Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp dạy môn tập làm văn lớp 4 thể loại văn miêu tả theo hướng đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.09 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Danh mục
1.MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề dạy môn Tập làm văn lớp 4- Thể loại văn
miêu tả- Theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
2.2.Thực trạng chung về vấn đề dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 - thể
loại văn miêu tả theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
2.3. Các giải pháp dạy tập làm văn lớp 4- Thể lạo văn miêu tả theo
hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
2.3.1. Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để
từ đó tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên
lớp
2.3.2. Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu
tả ngay từ tiết đầu tiên của thể loại bài này.
2.3.3. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử
dụng các biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần
thiết.
2.3.4.Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân
môn thuộc môn Tiếng Việt, vì vậy muốn dạy tốt phân môn tập làm văn
cần dạy tốt các phân môn Luyện từ và câu, Phân môn chính tả ,Tập đọc
2.3.5. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
2.3.6. Hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung bài v¨n: (lựa chọn và
sắp xếp ý để miêu tả)
2.3.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài:
2.3.8.Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài khi dạy tập làm văn lớp 4 -thể loại
văn miêu tả theo hướng đổi mới .


2.4. Hiệu quả của việc dạy tập làm văn lớp 4- Thể lạo văn miêu tả
theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
3.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2.Kiến nghị

Trang
2
3
3
3
4
4
7
7
8
11
11
12
14
15
16
17

19
19

1. MỞ ĐẦU

1



1.1. Lý do chọn đề tài.
Trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học, phân môn Tập làm văn đóng vai
trò quan trọng, mang tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo. Đối với
học sinh tiểu học, hoạt động chủ đạo của các em thiên về cảm tính, mỗi em có một
cách nhìn riêng về cùng một vấn đề, với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi nhỏ, học sinh
thích tìm tòi, học hỏi, khám phá cái mới trong nhận thức và trong cuộc sống xã hội.
Môn tập làm văn là một môn học chính trong chương trình lớp 4. Nhằm hình
thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt: Nghe, nói, đọc, viết
để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, thông qua việc
dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác của tư duy .
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ
giản về xã hội, tự nhiên, con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài.
Học Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu cần
thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của
xã hội. Cùng với môn Toán và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng
Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu,
nghiên cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người. Trong
đó phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân
môn thuộc môn Tiếng Việt (tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện). Chính vì
thế, việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề luôn cần có sự đổi mới. Không thể cứ
áp dụng mãi phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau. Chính vì vậy, bản
thân tôi năm học 2017- 2018 do nhà trường thiếu giáo viên tôi đảm nhận dạy lớp
4A, đón nhận chương trình đưa kỹ năng sống vào môn tập làm văn, môn đạo đức,
khoa học, nên bản thân cần phải nỗ lực phấn đấu đảm nhiệm chức trách của mình
đối với học sinh .
Ngay khi nhận lớp mới ở năm học 2017 – 2018, tôi thấy đa số học sinh viết
câu sai ngữ pháp, dùng từ chưa phù hợp với hoàn cảnh và đặc biệt là viết thiếu ý,
ngại phát biểu trong giờ học, dẫn đến chất lượng học tập phân môn Tập làm văn

chưa cao. Cho nên, việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học Tập làm văn theo
hướng phát huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh vào quá trình
học tập, tự học và thực hành sẽ góp phần giúp học sinh có thể mạnh dạn trước đám
đông, trình bày to, rõ, mạch lạc bằng lời lẽ tự nhiên, dễ hiểu trong bài văn do chính
mình làm. Vì vậy, việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng trên là
hết sức cấp thiết.
Tuy nhiên, dạy Tập làm văn như thế nào để phù hợp với trình độ học sinh lớp 4.
Điều đó khiến tôi tìm tòi, suy nghĩ trong năm học qua. Trong phạm vi đề tài này tôi
xin được trình bày: “ Một số biện pháp dạy môn Tập làm văn lớp 4 - thể loại
văn miêu tả theo hướng đổi mới ”. Hy vọng rằng, đề tài này sẽ giúp chúng ta tìm

2


ra được giải pháp tốt để thực hiện nâng cao chất lượng dạy học Tập làm văn lớp 4
như mong muốn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở điều tra thực trạng về chất lượng dạy và học phân môn tập làm văn lớp
4, từ đó đề xuất một số biện pháp giúp học sinh học tốt hơn phân môn tập làm văn
trong trường Tiểu học .
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Đông Tân
- Nội dung: Xây dựng và triển khai một số biện pháp nhằm dạy tốt phân
môn tập làm văn lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Đọc, phân tích các tài liệu có liên quan đến phương pháp dạy tập làm văn cho
học sinh lớp 4.
- Phương pháp điều tra chất lượng học tập phân môn tập làm văn của học sinh
lớp 4 trong nhà trường.
- Phương pháp đàm thoại.

- Phương pháp quan sát hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh trên lớp.
- Phương pháp thực nghiệm. Phương pháp thống kê toán học.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề dạy môn Tập làm văn lớp 4- Thể loại văn miêu
tả- Theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp
từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc sống
thực tiễn.
Việc đổi mới phương pháp dạy môn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả ở lớp 4
Cho chúng ta thấy trong việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là một sự sáng
tạo. Với các phân môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới nội dung và phương
pháp dạy học chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng. Còn với phân
môn Tập làm văn, các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung nhất cho mỗi loại
bài, chủ yếu vẫn là sự sáng tạo của giáo viên khi lên lớp. Còn việc học thì sao?
Ngoài sách giáo khoa Tiếng Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách tham khảo cho
học sinh, giúp cho học sinh có cái nhìn đa dang, phong phú hơn. Song những cuốn
sách tham khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn
chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao
chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm thụ, cách nghĩ của các
em không phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Từ những lý do
khách quan và chủ quan trên để khắc phục những hạn chế trong việc dạy Tập làm
văn ở Tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, tôi đã

3


chọn nghiên cứu dề tài: "Một số biện pháp dạy môn Tập làm văn lớp 4 - Thể loại
văn miêu tả theo hướng đổi mới ".

