Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN giúp học sinh lớp 1 học tốt dạng giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.81 KB, 21 trang )

A.MỞĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Bậc tiểu học là bậc học rất quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc
hình thành nhân cách ở học sinh tiểu học. Trên cơ sở cung cấp những tri thức
ban đầu về tự nhiên và xã hội, phát triển các năng lực nhận thức, trang bị các
phương pháp và kĩ năng ban đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn,
bồi dưỡng tình cảm. Mục tiêu nói trên được thực hiện thông qua việc dạy, học
các môn học và thực hiện các hoạt động có định hướng theo yêu cầu giáo dục.
Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí
quan trọng. Toán học có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận
thức cần thiết cho đời sống sinh hoạt. Đó là công cụ để học các môn học khác và
nhận thức thế giới xung quanh.
Môn Toán có khả năng giáo dục lớn, nó có nhiều khả năng để phát triển tư
duy lô gíc, bồi dưỡng và phát triển các thao tác trí tuệ cần thiết để nhận thức thế
giới thực như trừu tượng hoá, khái quát hoá, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự
đoán. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện phương pháp giải quyết các vấn
đề có căn cứ khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng trong việc phát
triển trí thông minh, tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo trong việc hình thành và
rèn luyện nề nếp, sáng tạo có phong cách và tác phong làm việc khoa học, hình
thành nhân cách của con người mới. Với mỗi người giáo viên vấn đề quan trọng
không phải chỉ làm sao dạy được cho học sinh các kiến thức trong chương trình
mà còn phải nắm vững khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán có ý thức và
kế hoạch khai thác khả năng giáo dục đó thông qua các biện pháp sư phạm cụ
thể nhằm góp phần đào tạo học sinh thành những người có nhân cách, phát triển
toàn diện.
Trên quan điểm đó, để giúp các em học tốt môn Toán thì giáo viên cần
biết lựa chọn, vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù
hợp để phát huy hiệu quả nhất trong từng bài dạy nhằm gây hứng thú cho học
sinh, giúp các em biết vận dụng những điều đã học vào đời sống thực tiễn, từ đó
sẽ làm nảy sinh hoạt động sáng tạo.
Là một giáo viên dạy lớp 1, bản thân tôi nhận thấy môn Toán là một trong


những môn häc có tầm quan trọng đặc biệt, nhất là đối với học sinh lớp 1 lại
càng quan trọng hơn. Kiến thức Toán ở lớp 1 là kiến thức bước đầu từ nhận biết
các số, dấu phép tính, nhận biết một số hình… và n©ng cao dần thực hiện các
phép tính cộng, trừ và giải toán, bên cạnh đó môn Toán còn góp phần vào phát
triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích
cho các em trí tưởng tượng, óc khám phá, hình thành nhân cách cho các em.
Thấy được tầm quan trọng của môn Toán nên tôi đã đi sâu tìm hiểu, học
hỏi và nghiên cứu ra những biện pháp mới để giảng dạy môn Toán thật tốt giúp
học sinh chủ động tiếp thu môn Toán một cách nhẹ nhàng thông qua hoạt động
học tập, giúp học sinh sáng tạo trong giải toán. Mà đặc biệt là việc giải bài toán
1


có lời văn đối với học sinh lớp 1.
Xuất phát từ những vÊn đề trên năm học 2013 – 2014 tôi bắt đầu nghiên
cứu về giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1. Năm học 2014 – 2015 tôi thực
hiện đề tài này và qua hai năm áp dụng tôi xin mạnh dạn trình bày một số biện
pháp “Giúp học sinh lớp một học tốt dạng giải toán có lời văn” lên ban Giám
hiệu, Hội đồng khoa học các cấp và quý thầy cô giáo đồng nghiệp cùng tham
khảo.
II. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu việc dạy học giải toán có lời văn nhằm phát hiện những khó
khăn, hạn chế còn tồn tại cả về nội dung và phương pháp. Từ đó có những đóng
góp và bổ sung, điều chỉnh cách hướng dẫn học sinh để nâng cao hiệu quả giảng
dạy.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, tăng cường
hoạt động cá thể, phối hợp với học tập giao lưu. Hình thành và rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Dạy giải bài toán có lời văn là giúp học sinh lớp 1 dễ hiểu và nhớ lâu

cách giải bài toán, nó góp phần gây hứng thú học tập môn Toán cho học sinh,
một môn học được coi là khô khan, hóc búa. Từ đó giúp các em lĩnh hội được tri
thức, củng cố và khắc sâu tri thức môn học.
Cụ thể:
+ Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của một bài toán có lời văn lớp 1.
+ Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán.
+ Giải toán đơn về thêm (bớt) bằng một phép tính cộng (trừ).
+ Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số.
+ Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau.
III. Đối tượng nghiên cứu :
-Đối tượng: Học sinh khối Mét, đặc biệt là học sinh lớp 1A năm học
2013 – 2014 và 2014 - 2015 Trường Tiểu học Bắc Lương – Thọ Xuân.
- Tài liệu : + Sách giáo khoa Toán 1.
+ Sách giáo viên Toán 1.
+ Chuẩn kiến thức kĩ năng Toán lớp 1.
+ Vở bài tập Toán của học sinh khối 1
+ Các phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học.
IV. Phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau :
a. Phương pháp điều tra: Giáo viên thường bước đầu tìm hiểu thông tin
về học sinh như hoàn cảnh gia đình, năng khiếu, năng lực học tập của các em.
Thông qua đó giáo viên lên kế hoach, biện pháp thực hiện.
b. Phương pháp trực quan: Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt
động trực tiếp bằng trực quan trên các hình ảnh, hiện tượng, vật cụ thể để dựa
vào đó nắm bắt được kiến thức, kĩ năng của môn Toán.
c. Phương pháp gợi mở vấn đáp: Là phương pháp sử dụng một hệ thống
2


các câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ, lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng

bước dẫn đến kết luận cần thiết, giúp học sinh tự mình tìm ra kiến thức mới.
d. Phương pháp giảng giải minh hoạ: Phương pháp này dùng lời nói để
giải thích, kết hợp với các phương tiện trực quan để hỗ trợ cho việc giải thích.
e. Phương pháp thực hành luyện tập: Là phương pháp dạy học liên quan
đến hoạt động thực hành luyện tập các kiến thức, kĩ năng của môn học, chiếm
60% tổng thời gian dạy học Toán. Vì vậy phương pháp này được thường xuyên
sử dụng trong dạy học Toán ở tiểu học, giúp học sinh được luyện tập, thực hành
như:
- Làm trên bảng lớp.
- Làm trên bảng con của học sinh.
- Luyện tập Toán trong vở .
- Làm trong phiếu học tập.

