Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 viết đúng, viết đẹp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.65 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT TP THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TIN HỌC

VIẾT ĐÚNG, VIẾT ĐẸP

LỚP 6 BẰNG DỤNG CỤ VÀ HÌNH ẢNH TRỰC QUAN

Người thực hiện: La Thị Mận
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Lê Văn Tám
NgườiSKKNthựcthuộchiện: lĩnhNguyễnvực(môn):NamTiếnTiếng Việt

Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS TT Bến Sung
SKKN thuộc lĩnh vực: Tin học

THANH HOÁ NĂM 2017.


MỤC LỤC



MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

Mục lục
A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
V. Phương pháp nghiên cứu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng
III. Các biện pháp thực hiện

1
1
1
2
2
3
3
3
4

1.Rèn chữ viết thông qua dạy chính tả
2. Rèn chữ viết thông qua tiết Tập viết
3.Rèn chữ viết thông qua các môn học khác

4. Rèn chữ viết thông qua cách chữa bài và nhận xét của GV
5. Rèn chữ viết thông qua việc tổ chức “Đôi bạn cùng tiến”
IV. Hiệu quả của SKKN
C. Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận

4
7
10
11
11
12
14
14

II. Kiến nghị, đề xuất

14


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta biết, chữ viết có tầm quan trọng với học sinh đặc biệt ở bậc
Tiểu học, học sinh dùng chữ viết để học tập và giao tiếp. Vì vậy, chữ viết không
những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học khác mà còn
góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học môn Tiếng
Việt trong trường tiểu học – kỹ năng viết nét chữ. Thông qua chữ viết có thể
đánh giá được “nét chữ, nết người”. Nếu học sinh viết đúng, đẹp, rõ ràng, đảm
bảo tốc độ quy định thì học sinh có điều kiện để ghi chép bài học tốt, nhờ vậy
mà kết quả học tập tốt hơn, ngược lại viết xấu sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng học tập của các em.
Ngày nay dù có nhiều phương tiện in ấn hiện đại, song chữ viết vẫn được coi
trọng. Đặc biệt đối với học sinh Tiểu học chữ viết là một trong bốn yêu cầu cơ
bản: Nghe, nói, đọc, viết mà học sinh phải đạt được. Bởi vì khi học các môn học
các em chỉ nghe thì chưa đủ mà cần phải viết để ghi nhớ và khắc sâu tri thức.
Nhưng nếu viết sai lỗi chính tả thì học sinh có thể hiểu sai hoặc hiểu không đầy
đủ văn bản dẫn đến các em không nắm được nội dung kiến thức môn học.
Qua các cuộc thi : Chấm vở sạch chữ đẹp của các trường Tiểu học hằng
năm của phòng giáo dục chứng tỏ chữ viết đã được cả xã hội quan tâm. Nhiều
học sinh đã thể hiện kĩ năng viết chính tả của mình rất tốt. Riêng đối với Trường
Tiểu học Lê Văn Tám chúng tôi cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Song chất
lượng chữ viết của học sinh chưa cao nhất là học sinh lớp 3. Bởi học sinh từ lớp
2 lên lớp 3 nhảy một nấc thang về kiến thức quá lớn, bài viết dài nên các chữ
viết của các em xấu đi rất nhiều. Một số giáo và học sinh chưa quan tâm đến vấn
đề rèn chữ viết cho học sinh dẫn đến một số học sinh viết chữ chưa đẹp và sai
lỗi nhiều. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của học sinh.
Từ những thực tế trên, tôi thấy việc “Nâng cao chất lượng chữ viết” ở
trường Tiểu học nói chung và Trường Tiểu học Lê Văn Tám nói riêng là tất yếu
và hết sức cần thiết.
Với những lí do cơ bản trên cùng với lòng ham thích và mong muốn được
tìm hiểu và học hỏi thêm kinh nghiệm từ các thầy cô giáo, các đồng nghiệp đã
thôi thúc tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 viết đúng, viết
đẹp ”, với hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé công sức của mình vào việc
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục toàn diện trong nhà trường Tiểu học
hiện nay.
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu và áp dụng rèn chữ viết chính tả (viết đúng, viết đẹp) cho học sinh
lớp 3 góp phần nâng cao chất lượng chữ viết nói riêng và chất lượng học tập ở
các môn học nói chung.
1



- Tiếp tục củng cố và hoàn thiện tri thức cơ bản về hệ thống chữ viết về hệ
thống
ngữ âm Tiếng Việt. Cung cấp kiến thức cơ bản về hệ thống quy tắc chuẩn, thống
nhất chính tả Tiếng Việt. Rèn luyện thuần thục kỹ năng viết, đọc hiểu chữ viết
Tiếng Việt. Trang bị cho học sinh một công cụ quan trọng để học tập và giao
tiếp
(ghi chép, viết đọc, hiểu bài đọc...).
- Phát triển ngôn ngữ và tư duy khoa học cho học sinh. Chính tả quan hệ với tập
viết, tập đọc với luyện từ và câu... là những môn của Tiếng Việt góp phần bồi
dưỡng những tình cảm tốt đẹp của con người thông qua sử dụng ngôn ngữ (bằng
tính khoa học, tính chính xác, tính thẩm mỹ...)
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
-Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 viết đúng, viết đẹp.
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 3B - Trường Tiểu học Lê Văn Tám –thành
phố Thanh Hóa.
IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Phương pháp quan sát
2. Phương pháp khảo sát chất lượng chữ viết của học sinh.
3. Phương pháp thống kê, phân tích.
4. Phương pháp thực nghiệm.
5. Phương pháp đối chiếu và so sánh kết quả

