Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN kinh nghiệm giúp HS lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.8 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC GIÚP HỌC SINH LỚP 5
PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA.

Người thực hiện
: Lê Thị Hà
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác
: Trường Tiểu học Điện Biên I
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017


Mục lục
Trang
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng việc dạy học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trước
khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm


3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị

2
2
3
3
3
3
3
4
5
17
18
18
18


I. MỞ ĐẦU
1.1 LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Hiện nay, giáo dục tiểu học đã và đang thực hiện đổi mới toàn diện, đồng
bộ nội dung, chương trình giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học. Mục tiêu
của bậc Tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kĩ năng cơ bản để
tiếp tục học Trung học cơ sở. Để thực hiện được mục tiêu này thì vai trò của
người giáo viên đặc biệt quan trọng. Dạy học sinh làm người và trang bị tri thức

cho học sinh là hai công việc song song. Chính vì thế đòi hỏi mỗi giáo viên phải
có phương pháp giáo dục phù hợp thông qua việc giảng dạy tất cả các môn học
trong nhà trường để đặt nền móng vững chắc cho việc đào tạo nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Vì vậy việc đổi
mới nội dung và phương pháp dạy học ở Tiểu học nói chung và đổi mới phương
pháp dạy học phân môn “Luyện từ và câu” ở lớp 5 nói riêng là vấn đề cần thiết
và cấp bách hiện nay đó là: “Dạy - học dựa vào các hoạt động tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh”. Phân môn “Luyện từ và câu” trang bị cho học
sinh những kiến thức khoa học về Tiếng Việt, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
để học sinh tự hoàn thiện nhân cách của mình ở phương diện ngôn ngữ và văn
hóa. Học sinh cần học tốt môn học này để có cơ sở học tốt những môn học khác,
học sinh cần phải được học rất thiết thực nhằm phát triển kĩ năng giao tiếp của
mình. Phương pháp dạy học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Vì vậy việc tổ
chức dạy học phải được xây dựng thành hệ thống việc làm cho học sinh để các
em tự chiếm lĩnh kiến thức và hình thành phát triển được các kĩ năng cần thiết.
Xây dựng được một hệ thống bài tập tốt và tổ chức thực hiện chúng một cách
hiệu quả có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy học phân môn luyện từ và
câu. Chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, phân môn Luyện từ và câu phần nội
dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn một cách khoa học và có hệ thống.
Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là mảng kiến thức quan
trong của phân môn Luyện từ và câu. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy các
em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng
không khó khăn, tuy nhiên giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì học sinh
thường nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là khó đối
với học sinh. Mặt khác, khi dạy về từ nhiều nghĩa và từ đồng âm hầu như giáo
viên ít có sách tham khảo, chưa có nhiều tài liệu đề cập đến vấn đề này. Trăn trở
về vấn đề trên, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh
phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn sáng kiến kinh



nghiệm: “Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Tôi chọn đề tài này nghiên cứu với mục đích:
- Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều
nghĩa góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh.
- Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật và tách được ý
nghĩa từ vựng của từ khỏi sự vật được biểu thị bởi từ.
- Giúp học sinh có năng lực sử dụng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong khi
nói hoặc viết, để từ đó các em sử dụng được vốn từ làm công cụ giao tiếp tư duy.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Một số kinh nghiệm giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp kiểm tra, khảo sát thực tế
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Nhiệm vụ của môn Tiếng Việt là cung cấp cho học sinh những tri thức về
hệ thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng
biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn từ), đồng thời hình thành
cho học sinh kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra Tiếng Việt còn là

công cụ giao tiếp và tư duy. Môn Tiếng Việt còn trang bị cho học sinh một số
công cụ để tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học. Tiếng Việt là công cụ
để học các môn học khác. Các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện, là
điều kiện thiết yếu của quá trình học tập. Chính vì thế, giáo viên phải có những
phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng của bộ môn, mặt khác phải có kiến
thức Tiếng Việt dạy học phù hợp và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ.
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ
được tập trung và được biên soạn có hệ thống trong phần luyện từ và câu. Nhiều
năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng
tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không
mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt
đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
của học sinh không được như mong đợi của cô giáo kể cả một số học sinh học
tốt đôi khi cũng làm thiếu chính xác. Vì từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều được


hình thành từ quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ - dùng ít kí hiệu nhưng biểu đạt
được nhiều. Tuy nhiên chúng là hai lớp từ khác nhau. Từ đồng âm hình thành do
nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên, do chuyển nghĩa quá xa mà thành, do từ
vay mượn trùng với từ sẵn có, do từ rút gọn trùng với từ sẵn có, … Từ nhiều
nghĩa là một từ nhưng có nhiều nghĩa. Từ nhiều nghĩa hình thành do cơ chế
chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ hoặc hoán dụ. Các nghĩa của từ nhiều
nghĩa có liên quan với nhau. Nhưng cũng có khi cùng một hình thức ngữ âm vừa
có thể có hiện tượng đồng âm, vừa có thể có hiện tượng nhiều nghĩa. Trăn trở về
vấn đề này, qua những năm dạy lớp 5 tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về
cách dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều
nghĩa. Sau đây tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ ấy qua bài viết:
“Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa” nhằm giúp học sinh tháo gỡ những lầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa.

2.2. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY – HỌC VỀ TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU
NGHĨA TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.