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước cần có
những con người năng động, tự tin, linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với
điều kiện đổi mới đang diễn ra hàng ngày. Trong khi đó cách dạy học theo
phương pháp cũ có sự mất cân đối giữa hoạt động của thầy và hoạt động của trò,
có những hạn chế nhất định như tiếp thu trí thức thụ động, hạn chế phát triển tư
duy, không bộc lộ và phát triển năng lực cá nhân. Vì vậy cùng với đổi mới nội
dung chương trình thì đổi mới phương pháp dạy học có vị trí hết sức quan trọng
và cần thíết là việc làm thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục.
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Toán nói riêng, người giáo
viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt
động học tập để phát triển năng lực cá nhân. Giáo viên tổ chức hướng dẫn học
sinh, huy động vốn hiểu biết và kinh nghiệm bản thân để học sinh chiếm lĩnh tri
thức rồi vận dụng các tri thức đó trong thực hành. Tạo cho học sinh thói quen
làm việc tự giác, chủ động, không rập khuôn, máy móc, biết tự đánh giá và đánh
giá kết quả học tập của mình, của bạn. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin,

niềm vui trong học tập. Đồng thời tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực
sở trường của mình, biết ứng dụng kiến thức mới trong bài học vào thực tế.
Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học không loại bỏ phương pháp dạy học
truyền thống mà phải vận dụng một cách hợp lý biết cách lồng ghép giữa
phương pháp cũ và phương pháp mới thông qua hoạt động học tập của học sinh,
từ đó các em thu nhận tri thức mới và rèn luyện phát triển kĩ năng mới.
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc
nhau, có liên quan tới cuộc sống xảy ra hằng ngày. Cái khó của bài toán có lời
văn là ở chỗ: làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã che đậy
bản chất toán học của bài toán. Hay nói một cách khác là làm sao phải chỉ ra
được các mối quan hệ giữa các yếu tố toán học chứa đựng trong bài toán và tìm
3


được những câu lời giải, những phép tính thích hợp, từ đó tìm ra được đáp số của
bài toán. Hiện nay do nhu cầu đổi mới giáo dục nên ngay từ lớp 1, học sinh đã
được làm quen với việc giải toán có lời văn, đây là một bước nhảy vọt khá lớn
trong chương trình môn Toán ở Tiểu học. Việc dạy các em nắm bắt được cách giải
bài toán có lời văn ngay từ lớp 1là việc làm thiết thực, giúp các em dễ dàng tiếp
thu, tôi luyện và trang bị kiến thức để các em tiếp tục học tốt ở các lớp sau.
Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến
thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng
vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán
học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra yêu cầu cho học sinh
đọc - hiểu - biết hướng giải, đưa ra câu lời giải kèm phép tính và đáp số của bài
toán.
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết dạy học Toán không chỉ giúp các em biết tính toán
mà còn giúp các em phát triển các năng lực trí tuệ như: Quan sát, so sánh, phân

tích, tổng hợp. Song để đạt hiệu quả cao trong dạy học Toán không phải là dễ,
nó đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình
thức dạy học sao cho phù hợp với các đối tượng học sinh, phù hợp với từng nội
dung bài học, đặt biệt là phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh.
Theo bản thân tự thống kê, trong chương trình Toán 1: Từ tuần 18 đến hết
tuần 28. Giai đoạn này học sinh học về các số trong phạm vi 100, đo độ dài, giải
bài toán. Đặc biệt là tiết 84 (tuần 21) học sinh học về giải toán có lời văn.
Từ tuần 29 đến hết tuần 35. Học sinh học về phép cộng, phép trừ trong
phạm vi 100, đo thời gian. Giai đoạn này học sinh thường xuyên được rèn luyện
kĩ năng giải toán có lời văn.
Qua dự giờ thăm lớp, trao đổi một số kinh nghiệm với các đồng chí giáo
viên trong khối 1, qua tìm hiểu sách báo, tài liệu, qua kinh nghiệm thực tế giảng
dạy ở trường tôi nhận thấy:
1. Về phía giáo viên.
Trong dạy học môn Toán nói chung, dạy học giải toán có lời văn nói
riêng, hình thức tổ chức các hoạt động học tập còn đơn điệu, việc sử dụng đồ
dùng dạy học chưa cao, phương pháp dạy học chưa linh hoạt nên các em học
sinh lớp 1 nắm bài học chưa sâu, dẫn đến kết quả học tập của các em còn hạn
chế, chưa phát huy hết khả năng của mình. Sở dĩ có tình trạng trên là do bản
thân mỗi đồng chí giáo viên chưa thấy hết ý nghĩa, tác dụng vai trò của thầy
trong giờ học toán. Mà đặc biệt là một số giáo viên khi dạy học toán chưa gắn
liền hoạt động dạy học với ứng dụng thực tiễn, chưa tạo ra điều hấp dẫn để học
sinh hứng thú học tập. Còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các dạng
giải toán có lời văn, giáo viên chỉ chú trọng đi sâu vào phần hướng dẫn học sinh
trình bày bài giải mà chưa giúp các em hiểu được bài toán. Bên cạnh đó học sinh
luyện giải toán trong bảng con chưa nhiều, giáo viên chưa nhận xét kĩ những lỗi
sai của học sinh.
Tôi nghĩ rằng nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên là do giáo viên

