Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Nguyên nhân và tác động của Lạm phát với nền kinh tế Việt Nam từ 2004-nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.83 KB, 16 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học khoa học xà hội và nhân văn hội và nhân văn
khoa quốc tế học

------

bài thi giữa kỳ
kinh tế học đại cơng
Đề bài:

Nguyên nhân và tác động của lạm phát
đối với Việt Nam từ 2004 đến nay

Mức lạm phát hàng năm ở Việt Nam đột nhiên nhảy vọt lên
8,3% trong 6 tháng đầu năm 2004 ngoài tầm ớc đoán 3,6% - 4,5% của
nhà nớc và các cơ quan tài chính quốc tế nh Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng phát triển á Châu và ngân hàng thế giới.
Mức lạm phát dựa trên chỉ số giá tiêu thụ (CIP) theo dự đoán
của Quỹ Tiền tện Quốc tế (IMF) sẽ là 3,5% trong cả hai năm 2004 và
2005. Một báo cáo chung mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WOrrld
Bank) và IMF vào tháng 3-2004 cũng đà tiên đoán rằng mức lạm phát


có thể đợc tiếp tục duy trì ở mức 3 - 4% hàng năm trong các năm sắp
tới nếu nhà nớc có chính sách quản trị tiền tệ thích hợp.
Thông thờng sau Tết Nguyên đán, năm nay rơi vào cuối tháng
1.2004, giá cả hạ thấp xuống. Tuy nhiên, trong năm nay giá tiếp tục
lên cao. Riêng trong tháng 2, giá gia tăng 3%/tháng. Lần lợt trong hai
tháng ba và tháng T mức tăng của CIP là 0,8%/tháng và 0,5%/tháng.
Con số míi nhÊt cđa Së Thèng kª ViƯt Nam cho biÕt mức lạm phát
trong nửa năm đầu của 2004 là 8%/năm, cao nhất trong năm năm vừa


qua. Một viên chức cao cÊp cđa Bé Tµi ChÝnh ViƯt Nam nãi r»ng vµo
ci năm nay mức lạm phát có thể lên đến 9%. Nh vậy, Việt Nam sẽ
không thể kiềm chế đợc mức lạm phát dới 5% tổng năm 2004 nh đÃ
dự trù.
Vậy nguyên nhân của tình trạng trên là gì?
Nhìn một cách khái quát, lạm phát thờng biểu hiện dới 3 hình
thức: do cầu (hay tiền lu thông nhiều hơn 808 lợng của cải sản xuất
ra) do tổng cầu gắn và sự gia tăng chi tiêu trong khi mức cung hạn
chế và lạm phát do chi phí. Hiện tợng tăng giá bởi sự gia tăng chi phí
các yếu tố đầu vào. (Nguyên vật liệu, lơng bổng, thuế má...) khiến giá
sản phẩm đầu ra tăng lên.
ở góc độ kinh tế vĩ mô sẽ là sai lầm nếu tách riêng lạm phát do
chi phí với lạm phát do cầu. Tác động qua lại giữa lạm phát bắt nguồn
từ tăng cầu quá sẽ tạo sức ép tăng giá sản phẩm ... kết quả là tăng chi
phí sản xuất.

I. Với nớc ta từ đầu năm 2004 đến nay có những sự
kiện đáng chú ý sau:
1. Giá thực phẩm gia tăng:

1


Một phần do dịch cúm gà vào đầu năm. Chúng ta nên nhớ rằng
thực phẩm chiếm 45% trong công thức tính chỉ số giá tiêu thụ dùng
làm căn bản để đo lờng mức lạm phát. Từ tháng 6-2003 đến tháng 62004 giá thực phẩm đà tăng 14,5%. Ngoài giá thực phẩm, công thức
tính giá tiêu thụ còn dùng giá của một số sản phẩm tiêu thụ và dịch
vụ.
2. Mức cầu nội địa gia tăng.
Mức cầu này gồm có hai phần chính: tiêu thụ t nhân và đầu t.

Kể từ năm 2002, mức cầu nội địa vừa là sức mạnh đáng kể nhất, hơn
cả xuất cảng, đà đẩy kinh tế đi lên. Tuy nhiên, mức cầu nội địa cũng
làm tăng áp lực lạm phát.
3. Hoạt động kinh tế gia tăng.
Độ phát triển của Việt Nam đà dần dân phục hồi, từ 5,5% trong
năm 2000 lên 6% trong năm 2003, và ớc đoán khaỏng 7% trong năm
2004. Tuy rằng vẫn thua con số 9,5% của năm 1995 tr ớc khi có cuộc
khủng hoảng tài chính á Châu. Theo IMF, tín dụng đà gia tăng thái
quá trong các năm 2002 và 2003 ở mức 45% và 28%. Đây là điều
đáng ngại cho sự hoạt động an toàn của hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Năm ngân hàng thơng mại của nhà nớc hiện nay kiểm soát 80%
thị trờng tài chính của Việt Nam. Những ngân hàng này lại đ ợc lệnh
của Nhà nớc u tiên cho các xí nghiệp quốc doanh vay.
4. Nhà nớc tăng lơng cho nhân viên trong năm 2003.
Chi phí về lơng bổng nhân viên tơng đơng với 3,5% của tổng
sản phẩm nội địa (GDP) trong năm 2002, tăng lên để 4,1% của GDP
trong năm 2003 và 3,9% trong năm 2004. Ngoài ra, kế hoạch cải tổ l ơng bổng và an sinh xà hội cho nhân viên trong khu vực dịch vụ công
cộng và hành chính mới bắt đầu vào tháng T năm 2004 cũng làm tăng
áp lực lạm phát.
5. Chi phí sản xuất tăng vì giá nguyên liệu và thuế tăng.
Kể từ đầu năm 2004, việ tu chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế
giá trị gia tăng đà tăng giá xe hơi và bia hộp lần l ợt là 20% và 10%.
Cũng bắt đầu từ đầu năm 2004, chính phủ Việt Nam bÃi bỏ bao cấp
đối với dầu hoả và các biến chế phẩm và đồng thời cho phép các công
ty đầu tự ấn định giá bán, nhng không đợc cao hơn giá căn bản của
Nhà nớc 10% và đối với dầu Kerosene là 5%. Vào giữa tháng 6, chính
phủ Việt Nam quyết định tăng giá các dầu hảo vf các sản phẩm chế
biến 17,2%. Trong khi đó giá thép tăng 15,4%. Già vàng, dầu hoả,
2