2.2.1. Thực trạng chương trình Luyện từ và câu của lớp 5
* Thời lượng chương trình:
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5 chương trình Tiếng Việt lớp 5,.
Các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu
giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu trong đó có các từ đồng
âm. Bài luyện tập về từ đồng âm đã được giảm tải, vì thế thời lượng trong
chương trình dành cho kiến thức này còn ít. Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3
tiết ở tuần 7 và tuần 8. Học sinh được học khái niệm về từ nhiều nghĩa., Các bài
tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân
biệt nghĩa, nếu các nét nghĩa khác nhau của một từ.
* Dạng bài tập của sách giáo khoa:
Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa rất ít. Duy nhất có 1
bài tập (bài 1 trang 82 - TV5 - tập 1) có dạng phân biệt, nhận diện từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng bài tập thực hành giúp học sinh phân biệt từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa còn quá ít.
2.2.2.Thực trạng việc dạy của giáo viên
Kinh nghiệm thực tế giảng dạy, qua dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp,
tôi nhận thấy:
Bản thân giáo viên Tiểu học phải dạy nhiều môn học không chuyên sâu về
một bộ môn nên kiến thức cũng chưa nắm sâu nhất là kiến thức phần nghĩa của
từ trong Tiếng Việt ở lớp 5. Việc giáo viên giúp học sinh phân biệt từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa thường gặp nhiều khó khăn, bởi phần kiến thức đưa vào trong
chương trình chỉ ở mức độ đơn giản. Phần nghĩa của từ mới dùng ở khái niệm,
thông qua các bài tập thực hành giúp học sinh hiểu và khắc sâu kiến thức.


Chương trình chưa chỉ ra những điểm giống và khác nhau cơ bản giữa từ đồng

âm và từ nhiều nghĩa. Do vậy đôi khi giáo viên cũng cảm thấy lúng túng, nhầm
lẫn trong các trường học phức tạp.
Bên cạnh những khó khăn về chuyên môn của giáo viên thì thời gian để trao
đổi chuyên môn còn ít bởi trong một buổi sinh hoạt chuyên môn còn nhiều vấn
đề cần thảo luận thống nhất.Chính vì vậy vấn đề đầu tư chuyên sâu kĩ càng cho
kiến thức từ đồng âm , từ nhiều nghĩa chưa có sự đầu tư thích đáng nên hiệu quả
giờ dạy chưa cao.
2.2.3. Thực trạng việc học của học sinh.
*Phần kiến thức từ nhiều nghĩa đối với các em còn khó, còn trừu tượng:
Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp
thu và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ
nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ
có quan hệ đồng âm, các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn
cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Lúc đầu, khi đang
còn dạy tách bạch từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các
em làm bài trong vở bài tập tương đối đạt yêu cầu.
* Vốn từ và vốn hiểu biết của các em còn hạn chế:
Khi học phần từ nhiều nghĩa, việc xác định nghĩa chuyển đối với các em là
rất khó bởi vốn hiểu biết về nghĩa của từ có giới hạn. Các nét nghĩa chuyển, mối
quan hệ giữa nghĩa chuyển và nghĩa gốc, các em khó phân biệt tìm ra nét chung.
Dạng bài tập phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, học sinh còn lung túng.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ
NHIỀU NGHĨA.

2.3.1. Biện pháp thứ nhất: Giúp học sinh nắm vững khái niệm cơ bản
về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa,
trước hết giáo viên yêu cầu học sinh hiểu và thuộc ghi nhớ (khái niệm) của bài
học. Chính vì thế, tôi thường cho học sinh nắm khái niệm bằng những hình thức,
cách làm như sau:

Bước 1: Hướng dẫn phân tích ngữ liệu phần nhận xét để tiếp cận với
khái niệm.
Khi học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm, giáo viên
tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp
học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những
kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Ở bước làm này, tất cả các đối tượng
học sinh đều thực hiện xâm nhập yêu cầu ngữ liệu qua các phương pháp dạy
học: Hỏi đáp, thảo luận nhóm, nêu vấn đề, quan sát…


Bc 2: Hng dn hc sinh t tng hp v nm ni dung khỏi nim .
bc ny, giỏo viờn cú th cho cỏc em ly vớ d v hin tng ng õm,
nhiu ngha giỳp cỏc em nm sõu v nm chc phn ghi nh. Tõm lớ hc sinh
lm nhng bi tp n gin, l kin thc, ngi hc thuc lũng, ngi vit cỏc
on, bi cn yu t t duy. Bit vy tụi thng cho hc sinh ngt ý ca phn
ghi nh cho c ni tip, ri ghộp li cho c ton phn, c theo nhúm ụi, cú
lỳc thi ua xem ai nhanh nht, ai c tt. Cỏch lm ny tụi ó cho cỏc em thc
hin cỏc tit hc trc ú (v t ng ngha, t trỏi ngha) do ú dy n t
ng õm, t nhiu ngha cỏc em c sn cỏch t chc nh trc m thc hin.
Bc 3: Cng c vic nm khỏi nim phn luyn tp
Chuyn sang phn luyn tp, giỏo viờn tip tc t chc cỏc hỡnh thc dy
hc giỳp hc sinh gii quyt cỏc bi tp phn luyn tp. Sau mi bi tp giỏo
viờn li cng c, khc sõu kin thc liờn quan n ni dung bi hc, liờn h thc
t v liờn h ti cỏc kin thc ó hc ca phõn mụn LTVC núi riờng v tt c cỏc
mụn hc núi chung.
Vớ d: Dy khỏi nim t ng õm tit 10- tun 5
Bc 1: HDHS phõn tớch ng liu phn nhn xột tip cn khỏi
nim t ng õm.
Bi 1,2: Vit cỏc cõu lờn bng:
ễng ngi cõu cỏ.

