Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo tổ chứcdạy học theo mô hình VNEN ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.81 KB, 15 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài
Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) được Bộ Giáo dục & Đào tạo
đưa vào thí điểm trên diện rộng từ năm học 2012 - 2013 tại 1.447 trường Tiểu học
trên cả nước đối với khối lớp 2,3. Năm học 2014 - 2015 tiếp tục thực hiện đối với
lớp 5 và mở rộng thêm nhiều trường Tiểu học khác. Có rất nhiều trường tham gia tự
nguyện dạy học áp dụng theo mô hình trường học mới VNEN mà không cần tới sự
hỗ trợ của dự án VNEN. Điều đó một phần là minh chứng cho một phương pháp
dạy học mới có nhiều tính ưu việt. Đối với tỉnh Thanh Hóa có 27 huyện, thị xã,
thành phố tham gia mô hình này. Trường Tiểu học Yên Phong là 1 trong 5 trường
trên địa bàn Huyện tham gia dự án. Đây là kiểu mô hình trường học tiên tiến, dựa
trên kết quả và thành tựu đổi mới giáo dục quốc tế, vân dụng cách làm của
Colombia một cách sáng tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo
dục Việt Nam.
Mô hình trường học mới Việt Nam nhằm thực hiện chủ trương đổi mới về
phương pháp dạy, đổi mới về phương pháp học, đổi mới về phương pháp đánh giá
học sinh, đổi mới về tổ chức lớp học,...Sau khi được tập huấn và nghiên cứu các
văn bản hướng dẫn thực hiện mô hình trường học mới, trường chúng tôi đã tổ chức
thực hiện nghiêm túc. Tuy vậy, đây là mô hình dạy học mới nên trong quá trình
triển khai và thực hiện, chúng tôi gặp không ít khó khăn, vướng mắc về tài liệu, về
phân phối chương trình, về phương pháp dạy học, công tác tổ chức lớp học, cách
nhận xét đánh giá và về cả nhận thức của cha mẹ học sinh.v.v...
Mặc dù vậy, chúng tôi đã từng bước khắc phục, học hỏi kinh nghiệm của các
trường bạn và đã đạt được những kết quả khả quan như: Học sinh mạnh dạn, tự tin,
linh hoạt và tích cực hơn trong học tập và trong các hoạt động. Không khí lớp học
thân thiện và tự nhiên hơn. Bản thân tôi hiện là Phó hiệu trưởng, là người trực tiếp
chỉ đạo việc thực hiện mô hình trường học mới tại trường Tiểu học Yên Phong.
Ngay từ buổi đầu, bản thân tôi đã luôn đồng hành, gắn bó và theo sát chương trình.
Tôi thật sự tâm huyết và nhận thấy mô hình có nhiều ưu điểm và có tính khả thi
cao. Tôi đã đầu tư thời gian nghiên cứu, tìm tòi, trăn trở và mạnh dạn chia sẻ
SKKN: “ Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức dạy học theo mô hình trường học


mới VNEN”. Tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé kinh nghiệm trong công
tác quản lý, chỉ đạo của mình vào sự thành công chung của mô hình dạy học
VNEN.
2.Mục đích yêu cầu của đề tài
Đề tài SKKN thực hiện nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy
học theo mô hình trường học mới VNEN tại trường Tiểu học Yên Phong, huyện
Yên Định.
1


3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp chỉ đạo đạo tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới
VNEN Trường Tiểu học Yên Phong, huyện Yên Định.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm...

2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1 Cơ sở lí luận
Phương pháp giảng dạy và giáo dục ở các trường Tiểu học của nước ta đã
quan tâm đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy
nhiên còn mang tính bộ phận và hình thức, đôi khi còn áp đặt, gò bó, chưa quan
tâm lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh. Việc đánh giá, sửa sai cho học
sinh còn có biểu hiện khắt khe, đôi khi thiếu dân chủ, chủ yếu là giáo viên nhận xét,