phân bón, vật liệu xây cất,gạo và nói chung là nông phẩm trên thị tr ờng quốc tế đều gia tăng trong nhiều tháng vừa qua.
Giá dầu hoả tiếp tục lên cao kể từ cuối năm 2003. Hiện nay, giá
dầu cao hơn cả trong thời gian quân Mỹ đánh mạnh ở Iraq. Giá dầu
thô vào giữa tháng 5 lên đến gần 42 Mỹ kim một tháng. Kinh tế thế
giới, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, Nhật Bản và Âu Châu phục hồi từ giữa
năm 2003 đà làm gia tăng mức tiêu thụ dầu. Trong khi đó tổ chức
OPEC lại hạn chế sản xuất dầu và tình hình bất ổn tiếp tục ở Trung
Đông. Đẩy tăng là những nguyên nhân làm cho giá dầu tăng. Việt
Nam tuy xuất cảng dầu thô, nhng lại nhập cảng dầu lọc với một trị giá
tơng đơng nên Việt Nam không hởng lợi lộc gì đặc biệt cả khi giá dầu
thế giới lên cao. Trái lại Việt Nam còn chịu ảnh hởng lạm phát vì chi
phí về xăng nhớt chiếm 30-40% giá chuyên chở. Do đó, giá hàng nhập
cảng và giá hàng xuất khẩu nội địa phân phối đi các nơi trong n ớc
cũng chịu ảnh hởng của giá xăng nhớt.
6. Đồng tiền Việt Nam mất giá ít so với đồng Mỹ kim nh ng mất
giá đáng kể so với các ngoại tệ khác (Euro, Yên, v.v ). ).
Mức sụt giá của đồng Việt Nam so với Mỹ kim là khoảng 3%
trong năm 2004 và 4% trong năm 2005. Trong tháng 3 vừa qua lần
đầu tiên giá của đồng Mỹ kim vợt lên trên 16.000 đồng Việt Nam. Sự
mất giá của đồng tiền Việt Nam sẽ khiến cho giá hàng Việt Nam nhập
càng tăng. Tuy nhiên, ảnh hởng tích cực của nó là làm cho giá hàng
xuất cảng của Việt Nam rẻ hơn và dễ cạnh tranh hơn trên thị tr ờng
quốc tế và đây là u tiên số một của Việt Nam.
7. Việc Ngân hàng Việt Nam phát hành tiền mới, với tổng l ợng
tiền dự kiến tung vào để loại bỏ tơng ứng đà dẫn đến tình trạng mất
cân bằng giữa tổng lợng trên lu thông.
Ngoài những nguyên nhân trên:
Nguyên nhân trực tiếp.
Khi nên kinh tế ngày càng hội nhập mạnh hơn với thế giới thì

không thể tránh khỏi những tác động của tía cả thị tr ờng bên ngoài.
Trong khi đó xu hớng hình thành mặt hàng giá mới cao hơn trên thị
trờng thế giới đang dần dần đợc xác lập. Do vậy, cùng với nhập khẩu
hàng hoá chúng ta cũng nhập luôn cả lạm phát từ bên ngoài. Hơn nữa,
các nhu cầu nguyên, nhiên, vật liệu của một số ngành hàng trong n ớc
lại đợc nhập khẩu là chủ yếu: 90% nhu cầu phân urê, 90% nhu cầu
nguyên liệu thuốc chữa bệnh... Do đó, mức độ phụ thuộc vào giá cả
3


quốc tế càng nhiều. So với tháng 12-2003 giá nhiều loại hàng nhập
khẩu tăng cao: Phôi thép tăng 41,75%, xăng dầu tăng 12,22%, phân urê tăng 9,38%, giấy 15,53%, chất dẻo 11,51%. Giá hàng nhập khẩu
tăng làm tăng chi phí sản xuất (chi phí đầu vào); chi phí sản xuất tăng
đẩy giá bán sản phẩm đầu ra lên cao. Kết quả là chỉ số giá tăng lên.
Nguyên nhân gián tiếp.
Phân tích các yếu tố cấu thành rổ hàng hoá và dịch vụ dùng để
tính toán chỉ số giá tiêu dùng, ta thấy có sự biến động quá mạnh của
nhóm hàng lơng thực, thực phẩm. Đó là một yếu tố chính làm cho chỉ
số giá tiêu dùng 9tháng đầu năm 2004 tăng khá cao. Nhóm hàng này
vừa chiếm tỷ trọng quá lớn, vừa có mức giá tăng nhiều và liên tục
tăng cao (luôn luôn cao hơn mức tăng giá chung). Những tháng đầu
năm tăng mạnh. Những tháng tiếp theo, tuy không tăng nhiều nh ng
vẫn giữ ở mức cao. Trên đồ thị, đờng biểu diễn chỉ số giá hàng lơng
thực, thực phẩm luôn luôn nằm trên chỉ số giá hàng tiêu dùng nói
chung.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng và các thành tố cơ bản 9 tháng
đầu năm 2004.