on vn ny cú nm cõu.
- GV yờu cu hc sinh tho lun nhúm:
+ Em cú nhn xột gỡ v hai cõu vn trờn?
+ Ngha ca t cõu trong tng cõu trờn l gỡ ?
+ Hóy nờu nhn xột ca em v ngha v cỏch phỏt õm cỏc t cõu
trờn. - T nhng phn cõu hi trờn,hc sinh s nm c:
Câu (1): câu cá : bắt cá tôm bằng móc sắt nhỏ (thờng có
mồi) buộc ở một đầu sợi dây.
Câu (2): câu văn : đơn vị của lời nói
- Giỏoviờn kt lun v cõu tr li bi tp phn nhn xột.
Bc 2: Hng dn hc sinh t tng hp v nm ni dung khỏi nim
t ng õm.
GV khng nh t cõu trong 2 cõu trờn l t ng õm. Vy t ng õm l
t nh th no ?
- Cõu hi ny thng chỳ trng n i tng hc sinh hon thnh tt tr
li c.
- Sau khi hc sinh kt lun t rỳt ra c khỏi nim, giỏo viờn cho hc
sinh hc thuc luụn khỏi nim (ghi nh): T ng õm l nhng t ging nhau v
õm nhng khỏc hn nhau v ngha (theo SGK TV5 tp 1 trang 51)


- Cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ để các em dễ hiểu và dễ nhớ.(2 ý:
giống âm nhưng khác nghĩa)
Bước 3: Củng cố việc nắm khái niệm từ đồng âm ở phần luyện tập
Phần bài tập thực hành luyện tập: Xác định nghĩa của từng cặp từ : Hòn
đá và đá bóng
- Phần này, tôi cho học sinh mức hoàn thành sử dụng từ điển Tiếng Việt
để nắm nghĩa từ. Sau khi các em giải thích xong, giáo viên cần sử dụng đồ dùng
dạy học, tranh ảnh minh họa nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ:
đá trong hòn đá là chất rắn cấu tạo nên vỏ trái đất, kết thành từng tảng, từng hòn;

đá trong đá bóng là đưa nhanh chân và hất mạnh bóng cho xa ra hoặc đưa bong
vào khung thành đối phương.

Từ việchòn luyệnđá tập, các em lại ghi nhớ sâu khái niệm vềđá
từbóngđồng âm một lần nữa.
Tóm lại khi dạy khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cần thực hiện
theo quy trình các bước:
Bước 1: Hướng dẫn phân tích ngữ liệu phần nhận xét để tiếp cận với
khái niệm từ đồng âm hoặc từ nhiều nghĩa.
Bước 2: Hướng dẫn học sinh tự tổng hợp và nắm nội dung phần khái
niệm đồng âm hoặc từ nhiều nghĩa..
Bước 3: Củng cố việc nắm khái niệm ở phần luyện tập
Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện
từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:
- Phương pháp hỏi đáp - Hình thức học cá nhân - Phương
pháp giảng giải - Thảo luận nhóm - Phương pháp trực
quan - Tổ chức trò chơi
- Phương pháp luyện tập thực hành
2.3.2.Biện pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh nắm dấu hiệu để phân
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa giống nhau về âm (nói đọc giống nhau, viết
cũng giống nhau). Làm thế nào để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa ? Vậy mấu chốt của vấn đề là phải làm cho học sinh hiểu đúng


bản chất kiến thức. Điểm khác nhau cơ bản từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là : + Từ
đồng âm với nhau thì luôn luôn đồng âm trong tất cả mọi hoàn cảnh sử dụng. Các
từ đồng âm bao giờ cũng khác hẳn nhau về nghĩa. Bản thân mỗi từ đều mang nét
nghĩa riêng biệt, không thể tìm được một nét nghĩa chung nào giữa các từ.
+ Từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa. Để

đạt được mục đích của biện pháp này, tôi đã thực hiện theo các bước sau :
Bước 1 : Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của từ cần xét tới
Khi chưa biết từ trong bài là đòng âm hay nhiều nghiã thì giáo viên cần : Giáo viên yêu cầu tất cả học sinh nêu cách hiểu của mình về nét nghĩa
của từ trong bài mà các em có được từ vốn sống hiểu biết của mình.
- Nếu có trường hợp học sinh do vốn từ ngữ hạn chế, tôi cho các em sử
dụng từ điển Tiếng Việt để tra.
- Nếu mức độ học sinh chưa nắm rõ trên từ điển, tôi cho học sinh quan sát
hình ảnh thể hiện nghĩa của từ cần tìm hiểu (hình ảnh thông qua phương tiện dạy
học dưới dạng bài giảng điện tử powerpoin.)
Bước 2 : Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để phân biệt nghĩa
gốc - nghĩa chuyển.
Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó dùng
theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, chúng tôi đã hướng dẫn học sinh thông qua
cách nhận biết trực quan như sau:
- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em có thể cảm nhận được bằng giác
quan thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện
tượng hoặc hành động, tính chất mà các em không thể cảm nhận bằng giác quan
thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
- Từ nhiều nghĩa, trong đó chỉ có một nghĩa gốc, các nghĩa khác là nghĩa
chuyển, nghĩa chuyển bao giờ cũng có mối quan hệ với nghĩa gốc, nghĩa chuyển
được suy ra từ nghĩa gốc. Các từ mang nghĩa chuyển thì thường có thể nêu nghĩa
bằng cách thay thế bằng một từ khác (mang nghĩa phụ)
Ví dụ : Dạy phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong bài tập Tiết
16- Tuần 8
Ví dụ : Từ “đường” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa?
- Từ “đường” (1) trong “đường rất ngọt”
- Từ “đường” (2) trong “đường dây điện thoại”
- Từ “đường” (3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp”

Bước 1 : Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của từ cần xét tới là từ “
đường”
- Để có được kết luận đúng, trước hết giáo viên cần giúp học sinh tìm hiểu
nghĩa của các từ “đường” (1) “đường” (2), “đường” (3) là gì?