4



ít đầu tư vào việc nghiên cứu bài giảng để chọn ra phương pháp giảng dạy cho
phù hợp với trình độ, đối tượng học sinh. Chỉ hướng dẫn học sinh tìm lời giải và
phép tính của một bài toán cụ thể mà không dạy cho học sinh cách giải (các
bước giải) của dạng toán đó như thế nào?
Từ những khó khăn đó dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao,
chưa có hứng thú lòng ham muốn phân tích, khám phá những bài toán có lời
văn. Nếu không nhanh chóng khắc phục cho các em những khó khăn này thì các
em sau này sẽ càng khó khăn hơn và như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển tư duy, trí tuệ của học sinh.
2. Về phía học sinh:
- Vào lớp 1, lần đầu tiên trẻ được tiếp xúc với toán học với tư cách là một
môn học, rèn luyện với các thao tác tư duy như là so sánh, quan sát, phân tích,...
Thật là một thử thách lớn đối với học sinh trong khi các em đọc chưa thông, viết
chưa thạo. Làm sao để các em tập trung, chú ý vào để học. Chủ yếu do 1 số
nguyên nhân sau:
+ Tư duy của học sinh còn mang tính trực quan là chủ yếu.
+ Khi về nhà phần lớn học sinh lại chưa được bố mẹ quan tâm đến bài vở
của con do đi làm vất vả hoặc muốn quan tâm nhưng không biết dạy con sao cho
đúng phương pháp dẫn đến giáo viên rất vất vả khi dạy đến dạng bài toán có lời
văn.
Mặt khác, do yếu tố chủ quan, khách quan, quá trình dạy học chưa đạt yêu
cầu để hình thành và phát triển kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh. Đây là
việc làm khó khăn đối với giáo viên. Các em đọc chưa thông, viết chưa thạo nên
việc giải toán còn nhiều tồn tại, còn thụ động máy móc, đặc biệt chưa biết ghi
câu lời giải cho phép tính hoặc có nhưng cũng còn nhiều lúng túng hoặc ghi sai.
Do đó học sinh lớp 1 thường gặp phải khó khăn khi giải các bài toán có lời văn.
Ngoài ra còn một số lý do khác từ phía học sinh: Do trình độ tư duy và
khả năng tiếp thu bài, trí nhớ của các em chưa bền vững, mới dừng lại ở mức độ

phát triển nên khi gặp bài toán có lời văn dù đơn giản hay phức tạp thì các em
đều thể hiện sự ngại khó.
3. Kết quả của thực trạng.
Năm học 2013 – 2014 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 1A. Trước khi
nghiên cứu đề tài này, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh, giao bài kiểm tra với
thời gian 20 phút với hai bài toán sau:
Bài 1: Lúc đầu tổ em có 5 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ em có tất
cả mấy bạn?
Bài 2: Nhà em có 10 con gà, đã bán đi 3 con gà. Hỏi nhà em còn lại mấy
con gà?
Hình thức kiểm tra: Học sinh đọc kỹ đề bài làm bài vào giấy.
*Kết quả khảo sát học sinh lớp 1A năm học 2013 - 2014:
Tổng
HS viết đúng
HS viết đúng
HS viết đúng
HS giải đúng
số HS
câu lời giải
phép tính
đáp số
cả 3 bước
25
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL

TL
5


18
72%
20
80%
18
72%
18 72%
T thc t chm bi kho sỏt trờn tụi thy cú nhiu hc sinh cha bit lm
bi toỏn cú li vn hon chnh. Cú em vit ỳng li gii thỡ lm sai phộp tớnh, cú
em li vit sai li gii m phộp tớnh v ỏp s li ỳng. S hc sinh lm hon
chnh mt bi toỏn cú li vn ch t 72%. Tụi nhn thy nguyờn nhõn dn n
nhng hn ch ca hc sinh trong quỏ trỡnh gii cỏc bi toỏn cú li vn l:
+ Hc sinh c c bi nhng cha hiu bi, cha bit th no l
tỡm hiu bi toỏn cú li vn.
+ Khụng bit tỡm hiu bi toỏn nh: bi toỏn cho bit gỡ? Bi toỏn hi gỡ?
+ Khụng hiu cỏc thut ng toỏn hc nh: thờm, bt, cho i, mua v, bay
i, chy n,. . . v cõu hi: Cú tt c bao nhiờu? Cũn li bao nhiờu? . . . .
+ Khụng bit túm tt bi toỏn, lỳng tỳng khi nờu cõu li gii, cú khi hc
sinh nờu li cõu hi ca bi toỏn. Khụng hiu thut ng toỏn hc nờn khụng bit
nờn cng hay tr dn n núi sai, vit sai phộp tớnh, sai n v, vit sai ỏp s.
+ Mt s em lm ỳng nhng khi giỏo viờn hi li khụng bit tr li.
Chng t cỏc em cha hiu cỏch gii bi toỏn cú li vn.
khc phc nhng hn ch cho hc sinh phỏt huy kh nng hc Toỏn
núi chung v cỏch gii nhng bi toỏn cú li vn núi riờng tụi ó tin hnh cỏc
bin phỏp sau:
III. Cỏc bin phỏp ó tin hnh gii quyt vn .

Bn thõn tụi t nhn thy vi nhng dng bi toỏn cú li vn lp 1, giỏo
viờn cn hng dn hc sinh la chn phng phỏp gii sao cho phự hp vi
c im t duy ca cỏc em. c bit, gii toỏn da vo hỡnh nh minh ha trc
quan chim u th trong vic dy gii toỏn cú li vn lp 1.
m bo tớnh va sc, khi hng dn hc sinh giỏo viờn cn yờu cu
hc sinh thụng qua cỏc bc sau:
- Biu th cỏc yu t ca bi toỏn qua túm tt.
- Nhn bit nhng yu t ó cho v yu t phi tỡm (da vo túm tt), hc
sinh t tỡm tũi tri thc.
- Phỏt hin mi quan h gia yu t phi tỡm v yu t ó cho.
- Hc sinh vn dng cỏc kin thc ó hc gii bi toỏn hoc tỡm ra cỏch
gii mi (hc sinh ch ng chim lnh tri thc).
Vỡ vy Giúp học sinh lớp một học tốt dạng giải toán có lời
văn , giỏo viờn cn trang b cho cỏc em vn kin thc c bn v cỏc ni dung
cú liờn quan.
1. Nhn bit cu to bi toỏn cú li vn.
Gii thiu bi toỏn cú li vn bng cỏch cho hc sinh tip cn vi mt
bi toỏn cha hon chnh kốm theo hỡnh v v yờu cu hon thin. T duy hc
sinh t hỡnh nh phỏt trin thnh ngụn ng, thnh ch vit. Gii toỏn cú li vn
ban u c thc hin bng phộp tớnh cng l phự hp vi t duy ca hc sinh.
Cu trỳc mt toỏn gm 2 phn: phn cho bit v phn hi, phn cho
bit gm cú 2 yu t. C th: (tit 81). Gii toỏn cú li vn (trang 115 - Sỏch
giỏo khoa Toỏn 1). Gm 4 bi toỏn cú yờu cu khỏc nhau.
6


Ở tiết học này học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện. Cụ thể là:
Bài toán 1: Có ...bạn, có thêm ... bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu
bạn? * HS quan sát tranh và trả lời câu hỏi.
- Có mấy bạn đang đứng? (1 bạn)