đánh giá. Bởi vậy, học sinh còn có những khiếm khuyết về nhân cách như: rụt rè,
thụ động, thiếu tự tin vào bản thân, không dám đề đạt ý kiến, không mạnh dạn thể
hiện khả năng,...
1.2 Cơ sở thực tiễn
Phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN khác phương
pháp dạy học hiện hành: Đây là mô hình dạy học không những đổi mới về cách
thức tổ chức lớp học, về trang trí lớp học mà quá trình dạy học cũng được chuyển
từ hình thức dạy học cả lớp sang dạy học theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy
học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy học, giúp các em tự chiếm lĩnh
kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình
học tập. Giáo viên là người tổ chức hoạt động học tập giúp học sinh vừa tự lực nắm
tri thức, kỹ năng mới, đồng thời được rèn luyện về phương pháp tự học, tự nghiên
cứu. Giáo viên quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân
và của tập thể học sinh để xây dựng bài học. Phương pháp học theo nhóm luôn hiện
hữu, cố định, xuyên suốt cả quá trình tham gia học tập của học sinh. Học theo
phương pháp này các em được trải nghiệm, được vui chơi trong giờ học giúp các
em tự tin, hứng thú nhiều trong học tập. Phương pháp dạy học theo mô hình trường
học mới giúp học sinh phát huy tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập và rèn
luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng hợp tác nhóm, kỹ năng giao tiếp. Góp
phần cùng nhà trường nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2. Thực trạng của việc dạy theo mô hình trường học mới VNEN
tại Trường Tiểu học Yên Phong
2.1. Đặc điểm tình hình đơn vị
Trường Tiểu học Yên Phong nằm trên địa bàn dọc theo quốc lộ 45 theo dọc
bờ sông Mã. Trường được thành lập . Hiện tại nhà trường có 13 lớp với 392 học
sinh. Đội ngũ gồm 23 đ/c cán bộ giáo viên thuộc biên chế. Trường đã được công
nhận chuẩn Quốc gia mức độ 1. Nhà trường liên tục đạt Tập thể tiến tiến cấp
Huyện trở lên. Nhiều năm gần đây, nhà trường được Chủ tịch UBND Tỉnh tặng
bằng khen, giấy khen của Chủ tịch UBND Huyện, Giấy khen Giám đốc Sở giáo

3


dục và đào tạo. Từ năm học 2014 - 2015, trường được chọn thí điểm dạy học theo
mô hình VNEN đối với lớp 2,3,4,5.
2.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện dạy học theo mô
hình VNEN
a, Thuận lợi.
- Công văn chỉ đạo của Sở GD&ĐT Thanh Hóa và Phòng GD&ĐT Yên
Định kịp thời, cụ thể, dễ thực hiện.
- Nhìn chung nhà trường được sư ủng hộ quan tâm của chính quyền địa
phương và sự đồng tình của phụ huynh học sinh.
- Đội ngũ giáo viên giảng dạy chương trình VNEN được tham gia tập huấn
trang bị đầy đủ kiến thức về cách thức và phương pháp dạy học theo mô hình mới,
hào hứng, nhiệt tình say mê với mô hình mới này.
- Số lượng học sinh của nhà trường tương đối phù hợp với cách thức tổ chức
theo nhóm ( từ 25 đến 30 em/lớp). Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đáp ứng
được nhu cấu dạy và học.
- Phương pháp giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm, học sinh chủ động học
tập, tích lũy kiến thức.
- Tài liệu hướng dẫn học tập dùng chung cho cả giáo viên, học sinh và cha
mẹ học sinh, tiện cho việc sử dụng. Giáo viên đỡ mất thời gian soạn bài các môn
Toán, Tiếng Việt, TN&XH dành thời gian nghiên cứu và làm đồ dùng tiểu học.
- Cách thức tổ chức dạy học theo nhóm và cách trang trí lớp học tạo môi
trường học tập hưng phấn, gần gũi, thân thiện phát huy khả năng tự chủ lĩnh hội
kiến thức cho học sinh.
- Xây dựng tốt mối quan hệ, tương tác giữa nhà trường, gia đình và cộng
đồng.
b, Khó khăn.
- Ban đầu, một số phụ huynh chưa thực sự tin tưởng và nhiệt tình ủng hộ cho

con em tham gia học tập mô hình trường tiểu học mới.
- Việc chuyển đổi từ phương pháp dạy học truyền thống giáo viên là người
truyền thụ kiến thức sang phương pháp dạy học tích cực, chuyển hoạt động dạy của
thầy sang hoạt động tự học của học sinh học theo nhóm, chủ động khám phá kiến
thức dưới sự hỗ trợ của giáo viên. Việc thay đổi thói quen đã thành nếp về phương
pháp dạy học quả là khó khăn. Một số giáo viên không khỏi tâm lý hoang mang với
tâm lý học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh
trung bình, yếu.
- Một số giáo viên vẫn chưa thực sự sáng tạo trong cách dạy mà còn rập
khuôn cứng nhắc. Đôi khi còn lạm dụng việc giảng dạy theo cách dạy hiện hành.
- Vì đây là chương trình thử nghiệm nên tài liệu Hướng dẫn học vẫn còn một
số chỗ chưa hợp lý nên đòi hỏi giáo viên cần phải chuẩn bị kỹ trước khi lên lớp và
có phương án điều chỉnh phù hợp, sáng tạo trong các tình huống gặp phải.
4