- Giáo viên yêu cầu giải nghĩa chính xác các từ “đường” như trên, các em
phải có vốn từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy trong dạy học tất cả các môn, tôi
luôn chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức
tích lũy cho mình vốn sống .
- Không phải đối tượng học sinh nào cũng có vốn sống , vốn từ phong phú
nên số học sinh không huy động được vốn từ của mình có thể cho các em sử
dụng tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ.
Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy:
Từ “đường” (1): chỉ một chất có vị ngọt.
Từ “đường” (2) chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin
liên lạc.
Từ “đường” (3) chỉ lối đi cho các phương tiện, người, động vật.
- Nếu từ điển một số em không có hay céc em chưa hiểu cụ thể thì tôi cho
quan sát hình ảnh của 3 từ đường trong 3 ví dụ trên.
Bước 2:Dựa vào mức độ cụ thể, trừu tượng của từ để phân biệt nghĩa
gốc - nghĩa chuyển của từ “đường”
- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện
tượng hoặc các em có thể cảm nhận được bằng giác quan thì từ đó được dùng
theo nghĩa gốc. Dựa vào điều này, các em sẽ chỉ ra từ “đường” (3) trong “ngoài
đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” mang nghĩa gốc.
- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện
tượng có nét nghĩa chung với nghĩa gốc thì ở đây các em sẽ thấy được từ
“đường” (2) chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc.
Với hai bước trong biện pháp trên, các em biết kết quả sẽ là :

Từ “đường” (1) và từ “đường” (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau, không
có nét nghĩa chung – kết luận hai từ này là từ đồng âm
Tương tự như trên từ “đường (1) và từ “đường” (3) cũng hoàn toàn khác
nhau về nghĩa nên hai từ nay cũng là từ đồng âm
Từ “đường” (2) và từ “đường” (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên
cơ sở của từ “đường” (3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ “đường” (2) có nghĩa
truyền đi theo vệt dài (dây dẫn). Như vậy từ “đường (3) là nghĩa gốc, còn từ
“đường” (2) là nghĩa chuyển – kết luận “đường” (2) và “đường” (3) là từ nhiều
nghĩa
2.3.3. Biện pháp 3. Xây dựng phương pháp dạy về từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa
Trong quá trình dạy học các bài Từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, ngoài việc
chuẩn bị kế hoạch lên lớp chu đáo, chi tiết cùng với vốn từ ngữ phong phú của
gaios viên thì bản thân giáo viên khi thực hiện tiết dạy cần kết hợp linh hoạt các
phương pháp, hình thức dạy học tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và
câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:


- Phương pháp hỏi đáp.
- Phương pháp giảng giải.
- Phương pháp trực quan.
- Phương pháp thực hành.

- Hình thức học cá nhân.
- Thảo luận nhóm.
- Tổ chức trò chơi.

a. Dạy dạng bài hình thành kiến thức mới
Khi dạy bài Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, giáo viên cần thực hiện theo
quy trình các bước

Bước 1: Cho học sinh nhận biết, phân tích ngữ liệu để phát hiện
những dấu hiệu bản chất của từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.
Bước 2: Rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu
khái niệm
Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự lấy thêm ví dụ về các trường
hợp từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa.
Qua việc học sinh tự lấy thêm ví dụ, giáo viên có thể nắm bắt được mức
độ hiểu bài của học sinh và có thể giúp các em giải quyết các trường hợp các em
còn nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Bước 4: Luyện tập, củng cố kiến thức thông qua các bài tập.
Trong chương trình sách giáo khoa, bài từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau
bài “từ đồng âm”. Để giúp học sinh tránh sự nhầm lẫn từ đồng âm với từ nhiều
nghĩa thì ngay khi dạy bài Từ đồng âm, giáo viên có thể đưa thêm ví dụ về các
trường hợp không phải đồng âm để các em nhận xét.
Ví dụ : Dạy bài Từ nhiều nghĩa
Bước 1: Cho học sinh nhận biết, phân tích ngữ liệu để phát hiện
những dấu hiệu bản chất của từ nhiều nghĩa.
- Ở bước này, thông thường tôi thường sử dụng biện pháp dạy học : hỏi
đáp, giảng gải, trực quan.
Bài tập1 phần nhận xét : HS tìm hiểu nghĩa của các từ : tai, răng, mũi với
các nét nghĩa.
A- Từ
B- Nghĩa
Tai
a/ Bộ phận ở hai bên đầu người hoặc động vật dùng để nghe.
Răng
b/ Phần xương cứng, màu trắng, mọc trên hàm, dùng để cắn, giũ
và nhai thức ăn.
Mũi
c/ Bộ phận nhô lên ở giữa mặt người hoặc động vật có xương

sống, dùng để thở và ngửi.
Bài tập 2 Phần nhận xét : Từ việc nắm nghĩa ở bài tập 1, việc thực hiện
bài tập 2 là dễ dàng với học sinh thông qua biện pháp trực quan, học sinh được
quan sát hình ảnh : răng chiếc cào, mũi thuyền rẽ nước, tai của chiếc ấm. Nghĩa
của các từ tai, răng, mũi không giống ở bài tập 1.