Tóm lại: Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích
cực, sáng tạo, chủ động trong học tập; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn
bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để
hỗ trợ cho việc dạy tập làm văn được tốt.
2.2.Thực trạng chung về vấn đề dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 - thể loại
văn miêu tả theo hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
Năm học 2017-2018 toàn trường có 497 học sinh, được chia thành 16 lớp, khối 1
có bốn lớp. Nhìn chung các em đều là con em nông thôn, gia đình có hoàn cảnh
khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa các em phải ở nhà với ông bà. Bởi vậy sự quan tâm
đến việc học hành của các em chưa sát sao. Khả năng tiếp thu bài của các em còn
nhiều hạn chế. Song với môn Tập làm văn , chương trình mới được đưa ra quá trừu
tượng, khó đối với học sinh nói chung, học sinh trường Tiểu học Đông Tân nói
riêng. Bởi môn học này mang tính tổng hợp kiến thức giữa tất cả các môn. Tập đọc,
Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn. Các phân môn này đều có
tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt là để học tốt phân môn Tập làm văn cần có sự hỗ
trợ tích cực của tất cả các phân môn khác nó đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư
duy, sáng tạo và khả năng diễn đạt trước lớp mới học tốt môn học này ..
Mặt khác, môn Tập làm văn lớp 4 có nhiều thể loại. Mỗi thể loại bài là một
mạch kiến thức khác nhau mà việc tiếp thu bài của học sinh còn hạn chế, ít động
não, sử dụng câu chưa phù hợp, vốn từ nghèo, ít đọc sách nên việc viết văn đối với
học sinh là rất khó, bài viết khô khan.
a, Thực trạng đối với giáo viên :
+ Thuận lợi
- 100% đội ngũ giáo viên trong nhà trường có trình độ chuyên môn trên chuẩn,
gi¸o viªn ®· tÝch lòy ®îc nhiÒu kinh nghiÖm qua nhiÒu n¨m giảng dạy.
- Sự chỉ đạo chuyên môn của phòng giáo dục, chuyên môn nhà trường có vai trò
tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, chuyên đề đã có nhiều giáo viên thành công
khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo... giáo viên tiếp

cận với phương pháp đổi mới khi dạy Tập làm văn thường xuyên hơn.
+ Khó khăn
Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần phải có vốn sống thực tế, người
giáo viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc

4


tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn
bản, ngôn ngữ quả không dễ.
b, Thực trạng đối với học sinh:
+ Thuận lợi
- Môn tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung
phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học
hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học chương trình tiếng việt từ lớp 1, đặc biệt là các em ở
lớp 2, lớp 3 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở
giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 4 - thể loại văn miêu tả
+ Khó khăn - Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng
mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành
độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo
trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu,
sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần

lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình
- Chương trình phân môn tập làm văn lớp 4 hiện đang học thể loại bài miêu tả,
nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn miêu tả nhưng bài làm của
các em còn viết theo một khối mòn khuôn sáo, kém hấp dẫn, ít cảm xúc và nghèo
hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện pháp tu từ, các biện pháp
nghệ thuật như so sánh, nhân hóa….
Tóm lại: Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn luyện từ và câu
nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi trên, kết hợp với
việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo nàn nên bài văn
miêu tả của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành một
bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, tôi tiến hành khảo sát chất lượng môn Tập
làm văn lớp 4 vào tháng 9 tuần 3 (năm học 2017 - 2018)
Đề bài : Tuổi thơ ai cũng có những đồ chơi yêu thích đã từng gắn bó với mình như
một người bạn : Một bộ xếp hình nhiều màu sắc, một chiếc ô tô có dây cót, một chú
thỏ nhồi bông dễ thương , một cô búp bê biết khóc ....Em hãy tả lại một trong
những đồ chơi đó .
Kết quả cụ thể như sau:

5


Lớp

Số học
sinh

4A

32


Hoàn thành tốt
SL
TL%
2

6.4%

Hoàn thành
SL
TL%
17

53 %

Chưa hoàn thành
SL
TL%
13

40.6 %

Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn
từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài viết của các em
chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng, học sinh quan sát đồ vật khi tả
không theo một trình tự hợp lý, chưa biết tìm ra những đặc điểm riêng để phân biệt
đồ vật này với đồ vật kia. Tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành còn nhiều. Kết quả này
cũng thể hiện phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích
cực của học sinh trong giờ học. Từ kết quả khảo sát như vậy, sau đây tôi xin đưa ra
một số giải pháp dạy môn Tập làm văn lớp 4 - thể loại văn miêu tả theo hướng đổi