2


B. NỘI DUNG
I . CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Lê-nin đã từng nói “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của

loài người.”Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp mà là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất đặc trưng nhất của
loài người. Không có ngôn ngữ xã hội không thể tồn tại. Ngôn ngữ đó chính là
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Chữ viết chính là ngôn ngữ viết là một trong
những phát minh vĩ đại của con người. Từ khi ra đời chữ viết là công cụ đắc lực
trong việc ghi lại, truyền bá toàn bộ kho trí thức của nhân loại. Chẳng những vậy
con người còn coi chữ viết như một người bạn thường xuyên gần gũi, thân thiết
với mình. Từ tình cảm ấy con người muốn chữ viết cũng phải đẹp, đẹp cho
chính nó, đẹp cho con người. Ngoài ra chữ viết còn góp phần quan trọng trong
việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cho học sinh như tính cẩn thận, tính kỷ luật,
khiếu thẩm mĩ. Chữ đẹp nết người giống như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nói “ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người: Dạy cho học sinh viết đúng, viết
đẹp, viết cẩn thận là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng
đối với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình”.
II . THỰC TRẠNG
Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Phòng GD&ĐT Trường Tiểu
học Lê Văn Tám chúng tôi đã chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh. Hoạt
động này đã thành nền nếp và ngày càng có hiệu quả.
Thuận lợi:
+ Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ đảm bảo cho việc dạy và học
của giáo viên và học sinh như phòng học, ánh sáng, bàn ghế, đồ dùng cho môn
học…
+ Giáo viên luôn quan tâm đến phong trào vở sạch chữ đẹp, chấm chữa bài cho
học sinh thường xuyên.
Khó khăn:
+ Chất lượng chữ viết của trường mấy năm gần đây chưa đều còn nhiều học
sinh viết chữ chưa đẹp, sai lỗi nhiều nhất là học sinh khối lớp 3.
+ Một số bàn ghế cũ chưa phù hợp với học sinh (Bàn thấp ghế cao…), phòng
học nhiều hôm không đủ ánh sáng do điện yếu.
+Một số giáo viên chưa có kinh nghiệm trong việc rèn chữ viết cho học sinh.

Khi chấm bài cho học sinh, học sinh viết sai lỗi chính tả thì giáo viên chỉ gạch
chân, ít sửa sai cho các em.
+ Các em đa phần là con nhà buôn bán, công nhân, con công an tuy điều kiện
vật chất đầy đủ nhưng điều kiện hướng dẫn các em viết bài hoặc dạy các em tư
3


thế ngồi hoặc cách cầm bút thì hạn chế nên không sửa cho các em được hoặc có
sửa thì cũng không đúng…Một số em có cả bố mẹ đi làm ăn xa để mặc các em ở
nhà với ông bà già, chỉ coi trọng đến việc học văn hóa không chú trọng đến chữ
viết của các em.
Điều này khiến cho giáo viên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn khi rèn chữ
viết cho học sinh.
Để xây dựng được kế hoạch nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 3 viết đúng, viết đẹp ”, tôi đã tiến hành khảo sát tình hình thực tế việc viết
chính tả của học sinh ngay từ đầu năm học. Tôi phát hiện ra nhiều học sinh chữ
viết xấu, không đúng ô, đúng mẫu, đúng khoảng cách, cách cầm bút sai…Viết
tùy tiện, cẩu thả, viết chữ không đều, vở thì bôi bẩn, góc vở quăn trông rất xấu.
Thông qua việc khảo sát chất lượng môn Toán, Tiếng Việt và chữ viết các em
trong lớp, cho thấy chữ viết các em chưa đẹp, tỷ lệ chữ loại A còn thấp, học sinh
chưa nắm vững tên gọi các dòng kẻ ngang trong vở, chưa nắm rõ điểm đặt bút,
dừng bút của các chữ. Chữ viết còn rời rạc chưa liền mạch sai quy trình, sai nét.
Chữ viết hoa chưa đúng mẫu. Thường khi viết chính tả các em mới có ý thức
viết đẹp, còn các môn học khác thì chữ viết ẩu, gạch xóa lem nhem.
Một số chỉ nhìn chép, chưa nghe viết được, sai nhiều lỗi chính tả, chưa có ý
thức giữ gìn vở sạch chữ đẹp. Cụ thể khảo sát chất lượng chữ viết đầu năm của
lớp 3B Trường Tiểu học Lê Văn Tám như sau:
Tổng số học sinh
37 em