Giáo viên hỏi : Nghĩa của từ răng, tai,mũi ở bài tập 1 và 2 có gì giống
nhau ?
Đây là một câu hỏi để các em bắt đầu tiếp cận với nét nghĩa chung của 2
bài tập trên nên tôi yêu cầu học sinh phải thảo luận để rút ra điểm giống nhau :
+ Răng : đều chỉ vật nhọn, sắc, sắp thành hàng.
+ Tai : Cùng chỉ bộ phận mọc ở hai bên chìa ra như tai người.
+ Mũi : Cùng chỉ bộ phận có đầu nhọn nhô ra phía trước.
Bước 2: Rút ra các đặc điểm của từ nhiều nghĩa và nêu khái niệm :
Gv : như vậy các Nghĩa các từ tai, răng, mũi ở bài tập 1 là nghĩa gốc.
Nghĩa các từ tai, răng, mũi ỏ bài tập2 là nghĩa chuyển.
Học sinh tổng hợp rút ra được khái niệm từ nhiều nghĩa và nắm được
nghĩa gốc, nghĩa chuyển.
Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự lấy thêm ví dụ về các trường
hợp từ nhiều nghĩa.
Qua việc học sinh tự lấy thêm ví dụ, giáo viên có thể nắm bắt được mức
độ hiểu bài của học sinh và có thể giúp các em giải quyết các trường hợp các em
còn nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Đối tượng các em hoàn thành tootslaays ví dụ về từ nhiều nghĩa( chỉ các
bộ phận của người : Từ tay Ví dụ : Tay ghế, tay áo, tay bị đau đều là từ nhiều
nghĩa
Bước 4: Luyện tập, củng cố kiến thức thông qua các bài tập.
Bài tập :Xác định nghĩa từ ăn trong câu nào là nghĩa gốc, nghĩa chuyển?
a) Bữa tối, nhà em thường ăn cơm muộn.

b)Xe này ăn xăng quá!
c) Mẹ tôi là người làm công ăn lương.
Để củng cố kiến thức qua bài tập luyện tập, tôi yêu cầu học sinh dựa vào
dấu hiệu vào mức độ cụ thể, trừu tượng để thực hiện bài tập:
- Ăn: chỉ hoạt động từ đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong
câu a, là hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) Từ “ăn” trong câu a, được dùng
theo nghĩa gốc.
- Ăn: chỉ hoạt động tiêu thụ năng lượng để máy móc hoạt động. Hành
động “ăn” trong câu b, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ “ăn”
trong câu b, được dùng theo nghĩa chuyển.
- Hành động ăn trong câu c, là hành động trừu tượng (không dùng
miệng). Từ “ăn” trong câu c, được dùng theo nghĩa chuyển.
Như vậy, từ “ăn” nào chỉ hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) thì từ đó
được dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những
từ dùng theo nghĩa chuyển.
Khi dạy bài từ nhiều nghĩa, sau khi học sinh đã nắm được khái niệm
cũng như đặc điểm cửa từ nhiều nghĩa, giáo viên có thể cho học sinh tìm ra


những điểm giống nhau và khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, đồng
thời có thể đưa thêm ví dụ giúp học sinh hiểu rõ hơn bản chất của từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa. Nội dung này, tôi thực hiện vào phần củng cố tiết học.
Ví dụ:
- Từ “chỉ” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay từ nhiều nghĩa?
Vì sao?
Sợi chỉ - chiếu chỉ - chỉ đường – một chỉ vàng
Ở bài tập này, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để
khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều
nghĩa. Sau khi học sinh trả lời giáo viên chốt lại từ “chỉ” trong các trường hợp
trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ “chỉ” trong mỗi trường hợp hoàn toàn

khác nhau, không có quan hệ về nghĩa.
b. Dạy dạng bài Luyện tập
Ở dạng loại hình tiết Luyện tập kiến thức từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
(chủ yếu là từ nhiều nghĩa), tôi thường sử dụng các phương pháp thảo luận, trò
chơi, phương pháp loại trừ, sử dụng từ điển Tiếng Việt, sử dụng phiếu học tập…
và các phương tiện dạy học như : ti vi, máy chiếu. Với những phương pháp,
phương tiện dạy học đổi mới này sẽ giúp học sinh nắm kiến thức , kĩ năng cơ
bản, kiến thức kĩ năng nâng cao được dễ hiểu và dễ nhớ hơn. Trong tiết luyện
tập, mục đích quan trọng là củng cố khắc sâu cho học sinh trong quá trình thực
hành bài tập theo từng đối tượng học sinh- giáo viên cần cá thể hóa trình độ học
sinh trong tiết học.
- Đối với đối tượng học sinh đạt mức hoàn thành : Các em cần được
tiếp xúc và thực hiện tốt các bài nhận diện và hiểu kiến thức một cách trực tiếp.
Ví dụ : Bài 1 ( tiết Luyện tập từ nhiều nghĩa) : Tìm ở cột B lời giải
nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở cột A.
A
B
1. Bé chạy lon ton trên sân
a. Hoạt động của máy móc
2. Tàu chạy băng băng trên đường ray b. Khẩn trương tránh những điều
3. Đồng hồ chạy đúng giờ
không may sắp xảy đến
4. Dân làng khẩn trương chạy lũ
c. Sự di chuyển nhanh của phương
tiện giao thông
d. Sự di chuyển nhanh bằng chân.
Đáp án: 1-d, 2-c, 3-a, 4-b
Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để
nối những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận
thấy trước. Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể

vận dụng cả phương pháp loại trừ.
Để nhận diện được một từ nào đó có phải là nghĩa chuyển được hiểu
rộng từ nghĩa gốc của từ đó hay không.


Đối với đối tượng học sinh tiếp thu nhanh ở mức hoàn thành tốt : Giáo
viên hướng dẫn học sinh tìm ra những nét giống nhau trong ý nghĩa của các từ.
Nếu từ đó có nét giống so với nghĩa ban đầu thì từ đó được dùng theo nghĩa
chuyển. Các từ chạy ở câu 2,3,4 là nghĩa chuyển và tìm ra nét nghĩa chung nhất
của từ chạy
Nếu từ đó có nghĩa hoàn toàn khác xa với nghĩa ban đầu thì từ đó là từ
đồng âm.
2.3.4. Biện pháp 4 : Xây dựng, bổ sung hệ thống bài tập về từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Để giúp
học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, ngoài các bài tập trong
sách giáo khoa, giáo viên cần xây dựng hệ thống bài tập giúp học
sinh khắc sâu kiến thức của từng bài. Các bài tập này giáo viên có thể hướng
dẫn cho học sinh trong các tiết Thực hành Tiếng Việt. Với cùng một ngữ liệu
song giáo viên có thể chủ động đưa ra yêu cầu phù hợp với từng giai đoạn học
tập hay phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh giúp học sinh khắc sâu kiến
thức, giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh.
Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ
Bài tập dạy bài: Từ đồng âm
Bài tập: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau:
Cánh đồng (1) – tượng đồng (2) – một nghìn đồng (3)
Bài tập này, giáp viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi
trường học: “đồng” (1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cấy, trồng
trọt. “đồng” (2) là kim loại; “đồng” (3) là đơn vị tiền tệ Việt Nam.
- Nghĩa của các từ “đồng” trong các trường hợp trên hoàn toàn khác

