Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng việt lớp 2 chương trình mô hình trường học mới việt nam sau kết thúc dự án VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.1 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

TRANG

1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng của việc dạy-học môn Tiếng Việt lớp 2- chương trình
Mô hình trường học Mới Việt Nam sau kết thúc Dự án VNEN tại
trường Tiểu học Thành Vân
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền một cách kịp thời, đúng đắn
về mô hình trường học Mới Việt Nam đến phụ huynh
2.3.2. Bố trí sắp xếp đội ngũ giáo viên dạy học lớp 2 một cách phù
hợp, có hiệu quả
2.3.3. Tổ chức tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lên lớp 2 trong hè
năm 2016 đạt hiệu quả
2.3.4. Tổ chức tập huấn bổ sung phương pháp dạy-học môn Tiếng
Việt lớp 2 cho giáo viên trực tiếp dạy lớp 2 năm học 2016-2017
2.3.5. Làm tốt công tác chuẩn bị cho học sinh lớp 2 trước khi bước
vào năm học mới 2016-2017
2.3.6. Tăng cường công tác dự giờ thăm lớp đối với môn Tiếng Việt
lớp 2 và nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn định kỳ
2.3.7. Phát động phong trào thi đua trang trí lớp học thnâ thiện vào dịp
chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11


2.3.8. Động viên, khích lệ quan tâm đến đội ngũ giáo viên
2.3.9. Kêu gọi, vận động phụ huynh học sinh tích cực tham gia làm đồ
dùng học tập cùng với giáo viên, học sinh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1

2
2
3
3
3
3
4
6
6
7
7
8
10
10
12
13
13
13
14

14
15


1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Với định hướng xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt,
học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng
xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại
hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo;
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm
2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Chương trình dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam là bước đầu thử
nghiệm cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục.[1]
Năm học 2012-2013, cùng với 1447 trường Tiểu học trên cả nước, trường Tiểu
học Thành Vân được tham gia dạy học chương trình thử nghiệm theo mô hình
trường học mới Việt Nam đối với lớp 2, 3.
Trường học mới VNEN là nơi học sinh cùng nhau học tập để lĩnh hội những
kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Ở đó, giáo viên là người
tổ chức, hướng dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức,
hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ bình đẳng. Ở đây, phụ
huynh và cộng đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con
em mình. Mô hình trường học mới Việt Nam tập trung vào đổi mới sư phạm: Đổi
mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh giá
học sinh, đổi mới tổ chức lớp học.[2]
Sau 4 năm thực hiện chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam, nhà
trường đã phát huy được những ưu điểm của chương trình, những thuận lợi của
Dự án, đồng thời khắc phục những tồn tại của chương trình trong quá trình thực
hiện và rút ra những kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
Năm học 2016-2017, là năm học đã kết thúc dự án VNEN, trường Tiểu học

Thành Vân tiếp tục thực hiện chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam ở
cả 4 khối lớp 2, 3, 4, 5. Song sau khi Dự án kết thúc thì nhà trường cũng gặp
những khó khăn nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Đặc biệt,
đối với học sinh lớp 2, đầu năm học kỹ năng đọc hiểu của các em còn chưa tốt,
khả năng giao tiếp còn hạn chế vì vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của các em chưa có
nhiều, nên khả năng làm việc độc lập, sự tương tác trong nhóm, tương tác với thầy
cô hiệu quả chưa cao. Là một quản lý nhà trường, bản thân tôi hết sức băn khoăn
và trăn trở trước những khó khăn, tồn tại của chương trình Mô hình trường học
mới Việt Nam, cần đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục những khó khăn,
tồn tại nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Tôi đã quyết định chọn sáng kiến kinh
nghiệm “Chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình
Mô hình trường học mới Việt Nam sau kết thúc dự án VNEN” áp dụng vào năm
học 2016-2017 để phần nào góp phần vào sự thành công của chương trình thử
nghiệm VNEN.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đối với học sinh lớp 2 khả năng đọc hiểu của các em còn nhiều hạn chế, song
các em học theo chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam lại phải tự làm
việc với tài liệu, các em phải tự tìm hiểu bài qua các logo của tài liệu dưới sự
hướng dẫn của giáo viên. Để các em học sinh lớp 2 tiếp cận với cách học của Mô
2