mới
2.3. Các giải pháp dạy tập làm văn lớp 4- Thể lạo văn miêu tả theo hướng đổi
mới ở Trường Tiểu học Đông Tân
2.3.1- Người giáo viên phải nắm chắc đặc điểm tâm lý của học sinh để từ đó
tìm ra hướng đi đúng, tìm ra những phương pháp phù hợp khi lên lớp
Chúng ta đã biết, tâm lý chung của học sinh Tiểu học là luôn muốn khám phá,
tìm hiểu những điều mới mẻ. Từ đó hình thành và rèn luyện cho các em quan sát,
cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan
sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có
cách cảm, cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả.ở tuổi học sinh Tiểu học từ hình thức đến
tâm hồn, mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Do đó những tri thức để
các em tiếp thu được phải được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Trí tưởng
tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy
nhiêu.
Văn miêu tả là loại văn thuộc phong cách nghệ thuật đòi hỏi viết bài phải giàu
cảm xúc, tạo nên cái " hồn" chất văn của bài làm. Muốn vậy giáo viên phải luôn
luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ
xúc động và luôn hướng tới cái thiện.
Đối với loại bài này, tôi dặn dò học sinh về nhà quan sát các đồ vật, con vật
gần gũi mà các em thường thấy ở xung quanh. Vào lớp, tôi cho học sinh thi đua cá
nhân, nhóm tìm nhanh các đồ vật có thể tả. Sau đó gợi ý cho các em cách lập dàn ý
một đoạn, một bài hoàn chỉnh và yêu cầu mỗi em phải tự làm việc, tự quan sát, tự
ghi chép khi quan sát một đồ vật, một con vật và có nhiệm vụ giúp các em hệ thống
lại các ý đã quan sát để lập thành dàn bài chi tiết đạt yêu cầu, có hệ thống.
Trong các tiết Tập làm văn, tôi dành thời gian cho học sinh làm bài nhiều . Đối
với các em học sinh yếu, tôi cho các em trình bày phần mở bài và kết luận. Thường

6



thì học sinh yếu tôi gọi trong lúc này là để các em có thể trình bày ngắn gọn các ý
khi sai sót, ngoài những nụ cười cởi mở giáo viên chỉ nên nhẹ nhàng sửa sai và
động viên cho các em này.
Ở phần thân bài, tôi thường phân nhóm 4 cho các em thảo luận theo dàn ý chi
tiết, các em nối tiếp, hỗ trợ nhau thực hiện:
+ Phần bao quát (01 em).
+ Phần chi tiết (02 em).
+ Hoạt động liên quan (01 em).
Ví dụ 1: Kiểu bài tả về đồ vật: “Tả chiếc cặp sách”.
Yêu cầu thảo luận phần thân bài sau đây:
+ HS1: Tả bao quát, kích thước, màu sắc, chất liệu của cặp ?
+ HS2: Tả bên ngoài cặp gồm: mặt cặp, nắp cặp, quai đeo, ổ khóa.
+ HS3: Tả bên trong cặp có mấy ngăn ? Mỗi ngăn đựng gì ?
+ HS4: Nêu ích lợi chiếc cặp ?
Sau khi thảo luận xong đại diện các nhóm học sinh trình bày:
+ HS1: Cặp hình chữ nhật, làm bằng vải giả da. Dài hơn hai gang tay của em,
rộng khoảng một gang rưỡi. Cặp có nhiều màu rất đẹp.
+ HS2: Ở phía trên cặp có quai xách thật êm tay. Sau lưng là hai quai đeo.
Hai ổ khóa bằng sắt, mỗi khi đóng hoặc mở nghe “tách, tách” rất vui tai. Ngoài mặt
cặp có in hình chú chó đốm rất đẹp.
+ HS3: Phía bên trong có ba ngăn. Ngăn lớn đựng sách, ngăn thứ hai đựng
bảng con, đồ dùng khác …, ngăn thứ ba nhỏ nhất đựng bút, thước, và các đồ dùng
như: áo đi mưa, chai nước, …
+ HS4: Chiếc cặp giúp em đựng sách vở không bị rơi rớt và không bị mưa
ướt.
2.3.2.Cần giúp học sinh hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của văn miêu tả ngay
từ tiết đầu tiên của thể loại bài này.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối tượng
nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép,
chụp ảnh lại những sự vật hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận

xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái
riêng biệt của mỗi người.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với cái
chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo
của người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết "bịa" một

7


cỏch tựy ý. t hay, t ỳng thỡ phi t chõn tht, giỏo viờn cn un nn hc
sinh trỏnh thỏi gi to, gi di, bnh cụng thc sỏo rng, thúi gi trc tui. Mt
khỏc giỏo viờn cn giỳp cỏc em nm c: trong vn miờu t, ngụn ng s dng
phi l ngụn ng giu hỡnh nh, giu cm xỳc, giu nhp iu õm thanh, õy l mt
trong nhng miờu t trong sinh hc, a lý v cỏc th loi vn khỏc.
T vic hiu rừ c im ca th loi vn miờu t, hiu rừ con ng mỡnh cn
i v ớch mỡnh cn ti, chc chn hc sinh s thn trng hn khi chn lc t ng,
s gt gia k hn tng li, tng ý trong bi vn v nh vy cht lng bi lm ca
cỏc em s tt hn Mt khỏc hc sinh cn phi thc hin yờu cu sau :
* m bo yờu cu quan sỏt i tng miờu t:
- Quan sát tổng thể đối tợng; chú ý ở cả trạng thái động và tĩnh; quan
sát bằng tất cả các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác, cảm giác ...
- Nu t cnh: cn quan sỏt t m tng phn (b phn) ca cnh theo trỡnh t hp
lớ (Vớ d: T ngoi vo trong, t b phn ch yu n cỏc b phn th yu), hoc
s thay i ca cnh theo thi gian (vớ d: sỏng, tra, chiu ti).
a. T theo trỡnh t khụng gian
T quan sỏt ton b n quan sỏt tng b phn hoc ngc li. T t xa n gn,
t trờn xung di, t ngoi vo trong, t trỏi qua phihoc ngc li. Trỡnh t
ny thng c vn dng khi miờu t loi vt, cnh vt, vt, cõy ci núi chung.
T t di lờn trờn:
- Vớ d Cõy hi thng, cao, trũn xoe. Cnh hi giũn, d góy hn c cnh