nhau, vậy chúng là những từ đồng âm.
Bài tập dạy bài: Từ nhiều nghĩa
Bài tập 2: Tìm từ có thể thay thế từ “ăn” trong các câu sau:
- Cả nhà ăn tối chưa?
- Loại ô tô này ăn xăng lắm
- Tàu ăn hàng ở cảng
- Ông ấy ăn lương rất cao
- Câu làm như vậy dễ ăn đòn lắm
- Da cô ấy ăn nắng quá
- Hồ dán không ăn
- Hai màu này rất ăn với nhau
- Rễ tre ăn ra tới ruộng
- Mảnh đất này ăn về xã bên
- Một đô la ăn mấy đồng Việt Nam.


Với các bài tập trên, sau khi học sinh đã học cả 2 bài từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa, giáo viên có thể thay đổi yêu cầu, nâng cao mức đội của bài tập,
giúp học sinh khắc sâu kiến thức, khắc phục những nhầm lẫn về từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa.
Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hay phân biệt từ nhiều nghĩa

Bài tập 1: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước, chiếu, kén
Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít
nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
VD: - Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm
- Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.
Dạng 3: Phân biệt quan hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa
Bài tập 1: Trong các từ in đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng
âm, những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?

- Giá vàng (1) nước ta tăng đột
biến - Tấm lòng vàng (2)
- Ông tôi mua một bó vàng (3) lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải sản.
Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng”
rồi xác định mối quan hệ giữa chúng.
Từ “vàng” (1) và “vàng” (2) có quan hệ là từ nhiều nghĩa, từ “vàng” (3)
từ “vàng” (1) có quan hệ là từ đồng âm
Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho
Bài tập 1: Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi
câu ở cột A.
A
B
1. Bé chạy lon ton trên sân
a. Hoạt động của máy móc
2. Tàu chạy băng băng trên đường ray b. Khẩn trương tránh những điều
3. Đồng hồ chạy đúng giờ
không may sắp xảy đến
4. Dân làng khẩn trương chạy lũ
c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện
giao thông
d. Sự di chuyển nhanh bằng chân.
Đáp án: 1-d, 2-c, 3-a, 4-b
Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để
nối những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận
thấy trước. Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể
vận dụng cả phương pháp loại trừ.
Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên.
Tuy vào từng thời điểm, tùy từng đối tượng học sinh, giáo viên có thể đưa ra
mức yêu cầu khác nhau.



b. Cách bổ sung các dạng bài cho học sinh
* Đối với tiết dạy chính : Mục đích của tiết chính khóa là thực hiện
hoàn thành chuẩn kiến thức , kĩ năng của đơn vị kiến thức (từ đồng âm hoặc từ
nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa). Để đảm bảo được mục
đích này, ngoài hệ thống bài tập của SGK , tôi bổ sung các dạng bài tập cụ thể
với các đối tượng học sinh :
- Đối với đối tượng học sinh đại trà : Dạng 1 phân biệt nghĩa của từ ,
dạng 4 nối từ với nghĩa đã cho và dạng 2 đặt câu để phân biệt nghĩa. Áp dụng
loại hình bài tập này để thực hiện sau khi rút ra kiến thức mới ( kiểm tra việc
nắm khái niệm phần ghi nhớ của học sinh) và đưa vào phần củng cố cuối tiết
học thường áp dụng cho đồng loạt các đối tượng học sinh trong lớp nhất là các
học sinh ở mức hoàn thành.
- Đối với đối tượng học sinh mức độ hoàn thành tốt: Tôi cho các em
hoàn thành hết số lượng bài tập của sách giáo khoa , có cả phần giảm tải (Tiết
10- tuần 5 : Bài từ đồng âm). Ở bài tập 3,4 của tiết này, đối tượng học sinh năng
khiếu phải nêu được tác dụng của từ đồng âm.
* Đối với tiết thực hành Tiếng Việt : Mục đích của tiết học thực hành
giúp củng cố kiến thức theo chuẩn cho học sinh và nâng cao cho đối tượng năng
khiếu nên tôi đã áp dụng các dạng sau :
- Đối với đối tượng học sinh ở mức độ hoàn thành : Đưa hệ thống dạng
3 bài tập Phân biệt quan hệ từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để các em nắm sâu và
hiểu bản chất về nghĩa của từ. Ở tiết này, tôi tập trung dạy dạng nhận diện, phân
biệt nghĩa của từ.
Ví dụ : Những từ cánh, chân, lưng trong bài thơ sau đây được dùng với
nghĩa gốc hay nghĩa chuyển?
Bên nay là núi uy nghiêm
Bên kia là cánh đồng liền chân
mây Xóm lành xanh mát bóng cây
Song xa trắng cánh buồm bay lưng trời.