- Yêu cầu của Mô hình trường học mới là học sinh học lên lớp 2 phải có kỹ
năng đọc hiểu Tiếng Việt tốt nhưng trong thực tế vẫn còn một số học sinh việc đọc
thông viết thạo chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó mô hình này gặp trở ngại
đối với đối tượng học sinh hòa nhập. Mặt khác, một số lớp sĩ số đông nên khó khăn
trong việc tổ chức học nhóm.
- Là vùng nông thôn nên nhiều học sinh không mạnh dạn, còn rụt rè nhút
nhát, tinh thần hợp tác nhóm còn kém, kỹ năng giao tiếp hạn chế nên việc lựa chọn
học sinh trong hội đồng tự quản, nhóm trưởng hay việc luân phiên chuyển nhóm
trưởng và sự tương tác trong nhóm hiệu quả chưa cao.
- Mô hình học nhóm trong suốt buổi học, tạo cho một bộ phận học sinh có cơ
hội nói chuyện riêng, ỷ lại vào người khác nếu như giáo viên không theo dõi sát sao
và hỗ trợ kịp thời.
3. Một số biện pháp tổ chức thực hiện
3.1 Tuyên truyền về Mô hình trường học mới VNEN đến CBGV, nhân

viên, phụ huynh và cộng đồng dân cư
- Tăng cường công tác tuyên truyền cho phụ huynh học sinh và cộng đồng để
họ có những hiểu biết, có nhận thức đúng về mô hình dạy học mới thông qua các
buổi họp phụ huynh HS toàn trường, thông qua bảng tin của nhà trường, thông qua
hệ thống truyền thanh của Thôn và thông qua các Hội nghị của UBND Xã. Bên
cạnh đó, nhà trường còn tổ chức các buổi hội nghị, hội thảo về mô hình VNEN có
sự tham gia của phụ huynh để tạo sự đồng thuận, ủng hộ và tích cực tham gia vào
mô hình này.
- Giúp cha mẹ học sinh thấy được sự đổi mới phương pháp dạy và phương
pháp học, đổi mới tổ chức lớp học, đổi mới đánh giá học sinh, đổi mới sự tham gia
của cộng đồng đối với giáo dục, chia sẻ về cách phối hợp với nhà trường trong hoạt
động giáo dục, cách thức phối hợp với giáo viên. Mời phụ huynh cùng tham gia dự
giờ, cùng chia sẻ việc đánh giá quá trình học tập của con em mình.
- Giúp giáo viên có niềm tin, sẵn sàng đón nhận những ý kiến đóng góp của
Phụ huynh và có nhiều thông tin hơn về học sinh qua sự chia sẻ của cha mẹ các em.
- Nhà trường tích cực tuyên truyền, vận động các cấp, các ngành cùng quan
tâm, ủng hộ điều kiện vật chất cho nhà trường để tăng cường việc trang trí, sắp xếp
phòng học khang trang và đầy đủ hơn.
- Ban đầu, mô hình trường trường học mới VNEN còn lạ lẫm, bỡ ngỡ không
riêng gì đối với phụ huynh, cộng đồng mà còn cả đối với giáo viên. Đến đầu năm
học 2014-2015, các hoạt động dạy học phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh, cộng
đồng đã trở thành những hoạt động thường xuyên, gần gũi quen thuộc mang tính tự
giác. Như việc xây dựng Bản đồ cộng đồng, trang trí lớp học, việc tổ chức thành
lập hội đồng tự quản, tổ chức sinh nhật,...đều có sự tham gia của phụ huynh. Đặc
biệt, sổ phụ huynh là sợi dây kết nối, chia sẻ kinh nghiệm của phụ huynh trong lớp,
góp phần tạo nên môi trường lớp học gần gũi, thân thiện.
5


3.2 Tăng cường công tác trang trí lớp học

- Mỗi ngày đến trường là một ngày vui, bản thân các em thêm yêu trường
yêu lớp, gắn bó với mái trường là mỗi khi các em đến trường các em tìm thấy niềm
vui của mình. Việc trang trí một lớp học với không gian thân thiện, gần gũi, vừa tạo
tính thẩm mỹ đồng thời mục đích chính là phục vụ nhu cầu học tập và các hoạt
động giáo dục của học sinh, góp phần vô cùng to lớn vào việc nâng cao hiệu quả
chất lượng, giáo dục. Tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng hiểu được điều đó
và tận dụng khai thác tối đa, hiệu quả các công cụ cũng như các góc học tập, thư
viện lớp học vào các tiết dạy. Chính vì vậy, BGH nhà trường cần giúp cho giáo viên
hiểu rõ mục đích và thường xuyên sử dụng nhằm đạt hiệu quả cao trong dạy học.
- Ngay từ trước thềm năm học mới, giáo viên chủ nhiệm cần phối hợp với
phụ huynh và học sinh tổ chức trang trí lớp học. Cụ thể:
+ Mười bước học tập: Nên gắn ngay phía trên tường gần bàn giáo viên để
học sinh dễ quan sát và trong quá trình học tập nếu học sinh không nhớ quy trình
10 bước thì các em có thể nhìn vào đó để vận dụng các bước trong quá trình học
tập.
+ Nội quy lớp học: Do GV và HS cùng xây dựng để cùng nhau dám sát và
thực hiện tốt những quy định đề ra. Nội quy lớp học nên trình bày cách điệu, dễ
đọc, đơn giản, không gò bó áp đặt hay dùng mệnh lệnh, đề ra những việc làm cụ
thể để thực hiện tốt nội quy trong nhà trường. Nội quy nên treo gần bảng lớp để các
em dễ quan sát
+ Nhịp cầu bè bạn: Là nơi hội tụ những cảm xúc của các thành viên trong
lớp. Từ góc nhỏ đáng yêu ấy sẽ tạo ra hiệu ứng sôi nổi tới các bạn học sinh. Mỗi
buổi sáng, những lá thư với dòng chữ chất chứa tình cảm sâu lắng, buồn vui, ngộ
nghĩnh, đáng yêu sẽ là cây cầu gắn kết các thành viên và làm nên một lớp học đoàn
kết và giàu lòng nhân ái.
+ Nhịp cầu bè bạn cần trình bày sáng tạo, mỗi lớp sẽ có tên riêng, cách trang
trí khác nhau. Cần treo ở vị trí vừa tầm với của học sinh, tránh treo cao quá, HS sẽ
khó bỏ thư cho nhau.
+ Góc cộng đồng: Giáo viên và học sinh sưu tầm, giới thiệu về văn hóa lịch
sử của địa phương, các sản phẩm của chính gia đình, địa phương các em làm ra,