kh. Qu hi phi mỡnh xoố trờn mt lỏ u cnh.
( Rng hi x Lng, Tụ Hoi )
Tỏc gi quan sỏt v t rt tinh t v cõy hi, ri qu hi v cui cựng l lỏ hi
theo trỡnh t di lờn trờn. Dựng li miờu t tnh vi nhng tớnh t ( thng, cao,
trũn xoe, giũn, d góy), dựng cỏch núi nhõn hoỏ qu si phi mỡnh lm cho s
miờu t thờm gn gi, sinh ng.
T t ngoi vo trong
- Vớ d: Cỏi vnh, cỏi ỏo u lm bng nan tre. Hai cỏi tai nú bng tre gi mu
nõu. Mi tai cú mt cỏi l trũn xoe. Lỳc no, tai cựng tnh tỏo nghe ngúng. Ci
cú hai hm rng bng g d. U gi l dm. Rng cú nhiu, ken vo nhau.
( Cỏi ci tõn, Ting Vit 4 tp 1)
T t xa n gn.

8


Ví dụ: “…Tôi vội ra khoang trước nhìn. Xa xa từ vệt rừng đen, chim cất
cánh tua tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ trong lòng đất chui ra, bò li ti đen ngòm
trên da trời. Càng đến gần, những đàn chim bay đen kít trời …Mỗi lúc tôi càng
nghe tiếng chim kêu náo động như tiếng xúc những rổ đồng tiền…”
( Trích Đất rừng Phương Nam , Đoàn
Giỏi )
b. Tả theo trình tự thời gian.
Quan sát diễn biến của thời gian từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, từ mùa này
sang mùa khác, từ tháng này sang tháng khác… Cái gì xảy ra trước ( có trước) thì
miêu tả trước, cái gì xảy ra sau ( có sau ) thì tả sau. Trình tự này thường được vận
dụng trong bài văn tả cảnh vật, hiện tượng tự nhiên ( tả cảnh ) hay tả cảnh sinh hoạt
của người.
Ví dụ: “… Buổi chiều, xe dừng lại một thị trấn nhỏ, Nắng phố huyện vàng
hoe. Những em bé Hmông, những em bé Tu Dí, Phù Lá cổ đeo móng hổ, quần áo

sặc sỡ đang chơi đùa trước cửa hàng. Hoàng hôn, áp phiên của phiên chợ thị trấn,
người ngựa dập dìu chìm trong sương núi tím nhạt…”
( Đường đi Sa Pa, Nguyễn Phan Hách, TV4, tập
2)
c. Tả theo trình tự tâm lý:
Thấy đặc điểm gì nổi bật, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân (
buồn, vui, yêu, ghét…) thì tập trung quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác quan
sát sau, tả sau…
Trình tự này thường được vận dụng khi tả đồ vật, tả loài vật, tả người. chỉ
cần miêu tả những điểm nổi bật nhất, không nhất thiết phải tả đầy đủ, chi tiết, như
nhau tất cả các đặc điểm của đối tượng.
Ví dụ: “Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc
biệt, mùi thơm đậm, bay rất xa… Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm… Hoa đậu từng
chùm, màu trắng ngà… Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về dáng cây kì lạ
này. Thân nó khẳng khiu, cao vút, cành ngay thẳng đuột…”.
( Sầu riêng, Mai Văn Thọ, TV4, tập 2)
Chú ý phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng được tả với đối
tượng khác cùng loại. Tuy vậy trong quá trình hướng dẫn các em quan sát, giáo
viên phải đồng thời khéo léo gợi mở để các em huy động vốn sống, khả năng tưởng
tượng và cảm xúc để giúp cho việc quan sát được tốt hơn.
Muốn làm văn miêu tả trước hết các em phải biết có cái gì để viết, để tả. Muốn
tả đúng, tả hay phải quan sát. Giáo viên phải hướng dẫn các em tập quan sát, cách
quan sát để tìm ra cái mới cái riêng. Quan sát để thấy được màu sắc khác nhau,
hương vị khác nhau, đặc điểm, tính chất khác nhau. Từ đó có những sáng tạo độc
đáo, không giống nhau mà chân thật.
Ví dụ: - Quan sát ánh trăng: Khi vui em thấy trăng cười, mời gọi hay nô đùa
với em. Khi buồn, em lại thấy trăng trầm tư lặng lẽ, muốn chia sẻ.


9



- Quan sát gió: Khi gió thổi nhẹ có em thấy vuốt ve, vỗ về miên man
trên da thịt, có em lại thấy gió thầm thì trò chuyện, gió hát ru...
- Quan sát cơn mưa mùa hạ: Có em thấy mây dày đặc hơn, quánh lại với
nhau và như hạ thấp xuống. Rồi đột nhiên: rào, rào...Mưa đổ xuống xối xả. Có em
thấy mây phía đông ùn ùn kéo đến. Hạt mưa bắt đầu rơi, những giọt nước mưa thật
to lộp bộp rơi xuống mái nhà. Có em thấy mưa tuôn rào rào, xối xả trên mái nhà
mặt đường, muôn nghìn hạt mưa đổ xuống .
Trong quan sát, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát sự vật ở nhiều thời
điểm, hoàn cảnh, trạng thái, nhiều hoạt động khác nhau để tìm ra cái riêng, cái mới
trong văn miêu tả .
Ví dụ : Quan sát con vật :
Quan sát con mèo ngủ, sưởi nắng, bắt chuột, rình mồi, khi leo cây, để thấy
được những nét khác nhau từ ánh mắt, bước đi, cách vẫy đuôi, tiếng kêu...của nó,
cụ thể hơn nữa bình thường con mèo kêu meo meo nhưng khi đánh nhau, khi vồ
chuột và cả khi sợ nó lại kêu ngao ... gừ... Mèo ngủ cũng có nhiều cách ngủ, khi thì
cắm đầu xuống giấu trong hai chân trước, khi lại ngửa mặt, vênh râu lên. Trời
nóng, lạnh, khi ốm, khoẻ mèo có những chỗ ngủ, cách nằm ngủ khác nhau.
2.3.3. Cung cấp vốn từ và giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu, sử dụng các
biện pháp và giải pháp nghệ thuật khi miêu tả là hết sức cần thiết.
Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ
phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp, Chính vì vậy
giáo viên cần chú ý cung cấp vốn từ cho các em khi dạy tập đọc, luyện từ và câu và
cả trong khi dạy các môn khác hay trong những buổi nói chuyện trong các tiết sinh
hoạt. Hướng dẫn các em lập sổ tay văn học theo các chủ đề, chủ điểm, khi có một
từ hay, một câu văn hay các em ghi vào sổ tay theo từng chủ điểm và khi làm văn
có thể sử dụng một cách dễ dàng.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu
học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp

so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay
những từ biểu lộ tình cảm.
* Khi làm một bài văn miêu tả về con mèo chúng ta cần miêu tả:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc.
Giáo viên hỏi: Em nào nhận xét cách đặt câu của bạn? Học sinh có thể nhận xét:
bạn đã sử dụng biện pháp so sánh để so sánh cái đuôi mèo như một cái măng ngọc.
Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm đôi tìm câu khác để miêu tả cái đuôi của
chú mèo sao cho sinh động hơn:
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu nhìn và
nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên.
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon
dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu.

10


Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo
nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi
tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa
sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
2.3.4. Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp tất cả những phân môn
thuộc môn Tiếng Việt, vì vậy muốn dạy tốt phân môn tập làm văn cần dạy tốt
các phân môn Luyện từ và câu, Phân môn chính tả, Tập đọc
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp thức giữa các phân môn
trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, luyện từ và câu, tập viết
để giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan
hệ này thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn
theo chủ đề, chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điẻm ở tất các các phân
môn. Ví dụ: Khi dạy phân môn Luyện từ và câu
- Học về câu kể Ai là gì ? học sinh hiểu tác dụng, cấu tạo của kiểu câu này, biết

nhận ra nó trong đoạn văn và từ đó học sinh biết đặt câu kể Ai là gì ? để giới thiệu
hoặc nêu nhận định về một con người, một vật:
Chích bông là con chim rất đáng yêu.
Hoa đào, hoa mai là bạn của mùa xuân.
Sầu riêng là loại trái quý của miền Nam.
- Nội dung của bài văn có hấp dẫn, có lôi cuốn được người đọc hay không một
phần phụ thuộc vào hình thức biểu hiện bên ngoài của nó, đó chính là chữ viết. Vì
vậy muốn có bài văn hấp dẫn thì giáo viên chú ý rèn kỹ năng viết cho học sinh
trong các giờ chính tả. Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và
trình bày rõ ràng, sạch sẽ.
- Nếu như tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng viết
cho học sinh thì phân môn kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ năng
sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm,
giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập
cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện.
Ví dụ: Tuần 15: Chủ điểm “ Tiếng sáo diều”
Tập đọc: Bài Cánh diều tuổi thơ - Tiếng việt 4 - Tập 1 –Trang 146
Tác giả đã miêu tả cánh diều bằng nhiều giác quan. Mắt nhìn cánh diều mềm
mại như cánh bướm; Tai nghe tiếng sáo diều vi vu....
Chính tả: Tiếng việt 4 - Tập 1-Trang 147
Bài tập 3: Miêu tả một trong các đồ chơi hoặc trò chơi nói ở bài tập 2 Bài
tập này học sinh có thể miêu tả chiếc ô tô; tàu hoả, chong chóng ....
Kể chuyện : Kể chuyện đã nghe đã đọc- Tiếng việt 4- Tập 1-Trang 148
Bài tập 1: Hãy kể một câu chuyện mà em đã được đọc hay được nghe có nhân vật
là những đồ chơi của trẻ em

11


Với đề bài này học sinh có thể kể những câu chuyện như “ Chú lính chì dũng cảmAn-đéc –xen” ; “ Chú đất nung - Nguyễn Kiên ....”

Tóm lại các phân môn của Tiếng Việt tuy mỗi phân môn có nội dung riêng,
phương pháp riêng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau mà luôn bổ
sung cho nhau, kiến thức của phân môn này hỗ trợ cho việc học những phân môn
khác. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân
môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân môn còn lại.
2.3.5. Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu
hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà
người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn văn
mở bài và kết bài là rất cần thiết.
a. Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực
tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo cách
nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả
năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ một vấn đề mình cần nói
tới, có thể bắt đầu bằng những câu thơ, những câu hát,…nhưng phải bám sát vào
yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, không rườm ra. Giáo viên có thể cho học
sinh làm việc nhóm đôi hoặc cá nhân tự nêu cách vào bài của mình, sau đó cho các
bạn nhận xét.
Chẳng hạn với bài tả con mèo, một học sinh mở bài:’’Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ
mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay
đã được bốn tháng.”
- Giáo viên nêu câu hỏi: Đây là cách vào bài nào?( trực tiếp)
- Giáo viên nêu yêu cầu để học sinh nêu cách mở bài khác sinh động hơn:” Nhà
em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác
cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu
nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em.”
Hay với đề bài miêu tả cây đa cổ thụ nơi làng quê, học sinh mở bài như sau:
“ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng trăm năm tuổi. Cả làng gọi
đó là cây đa ông Đài , vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông Đài là ai, sống
và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả.”

