoại hối, góp phần tăng quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước bao
gồm:
(i)

Chính sách thu hút có hiệu quả nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng

(ii)

Hạn chế việc nắm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp, dân cư;

(iii)

Chính sách hỗ trợ phát triển xuất khẩu, thu hút luồng tiền kiều hối

chuyển về nước;
(iv)

Chính sách thu hút dòng vốn nước ngoài có chọn lọc giúp dòng vốn

đầu tư FII và FDI tăng mạnh trong năm 2017;
(v)

Góp phần giúp việc thoái vốn thành công tại một số doanh nghiệp nhà

nước như việc thoái vốn tại Sabeco đã bổ sung cho thị trường ngoại hối gần 5 tỷ
USD vào những tháng cuối năm 2017;
(vi)


Quản lý có hiệu quả thị trường ngoại tệ và thị trường vàng và chủ động,

tranh thủ mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước khi thị trường thuận lợi và
thực hiện đầu tư dự trữ ngoại hối nhà nước theo hướng đa dạng hóa cả về đồng tiền

cũng như hình thức đầu tư trong khi vẫn đảm bảo mục tiêu bảo toàn, thanh khoản
và sinh lời.
Mặc dù ở một số thời điểm tỷ giá có diễn biến tăng bởi các biến động mạnh
trên thị trường tài chính quốc tế, nhưng thanh khoản ngoại tệ tốt, cung cầu ngoại tệ
được đảm bảo, các TCTD đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp pháp
phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình trạng đô la hóa giảm, niềm tin
của người dân vào VND được củng cố, nhu cầu nắm giữ ngoại tệ giảm nên người
dân đã bán ngoại tệ cho các TCTD, nhờ đó NHNN mua được lượng lớn ngoại tệ để
tăng mạnh dự trữ ngoại hối nhà nước.

26


Hình 9: Dữ trữ ngoại hối cuối năm 2017
Tính đến cuối năm 2017, con số dự trữ ngoại hối nhà nước đã đạt mức tăng kỷ
lục gần 52 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến đó.
2.1.3. Giai đoạn 2018- hiện nay

Tình hình tỷ gíá 2018
Năm 2018 có thể nói là một năm đầy biến động với tình hình kinh tế vĩ mô đi
kèm căng thẳng từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, thêm vào đó là chính sách từ
Chính phủ cũng phần nào tác động đến tình hình tỷ giá. Tỷ giá đã trải qua một năm
biến động khá mạnh, chủ yếu do các tác động tiêu cực từ thị trường quốc tế, nhưng
sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nước và công tác điều hành tỷ giá thận trọng, linh
hoạt, đồng bộ đã phần nào giúp "hóa giải" bớt áp lực và mang lại thành công ổn

định thị trường ngoại hối và tỷ giá ở mức hợp lý. Trong năm, tỷ giá trung tâm do
NHNN công bố đã tăng khoảng 1,6%, tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân
hàng tăng khoảng 2,7% so với đầu năm. Trong 7 năm qua, chỉ có năm 2015 chứng
kiến tỷ giá biến động mạnh hơn với mức tăng 5,1%.
Trong năm 2018 có những đợt tỷ giá USD/VNĐ biến động mạnh mẽ, khiến giao
dịch mua bán tại các ngân hàng cũng như ngoài thị trường tự do tăng mạnh với chênh
27


×