- Thêm mấy bạn đang đi tới? (3 bạn)
- Vậy chỗ chấm thứ nhất điền số mấy? (số 1)
- Chỗ chấm thứ thứ hai điền số mấy? (số 3)
Bài toán 2: Có … con thỏ, có thêm … con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất
cả bao nhiêu con thỏ ?
* Bài toán còn thiếu câu hỏi (cái cần tìm)
Như vậy giáo viên tiếp tục giúp học sinh sử dụng kĩ năng quan sát tranh,
để hoàn thiện đề bài toán. Từ đó giúp học sinh nắm chắc đề bài toán có lời văn ở
lớp 1 gồm 2 phần:
+ Phần cho biết và phần hỏi: Phần cho biết gồm 2 yếu tố: Có . . .;cho
thêm. Phần hỏi: Có tất cả: (hoặc Phần cho biết gồm 2 yếu tố : Có. . . ,bay đi;
phần hỏi : còn lại)
Bài toán 3: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán.
Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.
Hỏi ………………………………………………….?
* Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm)
Bài toán 4: Có … con chim đậu trên cành, có thêm….con chim bay
đến. Hỏi ………………………………............?
- Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ
được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu
các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và
đâu là cái cần tìm.
Bước 1: GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để
có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu
trên bảng lớp.
Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện
và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả)
của bài toán.
Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định
bài 1,bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái

cần tìm. Qua đó giúp các em hiểu được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ dữ
kiện. Từ đó học sinh xác định được phần còn thiếu trong bài tập 3, 4.
Bài toán 3: Có 1 con gà mẹ và 7 con gà con. Hỏi có tất cả bao nhiêu con
gà?
Kết hợp giữa việc quan sát tranh và trả lời câu hỏi gợi ý của giáo viên,
học sinh hoàn thành bài toán 4 (trang 116):
Bài toán 4: Có 4 con chim đậu trên cành, có thêm 2 con chim bay đến.
Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim?
2. Các bước thực hiện giải bài toán có lời văn.
7


Để hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn, bản thân giáo viên phải
hiểu bản chất của bài toán. Sử dụng nghệ thuật sư phạm cùng với kiến thức của
mình để hướng dẫn học sinh giải các dạng toán có lời văn bằng phương pháp tối
ưu nhất, nhanh và chính xác nhất.
Không những quan tâm đến khối lượng kiến thức mà còn phải quan tâm
dạy cho học sinh biết cách học, cách tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức. Vì vậy đối
với mỗi bài toán có lời văn, tôi không chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn học sinh
tìm lời giải và phép tính cụ thể của một bài toán mà đã hướng dẫn học sinh tìm
cách giải của dạng toán đó, sau đó khái quát hoá cách giải các bài toán có lời
văn theo các bước sau:
Bước 1: Đọc, tìm hiểu đề:
Đây là bước quan trọng, học sinh không thể bỏ qua được, phải rèn cho
học sinh tránh thói quen là vừa đọc đề xong hoặc chưa hiểu kĩ để bài đã vội
vàng thực hiện bài giải. Như vậy sẽ không thể tránh khỏi sự bế tắc trong khi giải
bài tập, dẫn đến tình trạng không biết ghi lời giải như thế nào cho phù hợp. Vì
vậy bước đầu tiên tôi đã rèn cho học sinh là đọc kĩ đề bài, xác định được cái đã
cho và cái phải tìm.
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất

cả mấy con gà ? (Sách giáo khoa Toán 1 -Trang 117).
- Giáo viên đọc đề toán, gọi 1 học sinh đọc lại đề toán.
- Giáo viên hỏi và kết hợp dùng trực quan minh họa (tranh 5 con gà và
tranh 4 con gà) đính bảng cài cho học sinh quan sát.
+ Lúc đầu có mấy con gà ? (5 con gà)
+ Sau mẹ mua thêm mấy con gà? (4 con gà)
+ Bài toán yêu cầu chúng ta phải tìm gì? (Tìm tất cả số gà nhà An có)
* Dạy bài: Luyện tập (tiết 85)
Bài 1: (Sách giáo khoa Toán 1- trang 122): An có 4 quả bóng xanh và có 5
quả bóng đỏ. Hỏi An có tất cả mấy quả bóng ?
* Tìm hiểu bài: Tôi yêu cầu học sinh
- Đọc bài toán.
- Đặt câu hỏi tìm hiểu bài.
+ Bài toán cho biết gì? (An có 4 quả bóng xanh )
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (và có 5 quả bóng đỏ)
+ Bài toán yêu cầu tìm gì? (An có tất cả mấy quả bóng?)
Tôi gạch chân dữ kiện, yêu cầu của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán.
Đây là kết quả ban đầu của bước 1 bằng những lược trình đơn giản bài
toán được tóm tắt một cách ngắn gọn, đúng, đủ, làm nổi bật mối quan hệ giữa
cái đã cho và cái phải tìm và cũng là bước rất quan trọng giúp học sinh xác định
được yêu cầu của bài ra và để thực hiện các bước giải tiếp theo.
Các bài toán có lời văn ở lớp 1 có thể tóm tắt bằng trực quan hình ảnh
hoặc tóm tắt bằng chữ cái và dấu.
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất
8


cả mấy con gà ? (Sách giáo khoa Toán 1 – Trang 117).
Đây là bài toán đầu tiên về dạng giải toán có lời văn ở lớp 1 nên tôi phải

kết hợp dùng câu hỏi gợi mở và trực quan để tóm tắt bài toán.
- Tóm tắt:
+ Lúc đầu nhà An có mấy con gà ? (5 con gà)

: 5 con gà
+ Sau mẹ mua thêm mấy con gà? (4 con gà)
Thêm : 4 con gà
+ Bài toán yêu cầu chúng ta phải làm gì?
Có tất cả : ...con gà?
Ví dụ: Bài 1: (Sách giáo khoa Toán 1 - trang 122). An có 4 quả bóng xanh
và có 5 quả bóng đỏ. Hỏi An có tất cả mấy quả bóng ?
Tôi hướng dẫn để học sinh hoàn thiện tóm tắt của bài toán. Lúc này học
sinh chỉ cần dựa vào bài toán cho biết gì và bài toán hỏi gì là đã hoàn thiện tóm
tắt bài toán.
An có
: 4 quả bóng xanh.