Học sinh khác lại viết: “Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải qua
một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã nhìn thấy
làng quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa về,
em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay vẫy chào, đón đợi.”
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở
bài một cách hợp lý nhất.
b. Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại
rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người

12


vit vi i tng miờu t. Thc t cho thy hc sinh thng hay lit kờ cm xỳc
ca mỡnh lm phn kt lun khụ cng, gũ bú, thiu tớnh chõn thc. Ch yu cỏc
em thng lm kt bi khụng m rng, kt bi nh vy khụng sai nhng cha
hay, cha hp dn ngi c. Vỡ vy ũi hi ngi giỏo viờn phi gi ý hc
sinh bit cỏch lm phn kt bi cú m rng bng cm xỳc ca mỡnh mt cỏch t
nhiờn thụng qua nhng cõu hi m, sau ú cho cỏc em nhn xột, sa sai v cht
lc cú c nhng kt bi hay.
Vớ d : Cõy go cú th sng n nghỡn nm. Nú l nhõn chng thm lng ca
dũng i. Cụ giỏo em núi th. i hc v, ng trờn bờn ũ, hoc i xa v, ngm
nhỡn ba cõy go, em thy lũng bn chn xụn xao. Cõy go l hn quờ, l tỡnh quờ
vi y.
Vn chng khụng phi l s ỳng, sai vi lm vn ỳng thụi cha phi
thm m cm xỳc ca ngi vit. Song tỡnh cm khụng phi th gũ ộp bt buc,
tỡnh cm y phi chõn thc, hn nhiờn, xut phỏt t chớnh tõm hn cỏc em. Bi vn
khụng th hay nu thiu cm xỳc ca ngi vit, cm xỳc khụng ch bc l phn
kt bi m cũn th hin tng cõu, tng on ca bi. Vỡ vy giỏo viờn cn chỳ ý
rốn cho hc sinh cỏch bc l cm xỳc trong bi vn mt cỏch thng xuyờn liờn
tc, t tit u tiờn ca mi loi bi n nhng tit luyn tp xõy dng on vn,

tit vit bi v ngay trong tit tr bi na.
2.3. 6. Hng dn hc sinh xõy dng ni dung bi văn :( la chn v sp xp ý
miờu t)
Ni dung bi y , phong phỳ l yờu cu khụng th thiu c ca mt bi
tp lm vn tt. Vi yờu cu ny ta cn tin hnh qua cỏc bc: tỡm ý, lp dn bi
chi tiết theo b cc 3 phn (m bi, thõn bi, kt bi). cỏc t ng ni liờn kt
cõu cht ch, trụi chy. Từ ngữ miêu tả phải thích hợp, câu văn có hình ảnh,
biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá để bài văn hay hơn.
- Khi lm bi vit, yờu cu hc sinh : c k, hiu yờu cu ca bi.
+ Phõn tớch : thuc th loi vn gỡ ? Ni dung miờu t ai ? Con gỡ ? Vt
gỡ ? Cnh õu ? T vo lỳc no ? b phn no ?
- Bit da vo dn ý ó xõy dng, cỏc on vn ó vit tit trc vit
thnh mt bi vn hon chnh
Sau ú, hc sinh bỏm sỏt yờu cu ca bi, huy ng vn thc t (m cỏc
em ó c hng dn quan sỏt qua khõu chun b) la chn c nhng nột
ni bt ca i tng miờu t rừ rng, y .
Sau khi ó thng kờ ton b ý ó tỡm c lờn v nhỏp, giỏo viờn cn hng
dn hc sinh chn lc ý theo h thng cõu hi : Theo em, nhng ý trờn ý no khụng
quan trng cn lc b? ý no cn t lt qua bng vi cõu? Cũn ý no cn tp
trung t k, sõu hn? Ti sao li khụng t ht ton b t mt s cnh v t k nh
vy nhm mc ớch gỡ?

13


a. Phần mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật)
bằng cách trực tiếp hay gián tiếp.
Trong bài tập làm văn phần mở bài là phần gây ấn tượng đầu tiên cho người
đọc. Các em có thể vào bài bằng một câu hay một đoạn nhưng cần phải bám sát vào
nội dung yêu cầu đã được xác định. Dựa vào mở bài của mỗi em mà giáo viên góp

ý , không gò bó, không áp đặt. VD: Khi tả con vật, các em có thể vào bài: “ Đã lâu
em được bố mẹ cho về quê chơi. Qua khỏi cổng làng, em bước thơ thẩn trên con
đường nhỏ dẫn tới đầm sen. ở một góc đầm trống, một đàn vịt bầu đang lặn hụp
kiếm mồi. Từ đó giúp các em viết được bài văn tốt mang tính nghệ thuật cao.
b. Phần thân bài: Ở phần này tôi cho học sinh phát triển theo nhiều ý khác nhau.
-Tả đồ vật : Ví dụ: Đề bài: “ Tả một đồ chơi mà em thích”. Tôi cho các em làm
theo các gợi ý sau:
- Muốn miêu tả đồ vật, trước hết phải quan sát đồ vật đó là đồ vật gì? ( búp bê,
gấu bông, con quay, cái chong chóng,..)
- Quan sát theo một trình tự hợp lí.
+ Nhìn bao quát:
+ Quan sát từng bộ phận ( bên ngoài/ bên trong, bên trên/ bên dưới, đầu/ mình/
chân tay,..)
- Nên quan sát bằng nhiều giác quan.
+ Dùng mắt để xem hình dáng, kích thước, màu sắc,...của đồ vật như thế nào.
+ Dùng tay để biết đồ vật mềm hay rắn, nhẵn nhụi hay thô ráp, nặng hay nhe.,...
+ Dùng tai để nghe đồ vật khi được sử dụng có phát ra tiếng động không, tiếng
động ấy như thế nào.
- Cố gắng tìm ra những đặc điểm riêng của đồ vật, phân biệt nó với những đồ vật
khác, nhất là những đồ vật cùng loại.
- Tả cây cối: Từ gợi ý của các bài văn mẫu, biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn trái
quen thuộc theo hai cách đẫ học: Tả lần lượt từng bộ phận của cây hoặc tả lần lượt
từng thời kì phát triển của cây.
c. Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ, ấn tượng về đối tượng miêu tả theo
kiểu mở rộng hoặc không mở rộng.
Có nhiều cách kết bài khác nhau cho một bài văn miêu tả nhưng đều phải xuất
phát từ nội dung chính mà các em vừa khai thác được ở phần thân bài. Để thực hiện
tốt điều này chúng ta có thể gợi mở:
2.3.7. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài:
Tất cả những công việc, từ những việc làm thông thường hàng ngày đến việc