mùa nào thức ấy, có thể chỉ đơn giản vài quả su su, vài bó cải cúc vừa thu hoạch,
vài bắp ngô luộc, củ khoai nướng,...giúp các em có thêm nhiều hiểu biết về địa
phương mình, đồng thời bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt
Nam.
+ Thư viện lớp học: Là tủ sách thân thiện có sự đóng góp giáo viên, phụ
huynh và học sinh; có sự giúp đỡ của nhà trường, địa phương tạo điều kiện cho các
em tham gia đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả năng tự nghiên cứu, tìm
tòi. Rèn kỹ năng sống có trách nhiệm, có ý thức bảo quản tài sản chung, có thói
6


quen sống gọn gàng, ngăn nắp. Ngoài việc đọc sách tăng thêm vốn kiến thức, học
sinh còn tham gia giới thiệu sách, giúp các em tự tin hơn, diễn đạt tốt hơn. Đây là
những kỹ năng cần thiết cho các em sau này.
+ Các góc học tập như: Góc toán, góc Tiếng Việt, góc TN&XH; góc HĐGD,
BGH cũng cần chỉ đạo giáo viên tổ chức cho học sinh cùng xây dựng, sử dụng,
quản lý và phát triển, phục vụ thiết thực cho từng bài dạy, từng môn học, từng hoạt
động giáo dục góp phần nâng cao chất lượng từng giờ học cũng như chất lượng
giáo dục.
3.3 Tổ chức lớp học
- Từ năm học 2012 - 2013, trường TH Yên Phong là 1 trong 5 trường trên 28
trường tiểu học thuộc huyện Yên Định được tham gia dạy thí điểm chương trình
Tiểu học mới VNEN. Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về
trang trí lớp mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy học theo nhóm. Việc dạy - học theo nhóm có thành công hay không điều đó phụ
thuộc nhiều yếu tố, một trong những yếu tố đó chính là hoạt động của HĐTQ và
các nhóm trưởng.
- Xác định rõ vai trò của HĐTQ, BGH và GVCN các lớp VNEN trong nhà
trường, ngay từ đầu năm học đã đặt ra nhiệm vụ: Làm thế nào để đào tạo, bồi
dưỡng được những em trong ban HĐTQ nhanh nhẹn, mạnh dạn có thể bao quát
lớp, điều khiển lớp, điều khiển các nhóm hoạt động được tốt?

- Sau gần 3 năm triển khai thực hiện, đúc rút kinh nghiệm, tôi xin mạnh dạn
đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao, bồi dưỡng kĩ năng cho HĐTQ,
nhóm trưởng các lớp như sau:
a, Thành lập Hội đồng tự quản học sinh.
- Trước tiên, ngay từ đầu năm học, sau khi nhận danh sách lớp, GVCN trao
đổi ngay với GVCN năm học trước để tìm hiểu kỹ tình hình lực học cũng như năng
lực, phẩm chất của từng học sinh. Sau đó, giáo viên đặt ra những tiêu chí để lớp lựa
chọn các bạn trong HĐTQ phải có những năng lực như: mạnh dạn tự tin, nhanh
nhẹn hoạt bát, có năng lực học tập tốt, có năng khiếu văn nghệ hoặc TDTT...
- Bước tiếp theo, GVCN thông báo cho học sinh, phụ huynh, BGH thời gian
và kế hoạch bầu cử, lấy ý kiến tư vấn của giáo viên bộ môn, học sinh, phụ huynh;
đăng ký danh sách ứng cử, đề cử;
- Tổ chức bầu cử chủ tịch và phó chủ tịch thành lập các ban của HĐTQ. Đây
là bước vô cùng quan trọng để thành lập HĐTQ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều
giáo viên còn xem nhẹ hoạt động này hoặc cũng tổ chức bầu cử nhưng qua loa, đại
khái mang tính hình thức.
- Điều quan trọng trong công việc bầu HĐTQ là giáo viên phải tạo ra một
bầu không khí sôi nổi, kịch tính nhưng lại mang tính đoàn kết, dân chủ. Giáo viên
tạo cơ hội cho học sinh được tranh cử vào các vị trí chủ tịch và phó chủ tịch. Qua