Giá nhóm hàng dợc phẩm và y tế cũng có tốc độ tăng khá cao,
chỉ đứng sau lơng thực, thực phẩm. Bắt đầu từ tháng 2, giá d ợc phẩm,

y tế tăng khá mạnh và tăng liên tục, cho đến nay vẫn ch a có biểu hiện
giảm. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng mạnh trong quí 1; dừng ở
mức cao trong các tháng tiếp theo. Trong khi đó, các nhóm hàng khác
hầu nh có mức tăng thấp hơn mức tăng bình quân.
Tháng 9 so với đầu năm, ngoại trừ nhóm dịch vụ giáo dục giảm
1,9%, còn lại tất cả các nhóm hàng đều tăng. Trong đó, nhóm l ơng
thực, thực phẩm liên tục giữ vị trí dẫn đầu về tăng gi¸ (tÝnh chung
4


tăng 15%, riêng thực phẩm tăng 16,8% và lơng thực tăng 12,5%).
Tiếp theo là dợc phẩm - thiết bị y tế (8,7%). Nhà ở - vật liệu xây dựng
tăng 5,9%. Các nhóm hàng hoá khác (đồ uống - thuốc lá - may mặc giầy dép, thiết bị - đồ dùng gia đình) cũng tiếp tục tăng giá, nh ng ở
mức khiêm tốn hơn (3 đền 5%).
Trong sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng 9 tháng đầu năm
20004 (tăng 8,6%), theo kết ấu rổ hàng hoá hiện tại, riêng các mặt
hàng nhóm lơng thực, thực phẩm (chiếm tỷ trọng 47,9%) đà làm tăng
4,1%. Mức tăng giá chung của 9 tháng còn lại là 4,5%. Rõ ràng sự bất
cập về kết cấu của rổ hàng hoá và dịch vụ hiện tại cần sớm đ ợc sửa
đổi, chỉnh lý để chỉ số giá tiêu dùng có khả năng phản ánh đúng diễn
biến của thị trờng.
Kết cấu mức tăng chỉ số giá tiêu dung 9 tháng đầu năm 2004.
Đơn vị: %
Chỉ số giá tiêu dùng
8,6
Tỷ trọng nhóm hàng lơng thực, thực phẩm
47,9
Chỉ số giá hàng lơng thực, thực phẩm
4,1
Chỉ số giá các nhóm hàng còn lại

4,5
Nh vậy, cái sự lo lắng của chúng ta chính là những lo lắng
cụ thể về sự tăng giá nhóm hàng lơng thực, thực phẩm. Và, một vấn
đề đáng bàn là khi hàng lơng thực, thực phẩm tăng giá thì ai thiệt? Ai
lợi? Phải chăng nông dân hoàn tòan đợc hởng lợi nh nhiều nhận định?
Nhìn bề ngoài, khi giá lơng thực, thực phẩm tăng thì nông dân
sẽ là ngời hởng lợi. Trên thực tế, không thể nói một cách đơn giản nh
thế. Vấn đề là tỷ trọng tiêu dùng hàng l ơng thực, thực phẩm trong
tổng thu nhập của mỗi hộ nông dân vẫn còn chiếm tû träng qu¸ cao.
Theo quy lt ph¸t triĨn, tû träng này ngày càng giảm. Tỷ trọng tiêu
dùng lơng thực, thực phẩm (trong kết cấu chỉ tiêu) của dân phi nông
nghiệp, dân thành thị, dân có thu nhập cao luôn thấp hơn tỷ trọng tiêu
dùng lơng thực, thực phẩm của nông dân. Do vậy, khi l ơng thực, thực
phẩm tăng giá thì điều đó cũng có nghĩa là nông dân phải tốn nhiều
tiền hơn cho chi tiêu thiết yếu hàng ngày (l ơng thực, thực phẩm). Mức
lợi có đợc do giá bán lơng thực, thực phẩm tăng phải bù đắp cho chính
nhu cầu về ăn của họ (chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập) và
thêm nữa, phải bù đắp cho giá đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu, xăng
dầu...) đà tăng cao. Do vậy, mức thực lợi còn lại (tính theo tỷ lệ phần
trăm) của nông dân là không nhiều.

5


Xuất phát từ lý do quản lý: vai trò điều hành giá trong kinh tế
thị trờng của Nhà nớc và các tổng công ty chủ đạo còn hạn chế.
Chính sách kinh tế vĩ mô trong quản lý và điều hành giá cả thị
trơng cha đáp ứng đợc yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong điều
kiện chuyển mạnh sang kinh doanh theo cơ chế thị tr ờng và hội nhập
kinh tế quốc tế.