nghiêm túc đều thực hiện theo một chu trình nhất định, bắt đầu từ việc lập kế hoạch
đến việc triển khai thực hiện kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại
những việc đã làm so với kế hoạch đó và cuối cùng là khâu kiểm tra đánh giá lại

14


những việc đã làm so với kết quả bỏ qua bất cứ khâu nào trong các khâu trên, nhất
là các khâu kiểm tra, đánh giá: có kiểm tra đánh giá thì mới có thể biết được những
ưu, khuyết điểm trong công việc đã thực hiện, để điều chỉnh cho những việc tiếp
theo.
Dạy tập làm văn cũng không nằm ngoài chu trình chung đó. Mỗi loại bài thường
dành một tiết kiểm tra để học sinh thực hành viết văn, quá trình thực hành ấy cần
được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm thật cẩn thận, nghiêm túc thì mới có tác
dụng rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả
bài chính là thực hiện khâu cuối cùng "kiểm tra, đánh giá "nhằm mục đích giúp học
sinh hiểu được những nhận xét chung của giáo viên và kết quả bài viết của cả lớp
để liên hệ với bài làm của mình giúp học sinh biết sửa lỗi dùng từ, ngữ pháp, diễn
đạt, chính tả, bố cục bài của mình và của các bạn, từ đó học sinh có thể học hỏi
những câu văn, đoạn văn hay của bạn. Với mục đích như vậy thì tiết trả bài không
thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Trong tiết trả bài, ngoài việc tiến hành các trình tự như trong sách bài soạn đã
hướng dẫn, giáo viên cần thay đổi hình thức hoạt động để học sinh đỡ nhàm chán.
Sau phần giáo viên nhận xét chung, giáo viên cần chữa lỗi cho học sinh theo từng
loại lỗi thống kê khi chấm bài và nêu các câu văn, đoạn văn hay đã chuẩn bị trước.
Sau đó, giáo viên trả bài và có thể tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm bàn để
các em trao đổi với bạn về cách làm bài của mình, đọc cho nhau nghe các câu hoặc
giúp nhau sửa lỗi trong bài làm. Từ đó học sinh sẽ thấy rõ ưu, nhược điểm trong bài
làm của mình, của bạn và biết tự sửa chữa hoặc viết lại đoạn văn của mình cho đạt
yêu cầu. Sau những trao đổi như vậy cũng sẽ giúp học sinh tránh được những lỗi

không đáng có trong thực hành viết văn và trong cả giao tiếp hàng ngày.
2.3.8. Chuẩn bị chu đáo kế hoạch bài khi dạy tập làm văn lớp 4 -thể loại văn
miêu tả theo hướng đổi mới .
Trong bất kỳ hoạt động nào việc chuẩn bị cũng hết sức quan trọng, chuẩn bị
cũng chính là kế hoạch cho công việc mình định làm, đó là việc làm đầu tiên, tất
yếu của mỗi hoạt động. Soạn bài là việc làm đầu tiên, tất yếu của người giáo viên,
Bài soạn chính là bản kế hoạch của giờ lên lớp, ngày nay được gọi là kế hoạch bài
học.
Để có được kế hoạch bài học cụ thể, rõ ràng có chất lượng, có tác dụng thiết
thực, đem lại hiệu quả cao, người giáo viên phải huy động tối đa tất cả năng lực,
phẩm chất của mình như năng lực hiểu biết và chế biến tài liệu, năng lực hiểu học
sinh, năng lực ngôn ngữ…lòng yêu nghề, niềm tin sự nhiệt tình và lòng đam mê
nghề nghiệp. Giáo án có chất lượng phải chuyển hoá được những kiến thức của
sách vở đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, tự nhiên tức là giáo án được thực
hiện hoá qua bài giảng trên lớp giúp học sinh hiểu bài tốt hơn.
Qua nghiên cứu thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra quy trình dạy tiết Tập làm
văn lớp 4 - thể loại văn miêu tả theo hướng đổi mới như sau :

1


5


I. Mục đích yêu cầu :
- Nêu mục đích yêu cầu của bài
học II. Đồ dùng dạy học :
- GV chuẩn bị dồ dùng dạy học phù hợp với nội dung, yêu cầu bài học
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu :
Hoạt động 1: Cũng cố kiến thức đã học ở tiết trước