hình thì đòi hỏi các em cần đạt các kỹ năng về môn Tiếng Việt ở mức độ tương
đối tốt. Chính vì vậy cần chỉ đạo để thực hiện tốt công tác dạy học môn Tiếng Việt
cho học sinh lớp 2 chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Xuất phát từ mục đích trên; ý thức được vai trò và tầm quan trọng của việc chỉ
đạo dạy và học môn Tiếng Việt trong nhà trường Tiểu học nói chung và dạy học
theo Mô hình trường học mới Việt Nam nói riêng, tôi nhận thấy: Việc nâng cao
chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học Mới

Việt Nam là vô cùng cần thiết và quan trọng nên tôi đã lựa chọn và đưa ra sáng
kiến kinh nghiệm “Chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 Mô
hình trường học Mới Việt Nam sau khi Dự án VNEN kết thúc tại trường Tiểu học
Thành Vân huyện Thạch Thành”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp tổng hợp kết quả.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
- Khắc phục những khó khăn khi thực hiện chương trình sau khi kết thúc Dự án.
- Khắc phục những tồn tại của chương trình Tiếng Việt lớp 2 - Mô hình trường
học Mới Việt Nam.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lý luận:
Trường học mới không phải mới về CSVC, vẫn phòng học ấy chỉ là trang trí
để tạo sự gần gũi, thân thiện, đồng thời các nội dung trang trí góp phần vào việc
thực hiện các nội dung của Mô hình trường học mới như là các công cụ hỗ trợ.
Mô hình trường học mới cũng không phải là đổi mới về chương trình mà vẫn là
những nội dung dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình hiện
hành.
Trong mô hình trường học mới thì Tài liệu hướng dẫn học các môn Tiếng Việt,
toán, TNXH, khoa học, Lịch sử địa lý được biên soạn mới dưới dạng thiết kế các
hoạt động giúp học sinh có thể tự học nhưng vẫn là nội dung của chương trình
hiện hành có được lược bỏ những nội dung khó còn các môn học Đạo đức, Thủ
công (kỹ thuật), thể dục, âm nhạc, Mỹ thuật vẫn dùng SGK của chương trình hiện
hành.
Như vậy Mô hình trường học mới tập trung vào đổi mới sư phạm, bao gồm:
Đổi mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh

giá học sinh, đổi mới tổ chức lớp học, đổi mới sự tham gia của cha mẹ học sinh và
cộng đồng.
Những đổi mới này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và cùng với việc thực
hiện những đổi mới trên là việc thực hiện đổi mới công tác quản lý, đổi mới việc
sinh hoạt chuyên môn.
Chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam là bước đầu của công cuộc
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đây là chương trình đã tạo cho
3