Trong mấy năm gần đây, xuất khẩu tăng mạnh, tốc độ mở rất
nhanh, tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Hiện tại, tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu đà lớn hơn tổng giá trị GDP (130% GDP).
Thực tế khách quan đó đòi hỏi những điều chỉnh cần thiết trong nhận
thức, trong hoạch định chính sách và trong điều hành. Tuy nhiên, d ờng nh trên thực tế lại cha có đợc một hệ thống công cụ và giải pháp
quản lý giá cả thị trờng một cách bài bản, có tầm nhìn, có hiệu quả,
ngay từ khâu phân tích dự báo diễn biến giá cả thị trờng trong và
ngoài nớc, đến các khâu điều tiết quan hệ cung cầu, hỗ trợ hoạt động
thị trờng; kiểm tra, thanh tra, giám sát giá độc quyền, xử lý các hành
vi gian lận thm, đầu cơ, lũng đoạn giá cả. Đất nớc còn thiều một hệ
thống phân phối, thiếu các tập đoàn thơng mại tầm cỡ có tính hệ
thống, có thể ngăn ngừa các tình huống xấu về giá xảy ra, đáp ứng đ ợc các yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nớc trong kinh tế thị trờng.
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, giá một số mặt hàng tăng
không phải do chi phí đầu vào tăng cao (thuốc, sắt, thép, nguyên liệu
nhựa...) mà do việc quản lý điều hành vĩ mô cha tốt, các doanh nghiệp
kinh doanh lợi dụng đầu cơ, tăng giá, gây thiệt hại cho ng ời tiêu
dùng. Sự yếu kém của chính phủ trong điều hành và phát triển hệ
thóng phân phối quốc gia thể hiện cụ thể qua những biến động không
kiểm soát đợc về giá thép và dợc phẩm. Việc độc quyền trong nhập
khẩu và phân phối thuốc, nguyên liệu sản xuất thuốc đà tạo điều kiện
cho một số đầu mối nhập khẩu lợi dụng đầu cơ nâng giá, lũng đoạn
thị trờng. Việc quản lý lu thông thép cha tốt, bị các doanh nghiệp đầu
cơ, nâng giá, gây rối loạn thị tr ờng, ảnh hởng đến điều hành vĩ mô và
việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xà hội của Nhà n ớc.
Khả năng dự báo, dự phòng để sắn sàng đối phó với các tình
huống biến động thất thờng về giá của chính phủ bị đánh giá là quá
kém (1) . Nếu dự đoán tốt, có đối sách thích hợp từ tr ớc thì sẽ tránh
hoặc giảm đợc tác động xấu của những biến động thị tr ờng. ViƯt Nam
( 1)


VietnamNet, 22-7-2004, Phã Thđ tíng Vị Khoan
6


bắt đầu bị giá thế giới điều tiết giá nội địa từ đầu năm nay, nh ng
chính phủ lại không có giải pháp tình huống khi những biến động v ợt
khỏi tầm kiểm soát. Chính phủ cha quen điều hành trong cơ chế thị trờng hội nhập quốc tế, trong khi nền kinh tế lại có độ mở cao, phụ
thuộc nớc ngoài nhiều.
Các tổng công ty nhà nớc chịu trách nhiệm chủ đạo trong
từng lĩnh vực đợc giao nhng lại cha thể hiện trách nhiệm và vai trò
chủ đạo của DNNN trong kinh tế thị trờng. Hiệp hội Thép và các
DNNN thành viên đà quá vì lợi nhuận của mình mà làm ảnh h ởng đến
toàn thị trờng. Biến động của giá thép vừa qua phần lớn là do các
doanh nghiệp thành viểntong hiệp hội liên kết với nhau để làm giá
và thao túng thị trờng. Biến động về giá thép đà cho thấy yếu kém
trong việc phát triển hệ thống phân phối. Chính yếu kém này góp
phần làm cho thị trờng giá cả biến động.
Về chính sách tài chính.
Sau khủng hoảng tài chính Châu á, từ năm 1999, nớc ta áp dụng
chính sách tài khoá nới lỏng để thực hiện kích cầu. Điều này sẽ làm
tăng nhu cầu tiêu dïng táng nỊn kinh tÕ ®Ĩ tõ ®ã kÝch thÝch sản xuất
kinh doanh phát triển, do chính sách kích cầu sẽ làm tăng tổng cầu
lên sẽ gây áp lực đến chỉ số giá tiêu dùng và lạm phát.
Trong những tháng vừa qua, những chỉ tiêu vĩ mô về thu - chi
NSNN đều đạt đợc các mức tốt (thu đạt 58,8%, chi đạt 53% kế hoạch
cả năm), không gây ra tác động tiêu cực đến giá cả, lạm phát hoặc
táng trởng kinh tế. Tuy nhiên, những điểm còn bất cập lại đ ợc thể
hiện ở những góc độ khác; vốn đầu t XDCB, vèn kinh doanh cđa c¸c
doanh nghiƯp sư dơng cha thật hiệu quả, còn nhiều thất thoát, lÃng
phí, cũng góp phần làm tăng giá cả thị tr ờng. Chi tiêu lÃng phí đòi hỏi

phải tăng cờng kiểm soát và kiềm chế tham nhũng. Tình trạng nợ
đọng trong đầu t XDCB tồn tại kéo dài, vợt quá khả năng cân ®èi cđa
NSNN, cha ®ỵc xư lý døt ®iĨm. Bè trÝ vốn đầu t còn dàn trải, phân
tán, số dự án năm sau luôn nhiều hơn năm tr ớc. LÃng phí, thất thoát
trong đầu t xây dựng còn lớn, xảy ra ở tất cả các khâu trong quá trình
đầu t XDCB bằng nguồn NSNN cấp và tín dụng u đÃi hoặc vay nớc
ngoài.
Cho dù các chỉ tiêu tài chính vĩ mô đều đạt ở mức khá, nh ng nếu
nhìn nhận dới góc độ đó thì vẫn có thể nhận thấy trách nhiệm của
toàn xà hội khi để cho tiền chảy vào lu thông một cách khá dễ dÃi.
7