7


việc tranh cử đó, giáo viên sẽ phát hiện được những học sinh mạnh dạn, có khả
năng diễn thuyết trước đám đông.
- Đây là một trong những năng lực quan trọng trong vai trò là HĐTQ. Sau
khi việc đăng kí hoàn tất, các ứng cử viên sẽ trình bày các đề xuất có liên quan đến
những hoạt động mà các em có thể thực hiện khi trúng cử. Những hứa hẹn này phải
khả thi trong vòng 3 tháng thử nghiệm.
- Việc lựa chọn HĐTQ học sinh là vô cùng quan trọng. Một HĐTQ năng

động, tự tin sẽ là một trong những yếu tốt quyết định thành công của việc dạy - học
theo nhóm.
b, Phân công và bồi dưỡng vai trò của nhóm trưởng
- Vai trò của nhóm trưởng cũng không kém phần quan trọng. Nhóm trưởng
thay giáo viên điều hành các hoạt động nhóm. Nhóm trưởng phải tự mình làm thế
nào để huy động sự tham gia của mọi thành viên vào giải quyết nhiệm vụ của mình.
Nhóm trưởng phải biết cách tìm kiếm sự hỗ trợ của các bạn trong nhóm, của giáo
viên khi gặp khó khăn. Nhóm trưởng phải biết sử dụng tài liệu học tập và quản lý
quỹ thời gian...Chúng tôi đưa ra một số cách bồi dưỡng nhóm trưởng như sau:
Cách 1: Chọn 1 nhóm làm tốt thảo luận một hoạt động nào đó cho các nhóm
còn lại chú ý học tập .
Cách 2: Đầu buổi học hoặc cuối buổi học, giáo viên mời các nhóm trưởng
ngồi lại tạo thành 1 nhóm, giáo viên hướng dẫn từng bước một.
Cách 3: Giáo viên đóng vai là nhóm trưởng một nhóm nào đó để các nhóm
khác quan sát.
Cách 4: Giáo viên chọn một số học sinh nhanh nhẹn, tự tin để huấn luyện.
Sau đó, phân công những học sinh này về các nhóm để làm nhóm trưởng.
Cách 5: Cho nhóm trưởng của lớp mình sang lớp khác để " dự giờ" quan sát
và học tập.
- Tùy vào đối tượng HS của lớp, GVCN lựa chọn linh hoạt các cách để vận
dụng.
3.4 Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, thân thiện và giàu lòng nhân ái. Tăng
cường các hoạt động ngoại khóa
a, Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, thân thiện và giàu lòng nhân ái
- Muốn xây dựng được mối đoàn kết trong lớp, HĐTQ có vai trò cực kỳ
quan trọng. Các em chính là những sợi dây nối các thành viên trong lớp. Ngoài vai
trò hướng dẫn các bạn học tập, các em còn là những người chủ động trong các hoạt
động của lớp như tổ chức sinh nhật; tương tác với các góc thư viện, góc học tập hay
góc cộng đồng. Chính các em là người tạo ra những tiếng cười rộn rã trong lớp, là
người thắp lên những ngọn nến lung linh của lòng nhân ái.

b, Tăng cường các hoạt động ngoại khóa.

8


- Hoạt động ngoại khóa là các hoạt động nằm ngoài chương trình học chính
khóa và là sân chơi tự nguyện tham gia của học sinh. Hoạt động ngoại khóa giúp
học sinh có thể phát triển nhiều kỹ năng sống.
- Ý thức được điều đó, trường Tiểu học Yên Phong đã tổ chức một số sân
chơi đa dạng, phong phú đáp ứng mọi nguyện vọng của học sinh. Cụ thể:
+ Hoạt động sự kiện: Sinh nhật trong các lớp , trường Tiểu học Yên Phong
đã tổ chức. Trong ngày hội, học sinh được giáo dục các kỹ năng dựng lều trại, kỹ
năng làm việc nhóm, kỹ năng bán hàng, kỹ năng sinh hoạt lửa trại...
+ Bên cạnh các trò chơi hiện đại, học sinh tham gia tìm hiểu về các phong
tục cổ truyền của Việt Nam với những trò chơi dân gian (kéo co, nhảy bao bố),
cách gói các loại bánh: bánh chưng, bánh tét, tổ chức chợ phiên với các món ăn ba
miền....
+ Các kĩ năng và kinh nghiệm sống đó sẽ giúp các em trở thành một con
người toàn diện và thú vị hơn.
+ Hoạt động công tác xã hội: Giúp các em học sinh nhận thức được bài học
quý giá trong thực tiễn: biết cảm thông và cùng chia sẻ khó khăn với những mảnh
đời bất hạnh trong cuộc sống. Chương trình KẾT NỐI YÊU THƯƠNG của trường
Tiểu học Yên Phong với các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, 120 chiếc áo mới;
10 suất học bổng, 500 quyển vở mới; nhiều mũ mới, tất mới và nhiều quà tặng có
giá trị,...đã giúp cho học sinh thêm yêu hơn con người Việt Nam, biết sống có trách
nhiệm với chính bản thân mình.
+ Hoạt động nghệ thuật: Chúng tôi cũng chú trọng cung cấp cho các em học
sinh nhiều môn học mang tính nghệ thuật, giúp các em có thể thư giãn sau những
giờ học chính khóa. Ngoài ra rèn luyện cho các em tính tập trung, rèn luyện trí nhớ,
kích thích trí não, phát triển tư duy, óc sáng tạo. Các em có thể ứng dụng ngay bài