Xếp loại A
SL
15

%
40,5

Xếp loại B
SL
22

%
59,5

Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp mà tôi đã rút
ra được qua nhiều năm giảng dạy để giúp học sinh lớp 3B Trường Tiểu học Lê
Văn Tám viết đúng, viết đẹp.
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Rèn chữ viết thông qua dạy Chính tả
Học sinh chỉ có thể viết đúng khi nắm được quy tắc, mẹo luật chính tả. Do
đó, việc rèn chữ viết cho học sinh thông qua môn chính tả là rất cần thiết. Để
giúp học sinh viết đúng, đẹp tôi thực hiện như sau:
1.1. Tìm ra nguyên nhân mắc lỗi
-Học sinh viết sai lỗi chính tả chủ yếu do các em ở lớp dưới chưa nắm
vững âm, vần, chưa phân biệt được cách phát âm của giáo viên, chưa hiểu nghĩa
của từ, chưa chú ý khi viết chinh tả (như thiếu dấu phụ, dấu thanh)
-Do sự phức tạp của chữ quốc ngữ : các nguyên đôi ie, ươ, uô lại được
ghi bằng các dạng iê, yê, ia.ya, uô, ua, âm đệm lại được ghi bằng hai con chữ u
4



và o dẫn đến có nhiều vần khó viết đối với học sinh yếu (uya, uyu, uênh, oeo,
uêch…
-Do học sinh không hiểu nghĩa của từ, phát âm sai (iu /iêu, et/ec…)
-Do học sinh không nắm được quy tắc chính tả (g chỉ được ghép với a, ă, â,
o, ô, ơu, ư, còn gh, ngh đi với e, ê, i…)
-Do ảnh hưởng của tiếng địa phương ,nói như thế nào viết thế ấy(VD: ở địa
bàn phường Ba Đình thành phố Thanh Hoá thường nói sai các nguyên âm đôi iê,
ươ…) và các tiếng có âm ch nói thành tr, một số em sai thanh hỏi và thanh ngã
-Do các em chưa có ý thức ngồi học nghiêm túc. Chưa có thói quen giữ vở
sạch, viết chữ đẹp. Khi viết sai các em có thói quen xóa nhiều lần. Tay cầm bút
chưa đúng quy định.
1.2. Giúp các em nắm luật (nguyên tắc) viết Chính tả.
Một trong những việc làm không thể thiếu được khi luyện viết cho học sinh
là giúp học sinh nắm được nguyên tắc chính tả. Vì khi viết cho dù học sinh viết
đẹp và đúng mẫu chữ quy định nhưng sai lỗi chính tả dẫn đến tình trạng người
đọc hiểu không đúng hoặc hiểu sai vấn đề mà mình muốn trình bày. Do đó giáo
viên cần giúp cho học sinh nắm được quy tắc, meo luật chính tả.
Ví dụ:
- Phân biệt dấu hỏi, dấu ngã: Khi một chữ của từ láy đã viết dấu huyền, dấu
nặng, dấu ngã thì chữ kia phải viết dấu ngã (sẵn sàng, dữ dội, dễ dãi, đẹp đẽ ...).
Khi một chữ của từ láy đã viết dấu sắc, không dấu hoặc dấu hỏi thì chữ kia phải
viết dấu hỏi chứ không viết dấu ngã (như: Mát mẻ, hớn hở, vui vẻ, lẻ loi,...).
- g, ng viết trước các nguyên âm (a, ă, â, o, ô, ơ,u, ư )
- gh , ngh ,k viết trước các nguyên âm ( i, ê, e )
- iê : viết sau âm đệm , trước âm cuối : tuyên, ...
- ia : viết sau âm đầu , không có âm cuối : chia , ...
- ya : viết sau âm đệm không có âm cuối:khuya...
- i : viết sau âm đầu
- y : viết sau âm đệm , ...

- Phân biệt r, d, gi: "gi" và "r" không kết hợp với âm đầu vần (âm đệm) trong
trường hợp có âm đầu vần luôn viết "d" (như duyên nợ, doạ nạt, duy trì ...),
những tiếng của từ Hán Việt mang dấu ngã, dấu nặng thì viết "d" (như: Diện
tích, diệu kỳ ...) mang dấu hỏi, dấu sắc viết "gi" (như: giả định, giáo viên, giải
thích ...), trong kiểu láy âm những tiếng nào phỏng tiếng động và chỉ sự rung
động đều viết "r" (rì rào, rả rích, réo rắt ...)...
-Từ có âm đầu là , n, nh, v, l, d, thì viết là dấu ngã:
Ví dụ: m: mĩ mãn, mã lực, cần mẫn…
n: Nỗ lực, trí não, nữ giới…
nh: nhẫn nại, nhẵn bóng, nhõng nhẽo…
v: vĩnh viễn, vỗ về, vũ trụ,võ nghệ…
5


l: lễ phép, lữ hành, kết liễu, lạnh lẽo…
d: dã man, dã tràng, dũng cảm, dỗ dành…
1.3. Hướng dẫn các em hiểu nghĩa từ để viết đúng:
Học sinh khó có thể viết đúng khi không hiểu nghĩa của từ. Do đó, để học
sinh viết đúng giáo viên cần lưu ý giúp cho học sinh hiểu nghĩa của từ để từ đó
giúp cho học sinh viết đúng.
Ví dụ: Trung/ chung: "Trung" có nghĩa là "ở giữa, ở trong" (viết tập trung,
trung tâm, không trung, trung bình) hết lòng vì người khác, hết lòng vì nước
(trung thành, trung hiếu, trung quân ...) còn "Chung" có nghĩa là "không riêng,
cùng" (chung sống, chung thuỷ, chung kết ...).
1.4. Dạy tốt bài chính tả âm, vần ở lớp 3:
Giáo viên cần vận dụng việc dạy dạng bài tập chính tả âm vần có nội dung
so sánh sao cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Đối với những bài
tập chính tả mà các âm, vần học sinh ở địa phương mình viết không bị sai thì
giáo viên có thể thay thế nội dung (SGK) hoặc thay thế bằng những bài tập khác
có nội dung phù hợp để chữa lỗi chính tả cho học sinh địa phương.