Tích luỹ từ nhiều năm trớc cộng với những tác động trực tiếp của năm
2004 đà phát huy tác dụng. Việc rút tiền từ hàng loạt các công trình
đợc đầu t tràn làn một cách lÃng phí kèm theo thất thoát, tham nhũng
trong nhiều năm đà tác động đến quan hệ tiền - hàng. Nhiều ng ời,
nhiều cơ quan, vì muốn giải ngân tiền chùa nên đà tìm mọi cách để
mua hàng hoá và dịch vụ bằng mọi giá. Và cũng vì đà rút đ ợc tiền
chùa nên việc chi tiêu cũgn dễ dàng hơn. Không có nhiều tiền, không
thể sài hàng xịn. Mấy ai có thể mua hàng với giá cao quá giới hạn của
túi tiền của mình. Khi điều đó xảy ra thì đơng nhiên là giá phải bị đẩy
lên.
Kết luận : Những ý kiến nhận định của các học giả n ớc ngoài trớc tình hình lạm phát ở Việt Nam.
Theo hai kinh tế giá loungani và Swagel, có bốn nguồn gốc ảnh
hởng đến hiện tợng lạm phát tại các nớc đang phát triển nh Việt Nam.
Thứ nhất ngan sách thiếu hụt. Sự kiện này đ a đến việc in thêm tiền để
tài trợ ngân sách hoặc khủng hoảng cán cân vÃng lai (balace of
payments) và đồng tiền mất giá. Nguồn gốc thứ hai là mức cung
không đủ thoả mÃn mức cầu. Nguồn gốc thứ ba là chi phí sản xuất đột

ngột gia tăng. Nguồn gốc thứ t làm trì hoÃn lạm phát là khế ớc lơng
bổng. Đối với Việt Nam, nguồn gốc của tình trạng lạm phát hiện nay
là ngân sách thiếu hụt và chi phí sản xuất đột ngột gia tăng.
Khi giá cả tăng khoảng một vài phần trăm một năm, mức lạm
phát này không đáng ngại. Trái lại lạm phát giá cả ôn hoà còn kích
thích nền kinh tế phát triển thêm vì làm cho mức tiêu thụ gia tăng nhờ
vào giá tăng lợi tức giả tạo, việc đầu t vào nhà cửa cũng tăng vì giá
nhà sẽ tăng trong tơng lai. Việc đầu t vào máy móc và cơ sở thơng
mại sẽ bành trờnggiá thị trơng tăng nhanh hơn chi phí sản xuất. Tuy
nhiên mức lạm phát hàng năm lên cao ở mức trên 5% là một điều
đáng ngại vì nó sẽ làm xáo trộn các hoạt động kinh tế và xà hội.
Những ngời nghèo và hoặc có lợi tức cố định bị thiệt thòi nhiều nhất.
Hu bổng mất giá. Giới tiêu thụ mua sắm vội vàng vì sợ giá cả sẽ tiếp
tục tăng lại càng làm cho vật giá leo thang thêm. Hậu quả là mức tiết
kiệm, việc mua bảo hiêm và trái phiếu dài hạn bị giảm mạnh. ngoài ra
lạm phát còn tạo ra nạn đầu cơ tích trữ.
Khu vực quốc doanh tiếp tục xử dụng hoang phí tài nguyên quốc
gia. Cán cân thơng mại thiếu hụt và ngân sách nhà nớc thâm thủng
ngày càng lớn. Những điều kiện kinh tế này có triển vọng đ a đến mức
8


lạm phát đáng kể tại Việt Nam vào năm 2004 và 2005 trong lúc Việt
Nam đang cố mở mang nền kinh tế và tranh thủ để xin vào Tổ chức
Thơng mại Thế giới (WTO).
Trớc áp lực về giá cả tăng đột ngột, Ngân hàng Nhà nớc Việt
Nam (NHNNVN) cho rằng giá cả gia tăng hiện nay không đồng nghĩa
với mức lạm phát cao và không đồng ý gia tăng lÃi suất trong lúc này,
có lẽ vì sự làm cản trở đầu t và phát triển kinh tế. Lý do này hợp lý vì
lạm phát ở 8,3% cha phải là cao so với thập niên 1980 và ngay cả thập