: 5 quả bóng đỏ.
Có tất cả
: . . . quả bóng ?
* Bài 3: (Sách giáo khoa Toán 1- trang 151). Một sợi dây dài 13cm, đã cắt
đi 2cm. Hỏi sợi dây còn lại bao nhiêu xăng - ti - mét ?
Tôi đã yêu cầu học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đồ đoạn thẳng và tóm tắt bằng
chữ và dấu:
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
? cm
2cm
13cm
Tóm tắt bằng chữ và dấu:
Sợi dây dài : 13cm

Cắt đi
: 2cm
Còn lại
: cm ?
Bước 3: Phân tích các đại lượng có liên quan để tìm cách giải.
Mục đích phân tích là để sàng lọc, nhằm loại bỏ các yếu tố thừa hoặc
không cơ bản trong bài toán. Đối với bài toán khi các em gặp, nhìn chung các
em chỉ nhận biết về dạng bài, chưa đọc kỹ, chưa tìm hiểu xác định rõ yêu cầu
của đề toán, chưa biết phân tích, sàng lọc các yếu tố cơ bản đã cho trong đề
toán, nên khi gặp bài toán cho ngược lại với dạng đã học thì các em sẽ bị lúng
túng cho là mới lạ. Do vậy trong giảng dạy giải toán có lời văn, trước tiên là tôi
phải giúp các em biết phân tích tổng hợp đề toán. Khi phân tích đem các dữ kiện
và điều kiện bài toán dẫn dắt, hướng dẫn học sinh suy nghĩ hướng vào mục tiêu
cần đạt, là tính được các mối liên hệ cơ bản, cuối cùng là mối liên hệ giữa cái đã
cho và cái cần tìm. Có thể nói đây là khâu chủ yếu trong quá trình giải toán và là
một hoạt động tư duy khó với học sinh tiểu học. Song do tính chất quan trọng
của nó cần thiết với học sinh, giúp các em sử dụng trong cả thời gian dài.
Để phân tích đề toán cần phải đọc kĩ đầu bài toán, đây là bước nghiên cứu
để giúp học sinh có ý nghĩ ban đầu về ý nghĩa bài toán, nắm được nội dung bài
9


toán và đặc điểm cần chú ý đến câu hỏi của bài không nên vội nhẩm tính khi
chưa đọc kĩ đầu bài, mà xây dựng thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho của
bài toán, tìm cách diễn đạt nội dung của bài bằng ngôn ngữ kí hiệu toán học
ngắn gọn bằng cách tóm tắt điều kiện bài toán hoặc minh hoạ bằng sơ đồ đoạn
thẳng. Lập kế hoạch và giải, suy nghĩ xem để trả lời các câu hỏi của bài toán:
“Cần biết những gì? Phải thực hiện phép tính gì? Phép tính đó có thể trả lời
được câu hỏi của bài toán không ?…”. Trên cơ sở đó lập kế hoạch trình tự để
giải toán.

Lưu ý: Mỗi bước tính đều phải kiểm tra lại lời giải có đúng với phép tính
không và thử lại đáp số tìm được có đúng với câu hỏi của bài không, có phù hợp
với điều kiện bài toán hay chưa.
Đối với học sinh lớp 1, việc áp dụng ngay quy tắc trên là không thể được
mà các em phải học tập và nắm dần qua quá trình thực hành giải toán với các bài
toán khác nhau, mà kết hợp cùng sự hướng dẫn của giáo viên qua phương pháp
hỏi đáp, sử dụng trực quan minh hoạ để học sinh tiếp cận dần phương pháp.
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất
cả mấy con gà ? (Sách giáo khoa Toán 1 – Trang 117).
- Phân tích đề bài toán bằng phương pháp hỏi đáp:
Đây là bài toán đầu tiên dạng giải toán có lời văn, nên giáo viên cần giúp
học sinh phân tích kĩ để các em hiểu rõ về bản chất của dạng toán này. Do đó
khi hướng dẫn học sinh phân tích tổng hợp đề toán, giáo viên thường sử dụng
hệ thống câu hỏi gợi mở giúp học sinh hiểu rõ các bước thực hiện trong giải
toán, phân tích để học sinh hiểu rõ nội dung bài toán.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề toán và kết hợp dùng trực
quan minh họa .
+ Lúc đầu nhà An có mấy con gà ? Giáo viên xuất hiện 5 con gà trên
bảng cài.
+ Sau mẹ mua thêm mấy con gà ? Giáo viên xuất hiện thêm 4 con gà
trên bảng cài.
+ Bài toán yêu cầu chúng ta phải tìm gì? (Tìm tất cả số gà nhà An có)
- Lúc này các em nhìn trên bảng đếm thấy có tất cả bao nhiêu con gà?
- Học sinh đếm có tất cả 9 con gà. Vậy làm thế nào để em biết được có 9
con gà? (lấy 5 + 4 = 9)
- Giáo viên cần giúp các em phân tích rõ là mua thêm 4 con gà tức là ta
phải thực hiện phép cộng với 4. (lấy 5 + 4 )
Ví dụ: An có 4 quả bóng xanh và có 5 quả bóng đỏ. Hỏi An có tất cả mấy
quả bóng ?
Như ví dụ trên giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích đề toán như sau:

- Bài toán cho biết An có bao nhiêu quả bóng xanh ?
- Và An có bao nhiêu quả bóng đỏ ?
- Nghĩa là An có mấy loại bóng ?
- Bài toán yêu cầu chúng ta tìm số quả bóng của ai ? Số bóng một loại hay
cả hai loại?
10


Học sinh phải phân tích đúng và hiểu đúng An có cả hai loại bóng màu
xanh và màu đỏ. Nghĩa là chúng ta tìm tất cả số bóng của An có. Từ đó các em
hiểu ngay là phải làm phép tính cộng.
* Bài 3: (Sách giáo khoa Toán 1- trang 151). Một sợi dây dài 13cm, đã cắt
đi 2cm. Hỏi sợi dây còn lại bao nhiêu xăng- ti- mét ?
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.
? cm

2cm

13cm
Đối với bài toán này dựa vào tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, tôi
cần phân tích rõ giúp học sinh hiểu; sợi dây dài 13cm cắt đi 2cm thì sợi dây còn
lại ngắn hơn. Tức là cắt đi 2cm là phải thực hiện phép trừ (lấy 13 - 2)
Tóm lại, việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu phân tích đề làm sao cho ngắn
gọn nhất, chính xác nhất, học sinh dễ hiểu nhất. Muốn như vậy, trước sự lúng
túng của học sinh khi gặp bài toán khó, giáo viên có thể lấy dữ liệu tương ứng
gần gũi sát thực với học sinh để học sinh dễ dàng tìm đến lời giải và phép tính
đúng. Hơn thế nữa giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình để nắm được ý đồ
của sách giáo khoa, người soạn sách, cấu trúc nội dung sách để có sự so sánh
giữa các dạng toán nhằm giúp học sinh tìm đúng cách giải và giáo viên tìm đúng
phương pháp dạy tốt.