học nghệ thuật vào cuộc sống, giúp mang lại sự vui tươi cho mọi người và cho
chính các em.
3.5 Tăng cường công tác kiểm tra toàn diện, dự giờ thăm lớp, kiểm tra
chuyên môn đối với giáo viên dạy lớp VNEN
- Việc thường xuyên kiểm tra toàn diện, dự giờ thăm lớp, kiểm tra chuyên
môn là một khâu vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý chuyên môn. Những
lớp học theo mô hình VNEN càng rất cần thiết trong việc dự và trao đổi giờ dạy và
góp ý giờ dạy cũng như các hoạt động khác của giáo viên và học sinh. Đây là hình
thức dạy học mới nên giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ trong việc tiếp cận. Nhà trường
cần tăng cường các tiết dạy minh họa, dự giờ thao giảng ở những môn, những bài
giáo viên còn lúng túng; hoặc dự giờ theo chuyên đề như cách Đánh giá nhận xét
theo Thông tư 30 trong suốt giờ dạy. Từ đó, BGH tư vấn, hỗ trợ giáo viên điều
chỉnh kịp thời nội dung, thời lượng, hình thức hoạt động của bài học, tiết học cũng
như việc tổ chức hoạt động tự học theo nhóm của học sinh, vai trò của nhóm
trưởng, cách đánh giá bằng nhận xét của giáo viên; Sự hợp tác của các thành viên
9


trong nhóm trong việc khám phám, phát hiện ra kiến thức mới. Bên cạnh đó, hình
thức dạy học lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự học theo nhóm thì vai trò của
giáo viên không bị lu mờ mà việc giáo viên hỗ trợ học sinh trong việc thảo luận
nhóm, trong việc hợp tác để tìm ra kiến thức và đem lại hiệu quả cao là vô cùng
quan trọng. Việc thường xuyên dự giờ cũng là cơ hội để tăng cường khuyến khích
giáo viên sáng tạo trong quá trình dạy học.
3.6 Biện pháp 6: Tăng cường tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm
qua Giao ban cụm để chia sẻ, học tập kinh nghiệm.
- Trong 3 năm qua, nhà trường đã tổ chức nghiêm túc và đạt hiệu quả với các
buổi Giao ban chuyên môn cấp tổ, cấp trường, cấp cụm. Tổ chức cho CBGV tham
quan và học tập ở các đợn vị trường bạn về kinh nghiệm trong việc tổ chức, trang
trí lớp học; Học hỏi về chuyên môn thông qua các hoạt động sinh hoạt chuyên môn

cụm trường, thông qua việc dự giờ các tiết dạy minh họa.
- Sau mỗi đợt tham quan học tập, nhà trường tổ chức chỉ đạo tổ chuyên môn
tiến hành họp, thảo luận, trao đổi để từ đó vận dụng những kinh nghiệm lĩnh hội
được vận dụng vào trong quá trình dạy học trên lớp của từng giáo viên, vào quá
trình tổ chức, trang trí lớp học một cách sáng tạo, hiệu quả, phù hợp.
- Bên cạnh đó BGH và GV nhà trường không ngừng khai thác các thông tin
trên mạng về các hình ảnh, video clip các tiết dạy minh họa để tổ chức cho cán bộ,
giáo viên xem, cùng trao đổi rút kinh nghiệm và học tập đẻ vận dụng vào tình hình
thực tế của nhà trường.
- Đây là hình thức sinh hoạt được giáo viên hào hứng, ủng hộ và đem lại hiệu
quả thiết thực cao.
- Trong những năm qua, trường Tiểu học Yên Phong cũng là địa điểm thân
thiết, tin cậy thu hút một số trường bạn trong Huyện và ngoài Huyện đến tham
quan, học tập, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc tổ chức thực hiện dạy học
theo mô hình VNEN.
4. Kết quả
4.1 Về giáo viên
- Sau thời gian thực hiện dự án dạy học theo mô hình trường học mới VNEN,
bước đầu nhà trường đã thu được kết quả khả quan. Giáo viên đã có nhận thức
đứng đắn hơn về mô hình dạy học này, đã đam mê với công việc dạy học theo mô
hình trường học mới, công tác tổ chức, trang trí lớp học được giáo viên thực hiện
đạt hiệu quả cao. Giáo viên đã tự tin, chủ động và có nhiều sáng tạo trong dạy học.
Vai trò của giáo viên đã thay đổi thực sự từ chỗ giáo viên là người truyền thụ, giảng
giải, nay chuyển sang là người tổ chức, hỗ trợ, hướng dẫn học sinh tự học, là người
quan sát học sinh thực hiện 10 bước học tập, hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu
Hướng dẫn học. Việc thực hiện Đánh giá học sinh, ghi nhận xét cho học sinh cũng
được giáo viên thực hiện hiệu quả hơn.