niên 1990. Thật vậy, mức lạm phát trung bình hàng năm của Việt
Nam từ 1990 đến 2003 là 6%. Tuy nhiên trong ba tháng tới tình hình
sẽ ró hơn. Khi đó sẽ dễ dàng cho NHNNVN có một quyết định chính
xác. Mặc dù tăng lÃi suất và chính phủ giảm chi tiêu sẽ làm kinh tế
phát triển chậm lại, Việt Nam sẽ không có chọn lựa nào khác hơn là u
tiên ngăn chặn nạn lạm phát.
Lạm phát là một vấn đề kinh tế có ảnh h ởng quan trọng tới đời
sống của dân chúng, đến guồng máy xà hội và chính trị. Sự thiếu ăn
thiếu mặc, đặc biệt là nạn lạm phát đà làm cho dân nghèo vô cùng
điêu đứng tại Trung Quốc. Yếu tố này một phần nào đà dẫn đến của
cuộc nội dậy tại Thiên An Môn của nhân dân Trung Quốc vào năm
1989. Những nhà lÃnh đạo Hà Nội d biết điều này. Ông Mark Sidel
của Ford Foundation từng làm việc tại Trung Quốc và Việt Nam đà đ a
ra nhận xét nh vậy.
Tác động của lạm phát của những nhận định của chuyên gia n ớc
ngoài là rất nghiêm trọng, đặc biệt là ảnh hởng trực tiếp đến đời sống
của nhân dân, ảnh hởng trớc hết là về mặt thu nhập, giá cả.
Sau là ảnh hởng đến tâm lý tác động. Từ ngày 19-6-2004, việc
tăng giá bán lẻ xăng dầu trên thị tr ờng cả nớc đà gây sức ép tăng giá
dịch vụ giao thông vận tải, xi măng, điện, phân bón và một loạt lĩnh
vực khác sử dụng nhiều xăng dầu. Điều đó có nghĩa là sức ép tăng giá
chung trong tháng cuối năm.
Từ tháng 10-2004, cả nớc sẽ thực hiện chế độ lơng mới, mỗi
tháng chi thêm hàng nghìn tỷ đồng ). một lần nữa lại gây ra áp lực
tăng giá.
Nh ở trên chúng tôi ®· ®Ị cËp tíi: nỊn kinh tÕ håi phơc cã tốc
độ tăng trởng nhanh luôn tiềm ẩn các nguy cơ về lạm phát do cung.
Giá đất đai cao, tác động lâu dài đến giá nhiều hàng hoá và dịch vụ
9



thông qua giá thuế đất. Giá đất tăng, sử dụng đất công công nghiệp
chế biến, ảnh hởng đến năng suất lao động và sản lợng tiềm năng. Về
đất nông nghiệp, theo kết quà cuộc Tổng điều tra nông thon và nông
nghiệp cách đây tròn 10 năm cho thấy, khi đó cả n ớc có 4,185 triệu
héc ta đất lúa - màu và sau hơn một nửa thập kỷ khai hoàng, mở rộng
diện tích, năm 2000 chúng ta cũng chỉ có gần 4,268 triệu hécta. (Tức
là chỉ tăng đợc 85 nghìn héc ta) thì vào năm 2003 theo số liệu trong
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 mà Chính phủ trình Uỷ ban
Quốc hội, diện tích này đà co lại cực kỳ nhanh: chỉ còn 4,026 triệu
héc-ta, tức giảm 250.000 héc-ta. Đến năm 2010 diện tích trồng lúa n ớc chỉ còn 3,800 triệu héc-ta. Diện tích đất nông nghiệp giảm, giá l ơng thực trên thế giới ở mức cao, cho nên giá lơng thực, thực phẩm
trong ncớ có thể giữ ở mức cao. Nhiều loại hàng mang tính chiến l ợc
đang chờ tăng giá nh than, điện, phânbón.
Nguy cơ lạm phát quán tính.
Theo Bộ Tài chính thừa nhận: Việc giá tăng đà tác động không
nhỏ đến nền kinh tế, đời sống xà hội, tác động xấu đến sản xuất kinh
doanh, đến chính sách kinh tế vĩ mô, ảnh hởng đến sức cạnh tranh của
hàng hoá, dịch vụ.
Tại Hội nghị triển khai giải pháp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
tài chính - ngân sách 2004 và xây dựng dự toán ngân sách 2005 diễn
ra ngày (23/6) tại Hà Nội, báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, biến
động giá cả năm nay đặc biệt khác với tất cả các năm tr ớc. Mức tăng
giá của 5 tháng đầu năm 2004 có mức tăng cao nhấg trong các năm.
Nếu các năm trớc thờng tăng giá trong hai tháng đầu năm, các tháng
còn lại đều giảm hoặc giữ ổn định nhng năm 2004 giá tăng liên tục
trong cả 6 tháng; diện mặt hàng tăng giá nhiều hơn các năm tr ớc. Giá
nhóm hàng lơng thực- thực phẩm cũng có sự biến động theo chiều hớng trên.
Bộ Tài chính cũng thừa nhận, việc giá cả thị tr ờng 6 tháng đầu
năm diễn biến phức tạp đà tác động không nhỏ đến nền kinh tế, đời
sống xà hội, tác động xấu đến sản xuất kinh doanh, đến chính sách

kinh tế vĩ mô, giá đầu ra, ảnh hởng đến sức cạnh tranh của hh, dịch
vụ.
Chỉ số gia tăng có ảnh hởng không tốt đến thu nhập, đời sống
nhân dân. Tuy nhiên, bộ máy cho rằng giá hàng l ơng thực thực phẩm
đà giảm bớt thiệt hại cho nông dân vì dịch cúm gà, nhờ đó đà tgăng
10