Bước 4: Trình bày bài giải.
Đây là bước cụ thể hoá quá trình tư duy trên, nó thể hiện rõ nét kĩ năng
giải bài tập của học sinh. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh giải toán, tôi đã hướng
dẫn cụ thể để học sinh biết cách trình bày bài giải đúng, ngắn gọn.
Bài toán: Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất
cả mấy con gà ? (Sách giáo khoa Toán 1– Trang 117).
Tôi có thể hướng dẫn các em viết câu lời giải theo 1 số cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ ở đầu (Hỏi) và từ ở
cuối (mấy con ) để có câu lời giải: “Nhà An có số :” hoặc thêm từ là để có câu
lời giải là “ Nhà An có số gà là:”
Cách 2: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà). Giáo viên chỉ vào
9 rồi hỏi: “ 9 con gà này là của ai? ” (số gà của nhà An có tất cả) . Từ câu trả lời
của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số gà của nhà An có
tất cả là”…Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau. Tiếp tục hướng dẫn học
sinh viết các phép tính.
- Tôi nêu tiếp: “Muốn biết nhà An có tất cả cả bao nhiêu con gà ta làm
phép tính gì? (tính cộng); Mấy cộng với mấy? (5 + 4 = 9)
Tiếp tục tôi gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 (con gà) nên ta viết
“con gà” vào dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Sau đó giáo viên hướng dẫn các
em viết đáp số. Bài giải trình bày như sau:
Cách 1:
Bài giải
Nhà An có tất cả số gà là:
11


5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà
Cách 2:
Bài giải

Số gà nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà
Bài 3 : (Sách giáo khoa Toán 1 - trang 151). Một sợi dây dài 13cm, đã cắt
đi 2cm. Hỏi sợi dây còn lại bao nhiêu xăng - ti- mét ?
Đối với bài toán này tôi đã giúp các em phân biệt được và hiểu rõ được:
trong bài toán cho đi, cắt đi, bán đi, tìm phần còn lại thì ta làm phép trừ. Các em
vận dụng việc phân tích đề toán và trình bày đúng bài giải như sau.
Bài giải
Sợi dây còn lại là:
13 - 2 = 11 (cm)
Đáp số: 11cm
Bài 2: (Sách giáo khoa Toán 1 - trang 118)
Tóm tắt:

: 6 bạn
Thêm
: 3 bạn
Có tất cả
: ... bạn?
Bài giải
Tổ em có tất cả là :
6 + 3 = 9 ( bạn )
Đáp số: 9 bạn
Qua 2 bài toán trên tôi rút ra cách viết câu lời giải như sau: Lấy dòng thứ
3 của phần tóm tắt + thêm chữ tổ em và là:
Ví dụ: - Tổ em có tất cả là:
- Có tất cả là:
Tương tự bài 3 (trang 118) câu lời giải sẽ là:
- Có tất cả là:

Tiết 84: Luyện tập: Bài 1 và bài 2 (Sách giáo khoa Toán 1- trang 121)
tương tự bài 1, 2, 3 (trang117). Nhưng câu lời giải được mở rộng hơn bằng cách
thêm cụm từ chỉ vị trí vào trước cụm từ có tất cả là :
Cụ thể là:
Trong vườn có tất cả là:
- Bài 1 (trang 121)
- Bài 2 (trang 121)
Trên tường có tất cả là:
Tiết 85: Luyện tập
Bài 1: (Sách giáo khoa Toán 1- trang 122). HS đọc đề toán – phân tích bài
toán ( như trên )
- Điền số vào tóm tắt
- Cho vài học sinh nêu câu lời giải khác nhau.
- Giáo viên chốt lại một cách trả lời mẫu:
- Số quả bóng của An có tất cả là:
12


Tương tự: Bài 2: (Sách giáo khoa Toán 1- trang122)
- Số bạn của tổ em có là:
Bài 3: (Sách giáo khoa Toán 1- trang122)
- Số gà có tất cả là:
Vậy qua 3 bài tập trên học sinh đã mở rộng được nhiều cách viết câu lời
giải khác nhau, song giáo viên chốt lại cách viết lời giải như sau:
Thêm chữ số + đơn vị tính của bài toán trước cụm từ có tất cả là như ở
(tiết 82) đã làm. Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài (cm) cần
thêm chữ dài vào trước chữ “là”. Ví dụ:
Tóm tắt
: 5cm
Đoạn thẳng AB

Đoạn thẳng BC : 3cm
Cả hai đoạn thẳng : ... cm?
Bài giải
Cả hai đoạn thẳng dài là:
5 + 3 = 8 ( cm)
Đáp số : 8 cm
Từ tiết 86 đến tiết 104. Hầu hết đều có bài toán có lời văn vận dụng kiến
thức toán được cung cấp theo phân phối chương trình.
Tuy nhiên, việc phân tích đề - tóm tắt - giải bài toán phải luôn luôn được
củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Song cơ bản vẫn là các mẫu lời giải cho
các bài toán thêm là:
- Có tất cả là:
- Số ( đơn vị tính ) + có tất cả là:
- Vị trí ( trong, ngoài, trên, dưới, ...) + có tất cả là:
- ... đoạn thẳng ... + dài là:
Tiết 105: Giải toán có lời văn (tiếp theo)
Bài toán: Nhà An có 9 con gà, mẹ đem bán 3 con gà. Hỏi nhà An còn lại
mấy con gà?
Học sinh đọc – phân tích bài toán:
+ Thông tin cho biết là gì?
Có 9 con gà. Bán 3 con gà.
+ Câu hỏi là gì ?
Còn lại mấy con gà?
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tóm tắt - bài giải mẫu. Giáo viên giúp
học sinh nhận thấy câu lời giải ở loại toán “bớt”này cũng như cách viết của loại
toán “thêm” đã nêu ở trên chỉ khác ở chỗ cụm từ có tất cả được thay thế bằng
cụm từ còn lại mà thôi. Cụ thể là :
Bài giải
Số gà còn lại là:
9 – 3 = 6 ( con gà)

Đáp số: 6 con gà
Bài 3: (Sách giáo khoa Toán 1 - trang 149)
Tóm tắt
Đàn vịt có : 8 con
13


Ở dưới ao
Trên bờ

: 5 con
: ... con ?