10



- Giáo viên sẽ đánh giá kết quả học tập của học sinh theo các tiêu
chuẩn như: đánh giá hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập của
học sinh theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và hoạt động theo từng môn học;
đánh giá sự hình thành và phát triển năng lực chung của học sinh như: tự
phục vụ, tự quản, giao tiếp, hợp tác, tự học và giải quyết vấn đề; đánh giá
sự hình thành, phát triển các phẩm chất của học sinh về các chủ đề: yêu
quê hương, đất nước, yêu cha mẹ và gia đình, yêu trường lớp và bạn bè,
yêu con người; sự tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm, trung thực, kỷ luật,
chăm học, chăm làm, thích hoạt động nghệ thuật, thể thao.
4.2 Về học sinh
- Học tập theo mô hình VNEN giúp học sinh phát huy tích cực tính tự
học, sáng tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Đây
là phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng như: kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ
học.
Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình
thức học theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói
quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài
liệu. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh
dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để
các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc
các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng
sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học
thoải mái, các em rất hào hứng tham gia các bài học.
- Cách thức tổ chức lớp học cũng khác hơn so với cách thức dạy học
truyền thống, lớp học được bố trí, tổ chức ngồi học theo nhóm, ngồi quay
mặt vào nhau để cùng trao đổi và tự học. Quản lý lớp học là “Hội đồng tự
quản học sinh” do các em bầu ra và đảm nhiệm, đây là một biện pháp giúp
học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có

điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được
rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác trong
các hoạt động; đồng thời, xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”,
“Góc cộng đồng”, “Thư viện lớp học”, mở nhiều “hòm thư vui”, hòm thư
“Điều em muốn nói” cũng như trang trí lớp học, tạo ra môi trường giáo dục
thân thiện, an toàn.
4.3 Kết quả cụ thể

11


- Về nhà trường: Là 1 trong các trường của Tỉnh Thanh Hóa thực
hiện thành công Mô hình trường học mới VNEN. Được các đài, các báo ghi
nhận đăng bài trong các lần Ngoài ra, đài truyền thanh, truyền hình đưa tin
nhiều lần.
- Về giáo viên: Đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh tự học theo
Mô hình VNEN của đ/c Lê Thị Tâm – GV trường TH Yên Phong đạt loại A
cấp Huyện. Đ/c Lê Thị Tâm được Sở giáo dục và đào tạo vinh dự tậng giấy
khen Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thực hiện theo Mô hình VNEN.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
- Qua gần 3 năm triển khai Dự án dạy theo mô hình VNEN, giáo viên
và học sinh đã thích nghi với môi trường học tập này và đạt hiệu quả cao.
Bởi đây phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, học
tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân HS; chuyển việc
truyền thụ của GV thành việc hướng dẫn HS tự học. Lớp học do HS tự
quản và được tổ chức theo các hình thức như: Làm việc theo cặp, làm việc
cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ
yếu. Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình
thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để

tự hoàn thiện, luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành
động như thế nào, không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ
động trong dạy và học.
- Mô hình trường học mới đã thực sự đem lại hiệu quả thiết thực cho
học sinh. Các em được phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, tinh thần
hợp tác. Bên cạnh đó, các em được rèn luyện cách học, cách tư duy, sự
hợp tác. Đặc biệt, các em được phát triển tốt các kỹ năng và phẩm chất
như sự mạnh dạn, chủ động tích cực trong hoạt động, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng hợp tác, kỹ năng tổ chức. Ngoài ra, các em còn nói lên suy nghĩ của
mình. Đặc biệt, các em biết chia sẻ, hỗ trợ, tư vấn cho nhau, góp ý cho
nhau cùng tiến bộ. Điều đó góp phần hình thành và bồi dưỡng phẩm chất
tốt đẹp của con người Việt Nam.
- Có thể khẳng định, việc thực hiện theo mô hình trường học mới
VNEN, đến thời điểm này, những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu đã lùi xa đối
với giáo viên, học sinh và cả đối với phụ huynh. Giáo viên đã tương đối
thành thục với 5 bước giảng dạy; học sinh đã
12