(Các từ in đậm trong các trường hợp trên được dùng với nghĩa chuyển
- Đối với đối tượng học sinh hoàn thành tốt: Cũng nhận diện và hiểu về
nghĩa của từ nhiều nghĩa, tôi không yêu cầu nhận diện trực tiếp mà yêu cầu các
em phải qua bước hiểu thay thế được từ với mức độ cao hơn.
Bài tập 1: Tìm từ có thể thay thế từ “ăn” trong các câu sau:
- Cả nhà ăn tối chưa?
- Loại ô tô này ăn xăng
lắm - Tàu ăn hàng ở cảng
- Ông ấy ăn lương rất cao
- Câu làm như vậy dễ ăn đòn
lắm - Da cô ấy ăn nắng quá


- Hồ dán không ăn
- Hai màu này rất ăn với nhau
- Rễ tre ăn ra tới ruộng
- Mảnh đất này ăn về xã bên
- Một đô la ăn mấy đồng Việt Nam.
Với các bài tập trên, sau khi học sinh đã học cả 2 bài từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa, giáo viên có thể thay đổi yêu cầu, nâng cao mức đội của bài tập,
giúp học sinh khắc sâu kiến thức, khắc phục những nhầm lẫn về từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa.
* Một số nội dung nâng cao: Trường hợp dùng từ đồng âm để chơi chữ
Trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5, bài “Dùng từ đồng âm để chơi
chữ” đã được cắt bỏ theo chương trình giảm tải, tuy nhiên ngoài các tiết dạy
chính khóa, nếu có điều kiện, giáo viên có thể cho học sinh làm quen với dạng
bài tập này, giúp làm phong phú vốn từ của học sinh và khắc sâu hơn kiến thức
về từ đồng âm.
* Đối với việc hướng dẫn tự học ở nhà
Hướng dẫn các em hệ thống dạng bài tập về từ nhiều nghĩa phân biệt

nghĩa( ở hai mức độ cho HS tiếp thu chưa nhanh và bộ phận lớn học sinh còn lại
cần được nâng cao).Ví dụ :
Bài tập 1: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm: bàn, cờ, nước, chiếu, kén
Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít
nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
VD: - Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm
- Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.
Bài tập 2: Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “đứng” Đứng:
Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền
Nghĩa 2: Ngừng chuyển động
Giáo viên có thể gợi ý nghĩa 1, nói tới một tư thế của người hoặc động
vật. Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học
sinh có thể đặt câu.
Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ
Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại
Bài tập 3: Với mỗi nghĩa dưới đây của từ cân hãy đặt một câu
- Dụng cụ đo khối lượng (câu là danh từ)
- Hoạt động đo khối lượng bằng cái cân (cân là động từ)
- Có hai phía nang bằng nhau, không lệch (cân là tính từ)
2.3.5 Biện pháp 5 : Tổ chức các hoạt động ngoại khóa giúp học sinh
dễ hiểu và nhớ nội dung kiến thức, kĩ năng phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa.


Hoạt động ngoại khóa bao giờ cũng đem đến cho học sinh sự hứng
thú. Mục đích học tập được truyền tải qua hoạt động này giúp các em đến với
kiến thức một cách tự nhiên và tự nguyện để các em nắm kiến thức một cách dễ
hiểu. Xét về kiến thức nghĩa của từ ,học sinh tiểu học nắm nghĩa của từ là một
vấn đề rất khó khăn và trừu tượng. Chính vì vậy, tôi nghĩ tạo sân chơi cho các
em để HỌC -VUI, VUI-HỌC, kiến thức vào đầu các em một cách dễ dàng và

được khắc sâu hơn qua các hoạt động. Một số hoạt động ngoại khóa mà khối 5Trường Điện Biên I đã tổ chức để hỗ trợ các em trong phần kiến thức từ đồng
âm, từ nhiều nghĩa :
Câu lạc bộ Em yêu Tiếng Việt ( Khối 4, 5) phạm vi khối.
Chương trình Rung chuông Vàng
Chương trình vòng quay kì diệu.
Chương trình giải đố sự phong phú của Tiếng Việt.
Chương trình nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông.
Ở hoạt các động này, tôi đã sử dụng một số trường hợp dùng từ đồng âm
để chơi chữ, nắm các từ loại để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Về từ
nhiều nghĩa thì các em có thể quan sát một số hình ảnh( là các bộ phận, hoạt
động) để nêu từ đặc trưng của nhóm hình ảnh đó.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN

Qua việc mạnh dạn đưa ra và thực hiện những biện pháp giúp học sinh
lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bản thân tôi thấy sáng kiến đã đạt
được những hiệu quả khả quan.
Đối với học sinh, tạo được sự hứng thú học tập, sự tìm tòi về về nghĩa
của từ. Chính vì thế, chất lượng môn Tiếng Việt đã được nâng cao. Kiến thức và
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em đã nắm vững và biết cách phân biệt dựa
trên một số dấu hiệu nêu trên. Kết quả trong các kì giao lưu giữa các lớp trong
khối 5 được nâng cao.
Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường, qua thực tế thực nghiệm
một số biện pháp dạy học nói trên, bản thân tôi và các đồng nghiệp đã nắm rõ
hơn về kiến thức, nguồn gốc của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Nội dung kiến
thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa khi nói tới trong sinh hoạt chuyên môn
không còn lung túng như trước đây nữa. Bản thân giáo viên dạy lớp 5 đã năng
động sáng tạo hơn khi dạy cho học sinh nội dung này. Trong quá trình giảng dạy,
tôi tự nhận thấy bản thân đã tích cực đổi mới trong phương pháp day học loại
kiến thức này. Tuy thời gian thực hành dạy học Tiếng Việt trên lớp không có
nhiều như trước đây nữa nhưng với những hình thức, biện pháp được áp dụng

như trên, chúng tôi thấy dạy kiến thức từ đồng âm và từ nhiều nghĩa không còn
lung túng nữa.Thực hiện. áp dụng sáng kiến này, chúng tôi đã góp phần cho
trường Tiểu học Điện Biên I nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt.


III . KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN

Việc viết sáng kiến kinh nghiệm là một hoạt động phát huy được óc sáng
tạo của giáo viên giúp cho giáo viên luôn sát sao học sinh, nắm được thực trạng,
nguyên nhân kết quả học tập của các em để từ đó giúp các em học tập tiến bộ
hơn.Thực hiện tốt việc viết sáng kiến kinh nghiệm, giáo viên đã góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt. Ngoài ra đây còn là hoạt động góp
phần vào sự nghiệp: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Trong đề tài sáng kiến này, tôi xin chia sẻ với đồng nghiệp một số kinh
nghiệm công việc mà tôi đã đặc biệt quan tâm trong thời gian vừa qua đó là:
Tìm hiểu nguyên nhân học sinh thường gặp khó khăn phân biệt từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa.
Giúp học sinh nắm vững khái niệm kiến thức từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
Xây dựng pương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa( với hai loại
hình tiết dạy : Dạng xây dựng kiến thức mới và dạng ôn tập)
Xây dựng hệ thống bài tập từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bổ sung vào tiết
dạy trên lớp hay hoạt động ngoại khóa hoặc hướng dẫn tự học.
Bản thân tôi cũng nhận thấy khi giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa thì việc áp dụng các giải pháp trên là hợp lí đối với học
sinh.
3.2. Kiến nghị
Là một giáo viên, bản thân mỗi chúng ta nên thường xuyên tự học, tự bồi
dưỡng, những gì mình băn khoăn trăn trở nhất thì mình càng cần đầu tư thời
gian nghiên cứu, học hỏi để thấu hiểu ngọn ngành.

Để dạy có hiệu quả các nội dung về nghĩa của từ, chúng ta nên tích luỹ
cho mình những kiến thức từ đơn giản đến chuyên sâu về từ, trau dồi vốn từ
phong phú, học hỏi các phương pháp, biện pháp dạy học có hiệu quả của đồng
nghiệp.
Lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng HS. Trong đời sống
hàng ngày, nên để ý đến một số hiện tượng về từ như đồng âm, từ nhiều nghĩa,
từ đồng nghĩa, trái nghĩa để có thêm tư liệu dạy học.
Nghiên cứu kĩ chương trình sách giáo khoa, các tài liệu dạy học để thấy
sự thống nhất và phát triển trong các kiến thức về phân biệt từ đồng âm với từ
nhiều nghĩa ở lớp 5. Nhờ phân tích chương trình, giáo viên nắm được hệ thống
kĩ năng làm bài tập thực hành phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa.
Xác định được mục đích, nhiệm vụ của tiết học và mục đích của từng bài
tập quan hệ với mục đích của tiết học. Xác định tốt mục đích của từng bài tập,
từng tiết học sẽ chi phối quá trình dạy học từ khâu soạn bài đến từng bước lên


lớp của giáo viên, chi phối việc lựa chọn câu hỏi, cách thức giao bài tập, tổ chức
hoạt động cho học sinh.
Chỉ ra các thao tác cần thực hiện mục đích là giúp cho học sinh chọn lọc
những ý chính để đưa vào bài tập thực hành, gạt bỏ những cái phụ. Dự tính
những khó khăn, những lỗi của học sinh; dẫn dắt đưa phương án đê học sinh
phát huy cao hơn. Từ đó đảm bảo 100% học sinh hoàn thành bài tập trở lên.
Soạn giáo án: bài soạn càng khoa học, càng chi tiết, phân rõ và cụ thể hóa
đối tượng học sinh thì càng đảm bảo sự thành công của giờ dạy.
Lên lớp: Trong giờ dạy phải luôn có thái độ khích lệ, động viên, thông
cảm. Luôn nhấn mạnh vào những mặt thành công của học sinh để học sinh có
hứng thú trong học tập.
Để đạt hiệu quả trong bài tập thực hành phân biệt từ đồng âm với từ
nhiều nghĩa cho học sinh lớp 5 đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của từng giáo viên
đứng lớp. Nó không chỉ phụ thuộc vào hệ thống bài tập hay câu hỏi mà còn phụ

thuộc vào sự tổ chức tốt giờ học, sự linh hoạt mềm dẻo của từng giáo viên trong
quá trình giảng dạy đồng thời tiến hành một cách bài bản, thường xuyên, có hệ
thống trong từng tiết học.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép của người
khác.
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 4 năm
2017 Người viết :
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị

Lê Thị Hà


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Trần Ái (2004), Phương pháp dạy môn Tiếng Việt Tiểu học, NXB
Giáo dục Việt Nam.
2. Lê Phương Nga (2006), Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học Phương pháp dạy học Tiếng Việt, Giáo trình đào tạo giáo viên Tiểu học hệ Cao
đẳng Sư phạm và Sư phạm 12 + 2, NXB Giáo dục.
3. Trần Mạnh Hưởng - Lê Hữu Tỉnh (2005), Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng
Việt 5, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Lê Phương Nga (chủ biên) (2006), Tiếng Việt 5 nâng cao, NXB Giáo
dục.
5. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) (2004), Hỏi - Đáp về dạy học Tiếng
Việt 5, NXB Giáo dục.


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả:
Lê Thị Hà

Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Điện Biên 1
Kết quả
đánh giá
giá xếp loại xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
(Phòng, Sở, (A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
Một số biện pháp rèn kĩ năng Phòng
B
đọc thành tiếng cho học sinh GD&ĐT TP
lớp 3- Phân môn Tập đọc
Thanh Hóa
2.
Một số biện pháp giúp học
Phòng
B
sinh lớp 4-5 chữa bài trong
GD&ĐT TP
tiết trả bài tập làm văn.
Thanh Hóa
3.
Một số giải pháp sử dụng
Sở GD&ĐT C
kênh hình trong dạy học phân Thanh Hóa
môn Lịch sử lớp 4.
Cấp đánh


Năm học
đánh giá xếp
loại
2003-2004

2008-2009

2012-2013



×