Đối với lớp 3 các em vừa từ lớp 2 lên bài chính tả dài vả lại nhiều dạng
bài các dạng bài tập khác. Đây là hình thức bài tập khó. Nên GV có thể chọn
hình thức thảo luận nhóm để các em có sự thảo luận hỗ trợ lẫn nhau. Trong một
số trường hợp khó học sinh chưa tìm được GV cần hướng dẫn hỗ trợ các em kịp
thời.
Ví dụ: Bài 2b-Hoạt động 5 (trang 31 tập 1 ):
Giải câu đố sau:
Trắng phau cày thửa ruộng đen
Bao nhiêu cây trắng mọc lên thành hàng.
(Là chữ gì?)
Ở trường hợp này GV có thể gợi ý cho HS: Đây là câu đố chữ, để giải câu đố
các em cần nắm được cấu tạo tiếng và hiểu về sự vật, các em có thể xem cái gì
Trắng phau cày thửa ruộng đen (phấn), ruộng đen là (bảng đen)
1.5. Sửa lỗi chính tả theo nhóm
Qua việc tiến hành điều tra để nắm lỗi chính tả phổ biến của học sinh , bản thân
tôi đã chấm và phân loại những học sinh thường mắc cùng một loại lỗi chính tả.
Giáo viên chỉ việc thay đổi tên nhóm theo cách của mình.
- Đặt tên nhóm theo lỗi thường mắc phải như : Nhóm âm đầu, nhóm vần, nhóm
viết hoa ...
- Số em ở mỗi nhóm tuỳ tình hình thực tế của lớp .
- Trong giờ chính tả nói chung và bài tập chính tả âm,vần nói riêng, dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, nhóm trưởng hướng dẫn các bạn trong nhóm phát hiện
lỗi chính tả trong bài viết của mỗi thành viên và cùng chữa lỗi .
6


- Giáo viên kiểm tra, đánh giá , nhận xét.
- Cho các nhóm thi đua với nhau nếu nhóm nào tiến bộ sẽ được thưởng sao.
2. Rèn chữ viết cho học sinh thông qua tiết Tập viết.
Kĩ năng viết bao gồm viết đúng kĩ thuật, viết chính tả, viết để ghi lại những

lời ( câu, đoạn) đã nói,sao chép lại những câu, đoạn trong một văn bản khác, viết
để chuyển ý thành lời, tạo lập những câu đoạn, bài mới. Chương trình Tiếng Việt
3
không còn nội dung tập viết (với mục tiêu viết đúng mẫu chữ). Do đó, tôi rèn
chữ cho học sinh chủ yếu trong các tiết Luyện viết ở buổi 2. Để thực hiện tốt
việc rèn chữ cho học sinh giáo viên cần làm tốt một số việc sau:
2.1 Tìm hiểu thống kê các lỗi học sinh thường mắc
a. Lỗi viết sai các nét cơ bản
Học sinh còn viết sai nhiều về độ cao các con chữ, nét chữ chưa chuẩn,
viết sai nét khuyết, thường các em viết quá nhỏ hoặc quá to độ cao không chính
xác thậm chí viết không thẳng nét.
b. Lỗi viết sai quy trình
Một số em chưa viết đúng quy trình: viết đến chữ cái nào đánh dấu ngay chữ
cái đó chứ không viết liền mạch rồi mới quay lại đánh dấu thanh, dẫn đến các
con chữ trong một tiếng rời rạc, mất thời gian nhấc bút nhiều lần
c. Lỗi về thanh điệu
Một số học sinh đều không phân biệt được thanh hỏi và thanh ngã nên khi
viết hay sai. Đây là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực tỉnh Thanh Hoá
nói chung phương Ba Đình nói riêng.
Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, dổ dành sạch sẻ…
d. Lỗi về âm đầu
Học sinh thường viết sai một số chữ cái ghi các âm đầu sau:
Học sinh viết sai âm đầu
-g/gh: con gẹ, gê sợ…
-ng/ngh: ngỉ ngơi, nge nhạc

Sửa lại đúng chính tả
con ghẹ, ghê sợ…
nghỉ ngơi, nghe nhạc


-ch/tr : lũ chẻ, chiến chanh…

lũ trẻ, chiến tranh…

-s/x : xanh sao, nước xôi…

xanh xao, nước sôi…

-VD học sinh viết sai: nge nhạc trong bài chính tả nghe nhạc; trang 42 – 43 TV3
tập 2)
-VD học sinh viết sai: lũ chẻ trong bài chính tả: Tiếng đàn – TV3 tập 2
Trong các lỗi trên, lỗi về âm ch/tr, s/x, ng/ngh đối với lớp tôi chủ nhiệm là
phổ biến hơn cả.
7


đ Lỗi về âm cuối
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau:
Học sinh viết sai âm cuối
-an/ang: cây bàn, bàng bạc…

Sửa lại đúng chính tả
cây bàng, bàn bạc …

-at/ac: lang bạt, rẻ mạc…

lang bạc, rẻ mạt…

ât/âc: đấc quý, nhất bổng….