quen thuộc với 10 bước học tập; cha mẹ học sinh đã hiểu được được lợi
ích từ mô hình trường học mới đối với con em họ và nhiệt tình hưởng ứng.
- Sau thời gian áp dụng những biện pháp nêu trên, chất lượng và
hiệu quả dạy học theo mô hình VNEN tại trường Tiểu học Yên Phong đã
chuyển biến tích cực. Trong quá trình thực hiện, bản thân tôi đã rút ra một
số kinh nghiệm sau:
- BGH trong nhà trường phải thực sự nhiệt tình, không quản khó
khăn, dám nghĩ dám làm, thực sự tâm huyết, hiểu và nhận thức đúng đắn
về mô hình. Từ đó, làm tốt công tác tuyên truyền đến chính quyền địa
phương, giáo viên, phụ huynh học sinh và cộng đồng về tính ưu việt của
mô hình này để nhận được sự đồng thuận cao trong toàn xã hội. Đồng thời

chỉ đạo đơn vị thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp nêu trên để mô
hình đạt hiệu quả cao. Từ đó tạo được niềm tin và sự quyết tâm triển khai
thực hiện đến thành công.
Quan tâm đến công tác sinh hoạt chuyên môn, tổ chức sinh hoạt
trong nhà trường, cụm trường thiết thực, hiệu quả. Bên cạnh đó tổ chức
nhiều hoạt động chuyên đề, hội thảo, giao lưu,... về tổ chức lớp, trang trí
lớp, cách đánh giá học sinh,...để giáo viên thường xuyên được trao đổi,
chia sẻ kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau nhằm thực hiện mô hình trường học
mới đạt hiệu quả cao nhất.
- Giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, tích
cực tự học tập, hiểu kỹ về mô hình, linh hoạt, sáng tạo, tâm huyết trong
việc thực hiện mô hình để giúp học sinh phát huy được năng lực và phẩm
chất thông qua hoạt động học.
- Các thành viên trong Hội đồng tự quản luôn được bồi dường về

tập.

cách tổ chức, điều hành, quản lý lớp, nhóm trong quá trình học
2. Đề
xuất
- Bộ Giáo dục và Đào tạo cần biên soạn các tài liệu của các môn
Hoạt động giáo dục để có sự đồng bộ về nội dung, chương trình cũng như
hình thức tổ chức dạy học.
- Cần có phương án chỉ đạo sớm việc tổ chức dạy học khi kết thúc
dự án.
- Thường xuyên tổ chức đánh giá sơ kết, tổng kết kịp thời nhằm rút
kinh nghiệm. Chỉ đạo việc nhân rộng mô hình trên địa bàn Huyện để có
sức lan tỏa rộng hơn nữa.

13



- Bộ GD& ĐT cần có các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo để các địa
phương hỗ trợ thêm kinh phí đầu tư thêm CSVC cho những trường thực
hiện dự án VNEN.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số biện pháp chỉ đạo tổ chức
dạy học theo mô hình trường học mới VNEN” bản thân tôi đã áp dụng tại trường
Tiểu học Yên Phong từ năm học 2014 – 2015 đến nay. Mặc dù bản thân tôi đã đầu
tư nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu nhưng do khả năng, năng lực còn
hạn chế nên không khỏi những thiếu sót. Tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý
kiến của Hội đồng khoa học các cấp để SKKN được hoàn thiện hơn và áp dụng đạt
hiệu quả cao hơn trong những năm học tới.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Yên Phong, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Lê Huy Biên

MỤC LỤC
TT
I
MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
2 Mục đích nghiên cứu
3 Đối tượng nghiên cứu

4 Phương pháp nghiên cứu
II NỘI DUNG
1 Cơ sở lí luận
1.1 Cơ sở lí luận và thực tiễn

Nội dung

Trang
1
1
2
2
3
3
3

14


1.2 Cơ sở thực tiễn
2 Thực trạng của việc dạy học theo mô hình trường học mới VNEN
tại Trường Tiểu học Yên Phong
2.1 Đặc điểm tình hình đơn vị.
2.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình thực hiện dạy học theo mô
hình VNEN.
3 Một số biện pháp tổ chức thực hiện.
3.1 Tuyên truyền về Mô hình trường học mới VNEN đến CBGV, nhân
viên, phụ huynh và cộng đồng dân cư
3.2 Tăng cường công tác trang trí lớp học
3.3 Tổ chức lớp học

3.4 Xây dựng tập thể lớp đoàn kết, thân thiện và giàu lòng nhân ái.
Tăng cường các hoạt động ngoại khóa
3.5 Tăng cường công tác kiểm tra toàn diện, dự giờ thăm lớp, kiểm tra
chuyên môn đối với giáo viên dạy lớp VNEN
3.6 Tăng cường tham quan, học tập trao đổi kinh nghiệm qua Giao ban
cụm để chia sẻ, học tập kinh nghiệm.
4 Kết quả kinh nghiệm
4.1 Về giáo viên
4.2 Về học sinh
4.3 Kết quả cụ thể
III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận.
3.2 Đề xuất

3
3
3
4
5
5
6
8
10
13
13
14
14
14
15
16

16
16

15



×