Bài giải
Trên bờ có số vịt là:
8 – 5 = 3 ( con vịt )
Đáp số: 3 con vịt
Tiết 107: Luyện tập Bài 1, 2 ( tương tự như trên )
* Nhưng bài 4 (trang 150) và bài 4 (trang151) thì lời giải dựa vào dòng
thứ 3 của phần tóm tắt bài toán:
Bài giải
Bài giải
Số hình tam giác không tô màu là :
Số hình tròn không tô màu là:
8 - 4 = 4 ( hình )
15 - 4 = 11 ( hình )
Đáp số: 4 hình tam giác
Đáp số: 11 hình tròn.
Tiết 108: Luyện tập chung
Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn thêm và bớt

ở lớp 1
Bài 1: (Sách giáo khoa Toán 1 - trang 152)
a, Bài toán: Trong bến có
... ô tô, có thêm ... ô tô vào bến.
Hỏi......................................................
?
Học sinh quan sát tranh và hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với
câu lời giải có cụm từ có tất cả
b, Bài toán: Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có ... con bay đi.
Hỏi ................................................ ?
Học sinh quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với
câu lời giải có cụm từ còn lại
Lúc này học sinh đã quá quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn
cho học sinh chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:
- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ bao nhiêu bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm
Cụ thể: Bài 1(trang 152)
a,Câu hỏi là: Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?
Câu lời giải là:
Có tất cả
số
ô tô là :
b, Câu hỏi là: Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?
Câu lời giải là: Trên cành còn lại số
con chim là :
Ví dụ khác:
 Câu hỏi là: Hỏi hai lớp trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
 Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng - ti - mét ?

Câu lời giải là: Con sên bò được tất cả số
xăng - ti - mét là.
 Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết
14


quyển sách?
Câu lời giải là: Lan còn phải đọc
số trang sách nữa là: Trên đây là hai
mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở lớp 1. Tôi đã đưa ra
phương pháp dạy từ dễ đến khó để học sinh có thể giải toán
mà không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải. Tối thiểu học sinh trước kia
chưa biết cách giải bài toán có lời văn nay đã chọn cho mình một cách viết đơn
giản nhất bằng cụm từ: Có tất cả là: Hoặc: Còn lại là: Còn học sinh đã biết giải
bài toán có lời văn một cách thành thạo, các em có thể chọn cho mình được
nhiều câu lời giải khác nhau nâng dần độ khó thì lời giải càng hay và sát với câu
hỏi hơn.
Ngoài cách giải trên ra, học sinh còn có thể tìm ra lời giải và phép tính
bằng nhiều cách tuỳ theo khả năng tư duy và phát hiện của học sinh. Giáo viên
có thể nắm bắt kịp thời các ý kiến của các em để học sinh nhận thấy sự đưa ra
luận cứ của mình là đúng. Làm như vậy nhằm mục đích phát huy tính tư duy,
tìm tòi, sáng tạo của học sinh trước những bài toán có dạng khác nhau.
Khi giải bài toán có lời v¨n, thường thường các em chỉ cần viết bước 4
(bước thực hiện lời giải) còn các bước 1, 2, 3, là các bước học sinh tư duy. Tuy
vậy, với đối tượng học sinh của lớp tôi, tôi yêu cầu các em phải tóm tắt vào vở
như là một bước yêu cầu bắt buộc chứ không chỉ để suy nghĩ, viết ra giấy nháp.
Sở dĩ làm như vậy để học sinh ý thức được rằng tóm tắt để tìm hiểu đề bài cũng
là bước hết sức quan trọng.
Một yếu tố không kém phần quan trọng để học sinh thực hiện thành thạo
giải bài toán là học sinh phải thực hiện thông thạo phép cộng trừ trong phạm vi

100. Cuối cùng đó là khâu kiểm tra, đánh giá: Đây là việc làm không thể thiếu
trong quá trình dạy học. Vì vậy tôi đã thường xuyên chấm, chữa bài cho các em,
giúp các em nhận ra cái sai, cái thiếu trong khi làm bài, đặc biệt là với các bài
toán giải. Qua đó tôi đã nắm được mức độ hiểu bài sự tiến bộ của các em để có
biện pháp điều chỉnh phù hợp với từng đối tượng học sinh, tạo hứng thú học tập
cho học sinh bằng cách khuyến khích các em say mê giải toán, tạo các đôi bạn
cùng tiến để cho các em thi đua với nhau. Mỗi tuần tôi lại tổ chức một tiết thi
giải toán vào tiết tăng buổi chiều thứ 6. Mỗi buổi như vậy tôi đều giành phần
quà nhỏ để thưởng cho những em giải nhanh, đúng nhất và những em có nhiều
tiến bộ nhất. Tất cả những vấn đề nêu trên đều có thể thực hiện được với một kết
quả khả quan nếu chúng ta có phương pháp gây được hứng thú cho học sinh, lấy
học sinh làm chủ đạo, làm trung tâm trong quá trình dạy học.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy, bằng việc áp dụng những biện pháp
đã nêu trên, với tinh thần trách nhiệm khắc phục khó khăn của bản thân, đồng
thời với sự trợ giúp của các đồng nghiệp, sự chỉ đạo của Ban Giám hiệu nhà
trường, sự ủng hộ của phụ huynh học sinh, kết quả học tập môn Toán nói chung,
đặc biệt phần kĩ năng giải toán có lời văn nói riêng bước đầu cho thấy học sinh
lớp tôi phụ trách đã hình thành được kĩ năng giải toán có lời văn, đa số các em
nắm vững và thực hiện đúng quy trình giải toán, biết cách giải và trình bày bài
15


giải. Vì thế tiết học Toán trở nên sôi nổi và nhẹ nhàng, thú vị mà không kém
chÊt trí tuệ.
Thực tế đánh giá kết quả của học sinh lớp 1A năm học 2014 – 2015, tôi
thấy các em nắm vững kiến thức và có tiến bộ rõ rệt.
Để kiểm nghiệm, đánh giá việc làm của mình, cuối năm học tôi đã ra hai
bài toán, kiểm tra việc nắm kiến thức của từng học sinh trong lớp.
Bài 1: Vinh có 10 cái kẹo, bố cho Vinh thêm 10 cái nữa. Hỏi Vinh có tất

cả bao nhiêu cái kẹo?
Bài 2: Nhà em có 45 con gà, đã bán đi 12 con gà. Hỏi nhà em còn lại mấy
con gà?
*Kết quả bài làm của học sinh năm học 2014 – 2015 như sau:
Tổng số HS viết đúng
HS viết đúng
HS viết đúng HS giải đúng
học sinh
câu lời giải
phép tính
đáp số
cả 3 bước
25
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
25
100%
25
100%
25
100% 25
100%
Như vậy, khi áp dụng thực hiện các biện pháp trên tôi thấy học sinh học
rất tốt, kết quả cho thấy chất lượng, tỉ lệ học sinh giải đúng, chính xác cả ba