đất quý, nhấc bổng….

-VD học sinh viết sai: nhất bổng trong bài chính tả Ông ngoại; trang 34 –
35 TV3 tập 1).
-VD học sinh viết sai: đấc quý trong bài chính tả Đất quý đất yêu; trang 77
– 78 TV3 tập 1).
e. Lỗi viết hoa
Lỗi viết hoa thường gặp ở dạng:
-Lỗi về viết hoa danh từ riêng, đầu câu:
Học sinh thường mắc lỗi này khi viết tên riêng chỉ người và tên riêng
nước ngoài, học sinh lớp tôi chủ nhiệm có khoảng 1/4 số em hay mắc lỗi này
nhất là những học sinh chưa nắm vững luật chính tả (như em: em Mạnh, em
Khanh ) nếu không được giáo viên nhắc nhở khi đang viết bài dễ viết sai.
Qua thống kê tôi thấy hầu hết học sinh đều mắc các lỗi chinh tả, số lỗi
các em mắc nhiều là lỗi thanh hỏi, thanh ngã, lỗi về âm đầu, âm chính.
2.2 Giúp học sinh nắm vững mẫu chữ viết theo quyết định 31 của Bộ
GD&ĐT.
Ngay từ đầu năm cho học sinh xem lại bảng mẫu chữ viết thường, bảng
mẫu chữ viết hoa và bộ chữ số do Bộ giáo dục ban hành theo QĐ 31:
- Mẫu chữ theo QĐ 31 bộ chữ viết thường gồm 29 chữ cái.Trong đó:
+ Chữ có độ cao 1 đơn vị: a, ă, â, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ, u, ư, v, x.
+ Chữ có độ cao 2 đơn vị: d, đ, g, p, q, y.
+ Chữ có độ cao 1,5 đơn vị (chỉ có 1 chữ): t.
+ Chữ có độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
+ Chữ có độ cao 2,5 đơn vị: b, h, l, k.
- Tất cả các chữ viết hoa, các chữ số đều có độ cao giống nhau là 2,5 đơn vị.
2.3 Hướng dẫn học sinh về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở, kĩ thuật
viết…trong tất cả các giờ học
Quá trình tập viết có quan hệ đến nhiều bộ phận trong cơ thể của học sinh.
Học sinh không thể viết đẹp và nhanh nếu như tư thế ngồi, cách cầm bút chưa

đúng và không biết kỹ thuật lia bút, rê bút,... Do đó, giáo viên cần hướng dẫn
8


cho học sinh về tư thế ngồi, cách cầm bút, cách đặt vở, điểm đặt bút, điểm dừng
bút, lia bút và viết liền mạch trong tất cả các giờ học như sau:
- Tư thế ngồi viết: Khi viết phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng không tì ngực
vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25- 30 cm cánh tay trái đặt trên
mặt bàn bên trái vở, cánh tay phải cũng đặt trên mặt bàn. Khi viết bàn tay phải
và cánh tay phải xê dịch từ trái sang phải.
- Cách cầm bút: Học sinh cầm và điều khiển bút bằng 3 ngón tay của bàn tay
phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải
của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa cầm bút không được chặt quá
hoặc lỏng quá dẫn đến khó điều khiển bút, ngoài ra còn có sự phối hợp cử động
của cổ tay và cả cánh tay.
+ Vị trí đặt vở khi viết: Vở viết cần đặt nghiêng so với mép bàn một góc
khoảng 30o nghiêng về phía bên phải.
+ Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một chữ cái. Điểm đặt bút có thể
nằm trên đường kẻ ngang hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
- Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái, điểm dừng
bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
- Toạ độ của điểm đặt bút hay dừng bút về cơ bản toạ độ này thống nhất ở 1/3
đơn vị chiều cao của chữ có thể ở trên hoặc dưới đường kẻ ngang.
Ví dụ: Điểm đặt bút của chữ “h” cao hơn đường kẻ ngang dưới 1/3 đơn vị
chiều cao của chữ.
- GV cần chú trọng rèn viết nhiều ở nét khuyết trên của nhóm chữ h,b,l…
Nhóm nét khuyết dưới như chữ g, gh, ng. y, ngh bởi vì các nhóm nét này học
sinh viết hay sai, học sinh viết nét khuyết bị gẫy lưng,phình to, lép đầu… giáo
viên cần nhắc học sinh viết đúng nét khuyết (lưng nét khuyết đứng thẳng) sau đó
GV viết mẫu vào vở luyện viết cho học sinh luyện viết ở nhà.