Hoạt động 2: Giới thiệu nội dung bài dạy
Hoạt động 3: ( Đối với loại bài lý thuyết ) Hình thành khái niệm
- Phân tích ngữ liệu : + Học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập
+ Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập
+ Giáo viên tổng kết ý kiến và kết luận
- Ghi nhớ kiến thức: Học sinh nêu lại phần ghi nhớ trong SGK
Hoạt động 4: Hướng dẫn luyện tập
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập thực hành một số bài tập trong tiết học
nhằm củng cố kiến thức đã học
* Hoạt động nối tiếp
- Giáo viên chốt lại những kiến thức, nội dung bài học
- Nhận xét tiết học
* Đối với loại bài thực hành: Giáo viên giới thiệu bài và hướng dẫn học sinh thực
hành; củng cố tiết học
Tóm lại: Dạy như sách đã khó nhưng dạy để sách trở thành vốn tri thức phát
triển của học sinh lại càng khó hơn. Với tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm
hồn mình vào bài dạy, thầy trò phải cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một
dòng cảm xúc, cùng hoà chung tình cảm để cùng tìm hiểu về cảm nhận với niềm
say mê, thích thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước
khi lên lớp. Chuẩn bị đầy đủ về tâm thế, về nội dung, phương pháp, đồ dùng,
phương tiện dạy học, mục tiêu, ý nghĩa giáo dục, khả năng, trình độ của học sinh.
Phải tìm tòi, nghiên cứu để có được những câu hỏi gợi mở phù hợp với trình độ học
sinh, chuẩn bị cả những từ, những câu văn thích hợp để sửa sai hoặc để làm mẫu
cho học sinh. Nó đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực sáng tạo trong suốt quá trình dạy
học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn
miêu tả mới mẻ, hiệu quả cao. Nếu không có những sáng tạo mới trong dạy tập làm
văn nhất là văn miêu tả thì giờ dạy văn miêu tả chỉ là sự kiệt kê các chi tiết của đối
tượng miêu tả, giờ học sẽ gượng ép, gò bó, thiếu tâm hồn văn học.
2.4. Hiệu quả của việc dạy tập làm văn lớp 4- Thể lạo văn miêu tả theo
hướng đổi mới ở Trường Tiểu học Đông Tân

Qua quá trình nghiên cứu chuyên đề, chúng tôi đã nhận thấy vai trò và tầm
quan trọng của dạy môn Tập làm văn. Vì vậy tôi vận dụng linh hoạt ngay một số
biện pháp, hình thức dạy học theo hướng tích hợp các kiến thức liên quan với nhau

16


giữa các môn học. Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, chúng tôi đã thu
được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ
của học sinh phong phú hơn câu văn giàu hình ảnh. Sau khi áp dụng những biện
pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4A tôi ra đề bài sau :
Đề bài: Tả một con vật lần đầu tiên em thấy trên họa báo hay trên truyền
hình phim ảnh ( Tiếng việt 4 - Tiết Tập làm văn – trang 149 )
Kết quả thu được như sau:
Lớp

Số học
sinh

4A

32

Hoàn thành tốt
SL
TL%
8

25%


Hoàn thành
SL
TL%
24

75 %

Chưa hoàn thành
SL
TL%
0

0

Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu
hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
như: Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữ…bài làm sinh động, cảm xúc chân
thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu
tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài làm na ná như nhau.
Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy Tập làm văn thì kết quả
như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp trên mới chỉ được áp dụng
khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn miêu tả ở
lớp 2, 3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn rất
nhiều
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
Tập làm văn là môn học thực hành, là sản phẩm tổng hợp của các phân môn
Tiếng Việt. Qua luyện tập, thực hành học sinh được rèn luyện kỹ năng thực hành
tập làm văn, viết đoạn, bài mạch lạc, diễn đạt ý hay và ngày một nâng cao. Vì thế,
bản thân từng giáo viên phải đầu tư hơn nữa cho từng giờ dạy Tiếng Việt nói chung

và phân môn Tập làm văn nói riêng, để các em có điều kiện tham gia vào hoạt động
học tập đều đặn, có hứng thú khi vào học tiết Tập làm văn.
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện đổi mới
chương trình sách giáo khoa nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực trong công
cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc nâng cao chất lượng dạy học
là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục. Một trong
những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ giáo viên, để đáp
ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong
giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lòng nhiệt tình cho công tác thì mới
có được những kết quả như mong muốn. Với việc dạy tập làm văn, nhất là văn
miêu tả lớp 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn bởi việc dạy tập làm văn là rất

17


khó, học sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới
dừng ở mức độ "tập", nội dung chương trình lại hoàn toàn mới .Không phải ai sinh
ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương mà khả năng ấy phải được
bồi đáp dần qua năm tháng, qua trang sách và những bài giảng hàng ngày của thày
cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh thì chính mỗi giáo viên phải định
hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập như những cây non được ươm
trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun xới thì nó sẽ trở nên tươi tốt. Với học
sinh lớp 4, các em không thể vừa bắt tay vào viết văn đã có được những dòng văn
hay mà văn hay là kết quả của một quá trình rèn luyện liên tục, bền bỉ, dẻo dai. Văn
hay không thể có được ở những học trò lơi là đèn sách. Với tinh thần đó, việc rèn
kỹ năng làm văn vừa để nhằm mục đích nâng cao năng lực viết văn vừa nhằm nâng
cao ý thức tự rèn luyện của học sinh. Đó chính là động lực thúc đẩy tôi hoàn thành
bài tập nghiên cứu khoa học này.
3.2. Kiến nghị
+ PGD cần thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn

nghiệp vụ cho giáo viên
+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách
tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.
+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành
tích cao trong giảng dạy và học tập.
+ Những chuyên đề bồi dưỡng không nên mang nặng tính hình thức ,cần thực
tế phù hợp hơn
+ Thường xuyên tổ chức đánh giá việc đổi mới phương pháp dạy học để nang
cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Trên đây là một số suy nghĩ tìm tòi của tôi trong quá trình dạy học sinh thực hành
tập làm văn. Do không có nhiều thời gian nghiên cứu, và trình độ, kinh nghiệm có
hạn nên những vấn đề nêu trên không khỏi những sai sót.
Tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp để tôi
rút kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình dạy học ngày một tốt hơn.
Đông Tân, ngày 19 tháng 3 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của tôi viết, không sao chép nội
dung của người khác.

Người viết

18


19




×