sức mua của khu vực nông nghiệp làm tổng mức bán lẻ xà hội 5 tháng
qua tăng cao, tới 16,9%. Đây cũng là một thuận lợi cho thị tr ờng tiêu
thụ hàng công nghiệp, góp phần cho tốc độ tăng tr ởng công nghiệp
cừa qua khá cao... Việc tăng giá hàng phi l ơng thực thực phẩm khoảng
3-4% cũng là tạo điều kiện cho sản xuất công nghiệp phát triển và
giảm bớt khó khăn cho nguyên nhiên liệu đầu vào tăng cao. Nếu giá
hàng phi lơng thực thực phẩm không tăng, chắc chắn rằng công
nghiệp sẽ rất khó khăn.
Tiền gửi tiết kiệm tăng chậm do giá tăng.
Ông Nguyễn Phớc Thanh, giám đốc Ngân hàng Ngoại thơng
(VCB) thành phố Hồ Chí Minh cho biết từ hơn một tuần qua l ợng tiền
gửi tiết kiệm từ khu vực dân c đà tăng chậm lại: tiền gửi VND không
tăng, trong khi tiền gửi USD chỉ tăng chút ít.
Riêng tiền gửi của các tổ chức kinh tế vẫn tăng đều. Điều này
trái ngợc với những ngày sau tết lợng tiền gửi tăng mạnh. Theo ông
Thanh, nguyên nhân là do giá hàng hoá tăng cao và kéo dài đà tác
động đến tâm lý của ngời dân. Hiện tâm lý chung của ngời gửi tiền là
tiếp tục theo dõi diễn biến giá hàng hoá và sức mua của đồng tiền.
Theo ông Thanh, nếu trong 2-3 tháng tới giá hàng hoá tiếp tục
diễn giến nh hiện nay sẽ ảnh hởng đến mặt bằng lÃi suất chung, các
ngân hàng sẽ phải tang lÃi suất.
Hiện tại, để thu hút vốn, một số ngân hàng đà tăng lÃi suất tiền

gửi ở các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Tại Hà Nội, sợ tiền Việt mất giá quá nhanh, dân đổ xô mua đô
la.
Theo Hà Nội ngày 5-3 Từ sáng qua đến chiều nay, chúng tôi đÃ
bán ra gần 2 triệu USD, tăng gấp đôi so với thờng lệ. Khách mua phần
lớn là cá nhân, họ đang sợ đồng Việt Nam trợt giá. Cờng, cán bộ
kinh doanh ngoại tệ của một công ty vàng bạc đá quý ở Hà Nội tiết lộ
với báo điện tử tin nhanh Việt Nam.
Tỷ giá mua vào - bán rta tại công ty của C ờng cuối giờ chiều
ngày thứ sáu 5-2-2004 là 15.880 - 15.920 đồng/USD. Anh giải thích
thêm, có lẽ do giá cả hàng hoá hai tháng tăng mạnh, ngời ta sợ tiền
Việt mất giá nên phải tích trữ ngoại tệ.
Giá bán USD của hầu hết các cửa hàng vàng bạc đá quý ở Hà
Nội chiều ngày thứ sáu cũng vợt quá 15.900 đồng. Theo giới kinh
doanh, đô la bắt đầu lên mạnh từ sáng qua, khi Ngân hàng Ngoại
11


thơng (VCB) nâng giá bán ra lên mức 15.783 đồng, tăng 25 đồng so
với đầu tuần. Lợng khách mua từ lúc đó cũng tăng đột biến do lo ngại
đồng nội tệ mất giá.
Tại sàn giao dịch New York vào 16h30 chiều nay, giá vàng dao
động quanh mức 392,60 USD/ounce. Giá vàng SIC tại Hà Nội là
772.000 - 782.000 đồng/ chỉ; trong khi giá t nhân là 767.000 770.000 đồng/chỉ (mua vào - bán ra).
Trên thị trờng thế giới, giá vàng ®ang gi¶m, euro cịng gi¶m
®iỊu ®ã cho thÊy USD ®ang phục hồi. Có thể ngời dân sợ đô la sẽ lên
giá cao hơn nên mua trớc để tránh rủi ro, ông nhận định.
Một nhân tố khác, theo ông Phong đó là diễn biến giá vàng.
Vào lúc này, giá vàng trong nớc đang cao hơn thế giới. Nếu tính ra
tiền Việt, giá vàng thế giới chỉ vào khoảng 740.000đồng/chỉ, so với