- Viết liền mạch: Là liền mạch giữa các nét trong một chữ cái, liền mạch giữa
các chữ trong một chữ cái, khi viết một chữ nét bút thường đưa liền mạch từ đầu
đến cuối chữ rồi sau đó mới nhấc bút lên viết tiếp các dấu (dấu chữ, dấu thanh).
Trong khi viết, một số nét trong chữ có những xê dịch cần thiết để liền
mạch với nhau.
Ví dụ: T nối liền mạch với R thì khoảng cách giữa 2 chữ cái thu gần lại
hơn. Các chữ b, v nét xoắn đi xuống để gặp nét cong của chữ e. Chữ o thêm nét
xoắn để nối liền với chữ n, nét nối từ a sang I, n sang g
- Viết nét nối: Là liền mạch giữa các nét trong một chữ cái, liền mạch giữa
các chữ trong một chữ. Ví dụ: nối nét từ a sang i, n sang g, b sang i…
- Kỹ thuật lia bút để đảm bảo tốc độ viết trong quá trình viết một chữ cái hay
nối các chữ cái với nhau. Nét bút được thể hiện liên tục trên dụng cụ viết (bút)
nhưng không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng) .
- Kĩ thuật rê bút đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại của nét
chữ vừa viết (dụng cụ viết chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến
điểm bắt đầu của nét đứng liền sau.
9


2.4 Hướng dẫn học sinh cách đặt vị trí dấu thanh ở mỗi chữ viết
- Trong mỗi chữ dấu thanh bao giờ cũng phải đặt ở chữ cái ghi âm chính của
vần các dấu thanh được viết trong phạm vi một ô vuông có cạnh là 0,5 đơn vị.
(trừ thanh ngang không ghi dấu) các dấu thanh huyền ( \ ), sắc (/ ), hỏi (?) ngã
(˜ ) đặt ở phía trên chữ cái, dấu nặng (.) đặt ở phía dưới chữ cái.
-Trong các tiếng có nguyên âm đôi nếu không có âm cuối vần thì dấu thanh
đặt vào chữ cái thứ nhất của nguyên âm đôi.
Ví dụ: ca nhựa, cái thìa.
Nếu sau nguyên âm đôi có âm cuối vần thì dấu thanh đặt vào chữ cái thứ
hai của nguyên âm đôi .
Ví dụ: con kiến, rượu, chuỗi cườm....

Tóm lại: Việc dạy Luyện viết được tiến hành theo một quá trình từ nhận
diện (hình dáng, kích cỡ chữ), thao tác viết đưa bút theo đúng quy trình viết đến
biết nối các nét chữ hoa với chữ thường trong một tiếng. Kết hợp dạy kỹ thuật
viết chữ với kĩ năng rèn chính tả. Nhằm tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp
nhận kiến thức (học sinh tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ) tự giác luyện tập và rút
ra kinh nghiệm qua thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên, từ đó giúp học
sinh tự hình thành và trau dồi kĩ năng viết chữ bằng cách sử dụng trực quan triệt
để (trực quan có thể phóng to trên bảng, chữ mẫu của giáo viên khi viết bảng và
phê vào vở của học sinh ) nhằm khắc sâu biểu tượng về chữ viết bằng nhiều
cách: mắt nhìn, tai nghe, tay viết, từ đó giúp học sinh chủ động phân tích và nắm
vững được hình dáng, cấu tạo của chữ mẫu để các em viết đúng, đẹp và nhanh.
3. Rèn chữ viết thông qua các môn học khác
Giáo viên cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn học khác để
học sinh tập viết. Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng chữ viết ở tất cả
các môn học là cần thiết. Có như vậy, việc luyện tập chữ mới được củng cố đồng
bộ, thường xuyên. Việc làm này đòi hỏi giáo viên ngoài những hiểu biết về
chuyên môn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề, mến trẻ. Do đó, khi
học sinh học các môn học như: Tập làm văn, Luyện từ và câu, Tập đọc (Đối với
chương trình hiện hành), môn Toán, Tự nhên và Xã hội.... giáo viên kịp thời
phát hiện các lỗi sai phổ biến của học sinh, từ đó hướng dẫn học sinh sửa lại
từng loại lỗi sai ở tất cả các phân môn.
Ví dụ:
- Thông qua môn Toán: Khi chấm vở bài tập toán cho học sinh thấy các em
viết chữ số chưa đẹp giáo viên cần viết mẫu các chữ số bên cạnh yêu cầu học
sinh về viết lại chữ số.
- Thông qua phân môn Tập đọc: Khi dạy môn Tập đọc giáo viên giúp các em
đọc đúng các từ khó và hiểu nghĩa các từ khó hiểu, vì khi các em đọc đúng và
hiểu nghĩa của từ thì sẽ giúp các em viết đúng, đẹp, nhanh.
- Thông qua phân môn Luyện từ và câu: Khi dạy luyện từ và câu giáo viên
xây dựng cho học sinh qui tắc viết hoa tên người và tên địa danh ...