bước t¨ng lªn đạt 100% , học sinh trước kia còn hạn chế trong các bước giải
toán nay các em đã lµm bµi tèt. Chính vì thế việc đầu tư thời gian vào việc dạy
giải toán cho các em là quá trình lâu dài, công phu, đòi hỏi người giáo viên phải
bồi dưỡng nhiệt tình, phải nghiên cứu tìm tòi, phương pháp bồi dưỡng cho các
em, góp phần phát triển năng khiếu toán cho các em.
Với những kinh nghiệm trên, tôi tin rằng các em học sinh lớp tôi có khả
năng tư duy, sáng tạo, có 100%. So với chất lượng năm học 2013 – 2014 trước
khi tôi nghiên cứu đề tài thì chất lượng năm học 2014 – 2015 sau khi thực hiện
đề tài đã vượt lên rất nhiều. Tất cả các em đã nắm vững các phương pháp giải
toán, các em trình bày bài giải rõ ràng, đúng, chính xác, các em đã biết tóm tắt
đề toán trước khi giải, phần bài giải của các em sáng tạo, rõ ràng, chính xác hơn.
Đặc biệt với mỗi bài toán có lời văn các em đã biết cách tìm những lời giải khác
nhau.
Tóm lại: Từ kết quả kiểm tra trên cho thấy, phương pháp học của các em
là tiền đề để các em học tốt ở các lớp trên.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
I. Kết luận:
Thực tế trong giảng dạy, tôi nhận thấy việc vận dụng đổi mới phương
pháp, đổi mới hình thức tổ chức dạy học và biện pháp dạy học mà tôi đã được
lồng ghép vận dụng vào dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 trong hai
năm qua , đã góp phần nâng cao kết quả học tập của học sinh, giúp học sinh phát
16


triển năng lực tư duy, trí tưởng tượng, tiếp thu bài nhanh, nhớ bài lâu. Các em
diễn đạt mạch lạc và nhất là tạo hứng thú học tập, tạo niềm vui, niềm say mê học
tập. Từ đó rèn luyện đức tính chăm chỉ, tự tin, năng động, sáng tạo góp phần rèn
luyện cho học sinh có những đức tính, phẩm chất và phong cách làm việc của
người lao động mới. Không chỉ các em học tốt môn Toán mà còn giúp các em
học tốt các một học khác trong chương trình các em học

Qua qu¸ trình vận dụng thực hành trực tiếp trên lớp về dạy giải các bài
toán có lời văn ở lớp 1, tôi rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ như sau:
- Trong khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn phải tuyệt đối thực
hiện đúng quy trình tránh tình trạng cắt giảm các khâu, bước, thực hiện một cách
qua loa đại khái, như vậy sẽ làm cho quá trình tiếp thu trí thức của các em bị
hẫng hụt.
- Thường xuyên tạo ra môi trường thích ứng để động viên khuyến khích
các em, coi các em là nhân vật trung tâm của quá trình dạy – học. Giáo viên cần
tổ chức, hướng dẫn từng học sinh (trong cách giải toán, biết sử dụng S¸ch gi¸o
khoa) một cách chu đáo trong cách giải toán tạo cho học sinh lòng hứng thú,
tính linh hoạt, sáng tạo, tự tin trong khi làm bài.
- Thường xuyên kiÓm tra, chÊm, chữa bài của học sinh một cách chính
xác, thực lực nhằm biểu dương những học sinh hiểu bài nhanh, làm bài đúng
chính xác các bước của bài toán có lời văn, phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ những
học sinh còn hạn chế một cách kịp thời.
- Giáo viên cần lựa chọn nội dung bài tập sao cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh của lớp mình, có thể thay đổi một số nội dung bài toán sát thực
với thực tế cuộc sống địa phương.
- Để phát huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh người giáo viên
phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tự học, tự bồi
dưỡng, lựa chọn và áp dụng nhiều phương pháp dạy – học phù hợp với bộ môn.
II. Kiến nghị:
Từ việc nghiên cứu đề tài này, từ sự kiểm chứng tính khả thi của đề tài,
tôi có một vài đề xuất như sau :
* Đối với giáo viên Tiểu học: Để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy thì mỗi
giáo viên cần nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung giáo dục, phải nắm bắt
được vấn đề cơ bản đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học theo hướng “tích
cực hoá hoạt động của học sinh”.
- Giáo viên phải biết tổ chức cho học sinh “Học tập trong hoạt động và
bằng hoạt động, học sinh tích cực, tự giác, sáng tạo và tự tin trong học tập”.

- Khi nghiên cứu bài, giáo viên phải luôn nhìn bài giảng trên quan điểm
“động” tức là với bài giảng cụ thể nên chọn phương pháp và hình thức dạy học
nào là hợp lý với trình độ học sinh lớp mình phụ trách.
* Đối với các cấp quản lý giáo dục cần dành nhiều thời gian, tổ chức cho
giáo viên thảo luận, bàn bạc, học hỏi nhau, đưa ra những kinh nghiệm về
17


phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có hiệu quả để các đồng chí giáo
viên vận dụng thực tế trong giảng dạy.
Mặc dù đề tài đã hoàn thành và bản thân tôi khi làm đề tài này đã có nhiều
cố gắng, song do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi mong các bạn đồng nghiệp cũng như những
“bậc thầy”giàu kinh nghiệm trong môn Toán hãy chỉ rõ và bổ sung những thiếu
sót, cung cấp thêm những kinh nghiệm để tôi vận dụng trong giảng dạy cho học
sinh lớp 1 trong những năm sau đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thọ Xuân, ngày 28 tháng 5 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thanh

18



MỤC LỤC
Trang
A. Phần mơ đầu

1

I. Ly do chon đê tai

1

II. Muc đich nghiên cưu

2

III. Đôi tương nghiên cưu

2

IV. Phương phap nghiên cưu

2

B. Nội dung

3

I. Cơ sơ ly luân

3


II. Thưc trang cua vân đê trươc khi ap dung sang kiên kinh nghiêm

4

III. Cac biên phap đa tiên hanh đê giai quyêt vân đê

6

IV. Hiêu qua cua sang kiên kinh nghiêm

15

C. Kêt luân, kiên nghi

16

I. Kêt luân

16

II. Kiên nghi

17

19


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
GIÚP HỌC SINH LỚP 1 HỌC TỐT
DẠNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN

Người thực hiện:
Nguyễn Thị Thanh
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bắc Lương - Thọ Xuân
SKKN thuộộ̣c lĩnh vực môn: Toán

20


THANH HÓA NĂM 2016

21



×