mặt bằng chung trong nớc là 760.000 - 770.000 đồng/chỉ. Giới kinh
doanh cã thĨ tËn dơng ®iỊu ®ã, tranh thđ gom đô la để nhập lậu vàng
kiếm lời, ông giải thích. Theo ông Phong, nếu giả thiết đó đúng, thì
giá đô la tăng từ 2 ngày nay còn do giới đầu cơ đang thu gom đô la.
Trớc Tết, cũng đà rộ lên phong trào mua USD tích trữ và đầu cơ
do lo ngại đồng tiền Việt Nam mất giá. Tuy nhiên, nhiều ng ời sau đó
đà lỗ nặng vì giá USD không những không tăng mà còn giảm mạnh.
Theo báo Hà Nội mới ra ngày 8/3 - Mức độ lạm phát gia tăng
nhanh hơn khiến ngân hàng nhà nớc Việt Nam đang tính biện pháp
tăng lÃi suất đồng bạc của họ trong ngày rất gần đây, nhất là khi tiền
đồng gnày một mất giá so với đồng đô la, giới kinh doanh ngân hàng
cho hay nh vậy trong ngày Thứ Hai 8-3-2004.
Chỉ số tiêu thụ tăng 4% trong thời gian 12 tháng tính tới cuối
tháng hai 2004 vì phần lớn là hậu quả của giá thực phẩm tăng vọt liên
quan đến dịch cúm gà.
Chỉ số tiêu thụ tăng cao và mức độ mất giá của đồng bạc nhanh
hơn làm ngời ta lo sợ nên tung tiền mua đô la thú nhận. Môt nhà
kinh doanh ngoại quốc tại một ngân hàng ngoại quốc ở Hà Nội nói
nh vậy.
Trong những năm qua, Việt Nam theo đuổi chính sách phá giá
từ từ tiền Việt Nam, mỗi ngày cho sụt đi vài đồng. Chuyên viên ngoại
quốc cho rằng trị giá thật của tiền Việt Nam thấp hơn giá trị áp đặt
của nớc trên dới 20%.

12


Một nhà buôn bán ngoại tệ giấu tên nói rằng nhiều phần Việt
Nam sẽ tăng lÃi suất tiết kiệm tiền đồng từ tháng t tới nhng một ngời
ở ngân hàng khác thì nói ngân hàng của ông ta dự trù tăng lÃi suất tiết

kiệm tiền đồng không trớc tháng 9 năm nay.
Ngân hàng Trung ơng áp đặt hối suất 15.731 đồng ăn một đô la
(giá hoán đổi chính thức liên ngân hàng) ngày thứ hai 8-3-2004 trong
khi giá trên thị trờng chợ đen là 15.920 đồng ăn một đô la, ngày 3112-2003, Việt Nam áp đặt hối xuất chính thức là 15.608 đồng ăn một
đô la.
Những ngày vừa qua, dân có nhiều tiền đà hốt hoảng thu mua đô
la tạo nên một cơn sốt giá bất thờng trên thị trờng chợ đen.
Cuối tháng trớc, Ngân hàng Vietcombank chi nhánh Sái Gòn
tăng lÃi suất tiết kiệm tiền đồng thêm 0,6%, một hành động mà ng ời
ta sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh gia các ngân hàng nhằm thu hút đồng nội
tệ. Tuy nhiên Ngân hàng Trung ơng phủ nhận tin đồn là lạm phát sẽ
đa đến biện pháp tăng lÃi suất tiết kiệm.
Trớc những diễn biến phức tạp của lạm phát, chính phủ cần có
những biện pháp kịp thời và đúng đắn nhằm đ a nớc ta thoát khỏi tình
trạng này.
Tuy nhiên, điều này không phải là dễ và nó đòi hỏi phải có một
quá trình cần thiết mới có thể giải quyết đợc./.

13


Tài liệu tham khảo
1. Nghiên cứu kinh tế số 318 - Tháng 11/2004.
( Nhận dạng và dự báo lạm phát ở Việt Nam năm 2004 - T.S Viện
Khoa học Tài Chính - Bùi Đờng Nghiêu).
2. Nghiên cứu Kinh tế số 319 - Tháng 12/2004.
(Lạm phát - Nguyên nhân và giải pháp)
3. Tạp chí Kinh tế và phát triển (9/11/2004)
(Lạm phát tại Việt Nam nhảy vọt năm 2004 - Nguyễn Quốc Khải )
4. -Unicode/lamphataivietnam.htm

5. Nghiên cứu KT số 317 (Tháng 10/2004)
(Lạm phát - vấn đề kinh tế vĩ mô hàng đầu ở Việt Nam - Tiến sĩ tr ờng
Đại học Bách Khoa Hà Nội: Nguyễn ái Đoàn).
6. />7. />8. />9. />10. />
MụC LụC
I. Với nớc ta từ đầu năm 2004 đến nay có những sự
kiện đáng chú ý sau:....................................................................2
2. Mức cầu nội địa gia tăng.....................................................................2
3. Hoạt động kinh tế gia tăng..................................................................2
4. Nhà nớc tăng lơng cho nhân viên trong năm 2003..........................3
5. Chi phí sản xuất tăng vì giá nguyên liệu và thuế tăng....................3
6. Đồng tiền Việt Nam mất giá ít so với đồng Mỹ kim nhng mất giá
đáng kể so với các ngoại tệ khác (Euro, Yên, v.v ). ). .........................4
14


7. Việc Ngân hàng Việt Nam phát hành tiền mới, với tổng lợng tiền
dự kiến tung vào để loại bỏ tơng ứng đà dẫn đến tình trạng mất cân
bằng giữa tổng lợng trên lu thông.........................................................4
Nguyên nhân trực tiếp..............................................................................4
Nguyên nhân gián tiếp.............................................................................5
Xuất phát từ lý do quản lý: vai trò điều hành giá trong kinh tế thị
trờng của Nhà nớc và các tổng công ty chủ đạo còn hạn chế...........7
Về chính sách tài chính............................................................................9
Kết luận: Những ý kiến nhận định của các học giả n ớc ngoài trớc tình hình lạm phát ở Việt Nam.................10
Nguy cơ lạm phát quán tính..................................................................12
Tiền gửi tiết kiệm tăng chậm do giá tăng............................................13
Tài liệu tham khảo..........................................................................17

15




×