10


- Thông qua phân môn Tập làm văn: Khi phát hiện có học sinh viết nét khuyết
bị gẫy lưng, giáo viên cần nhắc học sinh viết đúng nét khuyết (lưng nét khuyết
đứng thẳng) sau đó GV viết mẫu vào vở luyện viết cho học sinh luyện viết ở
nhà. Song song với việc làm trên mỗi khi học sinh viết bài tập Toán, bài tập
Tiếng Việt, Tự nhên và Xã hội ... giáo viên phải là người trực tiếp kiểm tra
hướng dẫn và giúp các em sửa sai ngay (nếu có)…Khi nhận xét những môn học
này, tôi thường rất khắt khe với chữ viết và cách trình bày bài viết sạch đẹp,
trình bày khoa học. Khi trả bài tôi không quên nhận xét chữ viết của các em.
Tóm lại: Rèn chữ viết thông qua các môn học là một việc làm có tính khả
thi, giáo viên cần phải phát huy. Vì, chỉ khi giáo viên tiến hành rèn chữ viết ở tất
cả các phân môn thì mới giúp cho học sinh viết đúng và viết đẹp.
4. Rèn chữ viết thông qua cách chữa bài và nhận xét của giáo viên
Mỗi giáo viên phải là một tấm gương về chữ viết cho học sinh noi theo.
Như chúng ta đã biết chữ mẫu của giáo viên là hình thức trực quan và sinh động,
hấp dẫn mẫu mực đối với học sinh trong việc rèn chữ viết, mỗi nét chữ của giáo
viên là nét mẫu cho HS noi theo nên khi viết bảng hay chấm bài, nhận xét vào
vở của học sinh phải rõ ràng, đúng và đẹp
- Đối với những em yếu tôi thường nhận xét tay đôi và chỉ ra lỗi sai yêu cầu em
đó viết lại các từ đã sửa dưới bài viết.
Ví dụ : Khi chấm bài phát hiện có học sinh viết chữ "g" bị gãy lưng giáo viên
nên dùng bút đỏ gạch chân dưới chữ học sinh viết sai và dùng bút đỏ viết lại chữ
viết đúng ở bên cạnh chữ viết sai của học sinh và khi trả bài GV nhận xét lỗi
một cách ngẵn gọn. Sau đó cho học sinh nêu cấu tạo chữ "g" (cao mấy đơn vị?
rộng mấy đơn vị? gồm mấy nét? là những nét nào?), qui trình viết chữ "g" rồi
yêu cầu học sinh đó lên bảng viết lại chữ "g" và cho học sinh về nhà viết lại chữ
đã viết sai theo đúng chữ mẫu của giáo viên
- Khi chấm nhận xét bài của học sinh giáo viên cần nhận xét nhẹ nhàng không

nên chê các em trước lớp mà động viên sự tiến bộ của các em dù chỉ là một chút.
Ví dụ: Trong lớp tôi có em Mạnh, em Khanh viết chưa đạt yêu cầu (sự tiến
bộ rất chậm) sau mỗi lần chấm vở tôi đã giúp em sửa những lỗi sai, khi trả vở
cho học sinh không nói em viết xấu, cẩu thả mà chỉ nói: em viết chữ có tiến bộ
song cần cố gắng nhiều hơn nữa để đạt loại A. Sau vài lần như vậy chữ viết của ,
em Mạnh, em Khanh đã tiến bộ rõ rệt. Do đó khi dạy giáo viên phải nhẹ nhàng
không nên gắt gỏng chê bai học sinh, mà phải gần gũi yêu thương học sinh
5. Rèn chữ viết thông qua việc tổ chức “Đôi bạn cùng tiến”
Ngoài ra, trong giờ học tôi còn tổ chức cho học sinh “ Đôi bạn giúp nhau
tiến bộ” đối với học sinh của lớp, cụ thể:
+ Những học sinh đọc viết đúng r- d- gi hoặc tr- ch… sẽ giúp đỡ bạn còn
đọc viết sai( nếu ở gần nhà nhau càng tốt)
+ Học sinh viết chữ đẹp sẽ giúp bạn còn viết sai nét, sai chính tả.
11


Để việc thực hiện có hiệu quả, giáo viên chủ động xếp học sinh ngồi gần
nhau để học sinh tự sửa khi nói, khi viết cho nhau và cả khi trò chuyện cùng
nhau hay lúc ra chơi. Xưa có câu: “Học thầy không tày học bạn” và “ Thua thầy
một vạn không bằng thua bạn một ly”. Chính vì vậy, khi giáo viên giúp học sinh
hiểu rõ điều này tronh học tập thì việc tổ chức cho học sinh cùng nhau học hỏi,
cùng nhau thi đua, rèn luyện đó là việc tốt nên làm. Sau từng tuần, từng tháng,
giáo viên tổng kết, tuyên dương từng em, từng “ đôi bạn”. Nhận xét mang tính
khuyến khích, động viên các em là chính.
Trên đây là 5 biện pháp mà tôi đã áp dụng để rèn chữ viết cho học sinh lớp
3B Trường Tiểu học Lê Văn Tám, qua vận dụng thực tế giảng dạy tôi thấy mỗi
biện pháp đều có ưu điểm riêng nhưng "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3
viết đúng, viết đẹp” là không thể thiếu được trong quá trình rèn chữ viết cho học
sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp3 nói riêng. Tuy nhiên, nếu chúng ta
quan tâm phối hợp các biện pháp với nhau một cách phù hợp thì học sinh của

chúng ta sẽ viết đúng, viết đẹp hơn.

IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sau một năm nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên đối với học sinh
lớp 3B Trường Tiểu học Lê Văn Tám (năm học 2016-2017) tôi đã nhận thấy chữ
viết của học sinh lớp tôi tiến bộ rõ rệt, số lỗi sai giảm hẳn. Những em viết chưa đẹp
và trước kia viết không đúng mẫu sai nhiều lỗi nay đã tiến bộ vở từ loại B lên loại
A như em Thắng , Duy, Ngọc Linh, Tùng, Đạt….Đa số học sinh viết
đúng chính tả, chữ viết đều nét, đúng mẫu. Nhiều em viết đẹp, chữ mềm mại,
chữ viết rõ ràng, sạch đẹp đạt tốc độ quy định.
Chữ viết của lớp tôi tiến bộ theo từng tháng: Tháng 1, tháng 2, tháng 3 năm
2017 lớp tôi luôn là lớp đạt "Vở sạch chữ đẹp" cấp trường với tỉ lệ loại A tương
đối cao so với các tháng trước.
Kết quả xếp loại “Vở sạch chữ đẹp” của lớp tôi qua từng tháng như sau:
Tổng số học sinh được kiểm tra "vở sạch chữ đẹp" hàng tháng: 37em

Tháng
9
10
11
12
1
2
3

Xếp loại A
SL
%
15
40.5

16
43.2
18
48.6
22
59.5
27
73
29
78.4
31
83.3

Xếp loại B
SL
%
22
59.5
21
56.8
19
51.4
15
40.5
10
27
8
21.6
6
16.7


12


- Đối chiếu với kết quả kiểm tra vở sạch chữ đẹp đầu năm tôi thấy: Số học sinh
có vở xếp loại A tăng:42.9%. Số học sinh có vở xếp loại B giảm: 37.4%. Từ kết
quả trên cho thấy tỷ lệ loại A được tăng lên nhiều so với đầu năm và đạt 83.3%.
Điều này chứng tỏ nếu được sự quan tâm đúng mức cùng với sự hướng dẫn
chu đáo, hợp lý của người thầy thì chất lượng học chữ viết của học sinh sẽ được
nâng lên.

13


C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua việc nghiên cứu thực hành dạy - học tôi đã rút ra : "Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 3 viết đúng, viết đẹp” như sau:
- Giáo viên phải nắm vững nội dung, phương pháp dạy học môn chính tả và
nắm vững các nét chữ, mẫu chữ theo Quyết định số 31/2002/QĐ - BGD&ĐT
ngày 14/6/2002.
- Chữ viết của giáo viên phải đúng mẫu. Giáo viên phải nhiệt tình, kiên trì, hết
lòng thương yêu học sinh. Luôn động viên và khuyến khích các em dù bài viết
còn chưa đẹp. Luôn rèn cho học sinh cách viết đúng, viết đẹp qua qua từng tiết
dạy, từng môn học.
- Phòng học phải thoáng và có đủ ánh sáng, bàn ghế đúng quy cách.
- Rèn chữ viết phải tiến hành thường xuyên liên tục và đồng bộ ở tất cả các
môn học, ở lớp cũng như ở nhà.
- Tích luỹ sưu tầm những mẫu chữ đẹp, có sáng tạo để làm tư liệu dạy học.
Làm đồ dùng dạy học phải hợp lí, khơi dạy cho học sinh thích thú, tò mò để phát

triển tư duy cho các em.
- Đánh giá bài viết phải mang tính khích lệ.
- Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội .
- Mặt khác trong những lần sinh hoạt chuyên môn tôi đã mạnh dạn chia sẻ
những kinh nghiệm rèn chữ đẹp với các đồng chí trong khối, tổ và được các
đồng chí giáo viên nhiệt tình, nhiều đồng chí đã áp dụng và thấy chất lượng chữ
viết của học sinh được nâng lên
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân được rút ra trong thời
gian dạy học vừa qua. Qua bài viết này tôi mong có được sự chia sẻ cùng các
bạn đồng nghiệp. Do trình độ và năng lực có hạn, chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi rất mong có được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của Hội đồng
khoa học các cấp và các bạn đồng nghiệp để chuyên môn của tôi ngày càng
hoàn thiện hơn.

2. Kiến nghị, đề xuất
2.1. Đối với nhà trường
- Mỗi năm tổ chức các hội thi viết chữ đẹp để tuyên dương và vinh danh
những học sinh viết chữ đẹp
- Cần tổ chức các cuộc thi trong các buổi ngoại khóa dưới những hình thức
khác nhau để rèn cho học sinh các kĩ năng: nghe- đọc- nói- viết…
- Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất đúng chuẩn phù hợp với học sinh để
nâng cao chất lượng viết chữ đẹp.
14


2.2. Đối với phòng giáo dục
- Vấn đề viết đúng, viết đẹp Phòng GD đã chỉ đạo tới các trường nhưng để
giáo viên và học sinh thực hiện tốt, theo chúng tôi phòng giáo dục nên tổ chức
nhiều các buổi hội thảo theo cụm hoặc tập trung về biện pháp rèn chữ viết cho
giáo viên chúng tôi học tập và rút kinh nghiệm.

- Hằng năm, Phòng GD nên duy trì tổ chức cuộc thi “Nét chữ, nết người” để
tạo động cơ thúc đẩy cho các em học sinh rèn chữ thường xuyên.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
2017

Lê Văn Tám, ngày 02 tháng 3 năm
Tôi cam đoan đây là SKKN
của tôi viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

La Thị Mận

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP

.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

15




×