học sinh có cơ hội học hỏi lẫn nhau, phát huy được tính tích cực, tự giác trong
hoạt động học tập, đã tạo cho các em môi trường học tập một cách thoải mái, tự
tin, không bị gò bó, áp đặt, các em được khám phá, trải nghiệm để tìm đến kiến
thức mới một cách chủ động.[2]
Sau tổng kết 4 năm thực hiện chương trình các trường Tiểu học trên toàn quốc
nói chung cũng như trường Tiểu học Thành Vân nói riêng đã gặt hái được những
thành công nhất định trong quá trình thử nghiệm. Tuy nhiên, sự thành công của
chương trình thử nghiệm cũng một phần lớn là nhờ sự hỗ trợ kinh phí của Dự án
VNEN. Bởi lẽ, khi thực hiện chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam cần
phải có kinh phí để trang bị làm đồ dùng dạy học, trang trí lớp học theo Mô hình,
sinh hoạt chuyên môn,… Năm học 2016-2017, Dự án VNEN đã kết thúc đồng
nghĩa với việc không còn kinh phí hỗ trợ trong công tác dạy học, như vậy nhà
trường sẽ gặp những khó khăn nhất định trong công tác làm đồ dùng dạy học,
trang trí lớp học.
Chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam là chương trình đang được
thử nghiệm nên nội dung chương trình vẫn còn được chỉnh sửa bổ sung những nội
dung bất cập, những hoạt động chưa phù hợp với môn học, lớp học, với đối tượng
học sinh.
Trường Tiểu học Thành Vân đã phát huy những ưu điểm của chương trình như
vận dụng tốt phương pháp dạy, phương pháp học, cách thức tổ chức dạy học và

cũng đã linh hoạt trong việc điều chỉnh nội dung, các logo hoạt động, hình thức
hoạt động để phù hợp với đối tượng học sinh của nhà trường nhằm nâng cao chất
lượng dạy học.
Là một người quản lý trong ngành Giáo dục và Đào tạo, tôi luôn mong mỏi
góp phần công sức nhỏ bé của bản thân vào công tác giáo dục và đào tạo để chất
lượng dạy học ngày càng phát triển. Trước những băn khoăn về nâng cao chất
lượng giáo dục đối với một chương trình thử nghiệm, bản thân tôi đã luôn tìm tòi,
nghiên cứu tài liệu, khảo sát, kiểm tra chất lượng dạy học của nhà trường và thực
tế cho thấy môn Tiếng Việt lớp 2 là nội dung mà cần được quan tâm nhất. Chính
vì lẽ đó, tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm: “Biện pháp chỉ
đạo nâng cao chất lượng dạy học Môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình
trường học Mới Việt Nam sau khi kết thúc Dự án VNEN.”
2.2. Thực trạng của việc dạy-học môn Tiếng Việt lớp 2 - Chương trình Mô
hình trường học mới Việt Nam sau kết thúc Dự án VNEN tại trường Tiểu học
Thành Vân.
a. Thuận lợi:
* Về cơ sở vật chất:
- Ở tất cả các khối lớp đã được trang trí đầy đủ các biểu bảng, các góc, các công
cụ học tập theo Mô hình trường học Mới Việt Nam.
- Các điều kiện khác về cơ sở vật chất tương đối đảm bảo cho công tác dạy học.
*Về giáo viên:
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường đều đạt trình độ trên chuẩn, hầu hết giáo viên
đều nhiệt tình, năng động, trách nhiệm với công việc, tích cực trong công tác tự
học tự bồi dưỡng, ham học hỏi và rất hứng thú với phương pháp dạy học mới.
- Giáo viên đã thành thục với những kỹ năng giảng dạy theo phương pháp mới.
4


- Hầu hết gia đình của giáo viên đều sử dụng mạng Internet nên việc cập nhật các
thông tin về mô hình trường học mới Việt Nam kịp thời, dễ dàng, chính xác.

- Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2 bao gồm sự hướng dẫn về phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học, giáo viên dễ dàng hơn khi tổ chức dạy học trên lớp,
khắc phục được tình trạng truyền thụ kiến thức. Giáo viên đóng vai trò của người
mở đường, cố vấn và đánh giá, trở thành người hướng dẫn học tập, thường xuyên
quan tâm, giúp đỡ đến từng cá thể học sinh. Vai trò mới của giáo viên là người
thúc đẩy hoạt động học tập hơn là giảng viên.
- Giáo viên không mất nhiều thời gian soạn giáo án. Giáo viên có thể dùng hầu hết
thời gian vào việc nghiên cứu tài liệu hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát và đánh giá học
sinh thực hiện các yêu cầu Hướng dẫn học.
- Tài liệu tạo điều kiện thuận tiện cho giáo viên khi tổ chức hiệu quả dạy học theo
nhóm, theo cặp hoặc cá nhân.
* Về học sinh:
- Các em học sinh đều ngoan ngoãn, lễ phép, có ý thức học tập tương đối tốt.
- Nhiều học sinh tương đối mạnh dạn, tự nhiên trong giao tiếp.
- Học sinh được học tập tích cực, chủ động, hứng thú do có cơ hội bày tỏ, chia sẻ
những trải nghiệm, có cơ hội thực hành và vận dụng kiến thức kỹ năng đã học vào
đời sống hàng ngày.
- Học sinh có nhiều cơ hội để độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc
cá nhân và có nhiều cơ hội để phát huy năng lực hợp tác khi học theo nhóm.
- Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ và sau mỗi nội dung học tập, các em
được tranh luận và đánh giá nhau.
- 100% học sinh được học 2 buổi/ngày.
- Tài liệu Hướng dẫn học đầy đủ cung cấp cho học sinh mượn.
* Về phụ huynh:
- Hầu hết phụ huynh học sinh đều quan tâm đến việc học tập của con em mình,
luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho các em. Phụ huynh luôn đồng tình, ủng
hộ các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
- Phụ huynh không còn hoài nghi, lo ngại về chương trình Mô hình trường học
Mới Việt Nam mà con em mình tham gia học tập.
b. Khó khăn:

* Về cơ sở vật chất:
- Không còn kinh phí hỗ trợ các lớp trong việc trang trí lớp, làm đồ dùng dạy học.
- Tài liệu Hướng dẫn học của học sinh lớp 2 đã bị nhàu nát nhiều vì đây là năm
thứ năm sử dụng tài liệu này.
* Về giáo viên:
- Giáo viên phải làm việc vất vả hơn do vừa phải hỗ trợ kịp thời đối với từng
nhóm, từng cá nhân học sinh trong nhóm, vừa phải bao quát toàn bộ học sinh
trong lớp để phát hiện các nhóm, các cá nhân cần được hỗ trợ, giúp đỡ.
- Giáo viên phải hết sức linh hoạt, uyển chuyển, làm chủ thời gian dành cho việc
hỗ trợ từng cá nhân hoặc từng nhóm để em nào cũng cảm thấy mình được thầy cô
quan tâm.
- Giáo viên dễ lúng túng trong việc điều hành hoạt động giữa các cá nhân, các
nhóm học sinh nhịp độ học tập chênh lệch nhau.
5


- Tỷ lệ học sinh/lớp đông với 8 nhóm trong một lớp dẫn đến khả năng bao quát,
quán xuyến của giáo viên đối với từng nhóm, từng cá nhân còn có những khó
khăn.
- Không còn chế độ hỗ trợ giáo viên trong sinh hoạt chuyên môn, làm đồ dùng dạy
học cũng như trang trí lớp và các hoạt động khác.
* Về học sinh:
- Học sinh hoàn toàn mới lạ với phương pháp học mới.
- Học sinh chưa chủ động làm việc, thao tác, nhiệm vụ học tập nên việc điều hành
của nhóm trưởng trong nhóm còn gặp nhiều khó khăn và thường kéo dài thời gian
của tiết học.
- Kỹ năng đọc, nghe, nói, viết của học sinh lớp 2 còn nhiều hạn chế, vốn từ ngữ
Tiếng Việt của các em chưa nhiều nên nhiều em còn khó khăn trong việc chủ động
làm việc với tài liệu.
- Một số học sinh chưa đủ mạnh dạn để hỏi thầy cô những nội dung, yêu cầu viết

trong tài liệu Hướng dẫn học. Chính vì vậy việc tương tác với giáo viên, bạn bè
của một số học sinh chưa đạt hiệu quả.
- Các em chưa thành thạo trong việc tự bảo nhau điều hành trong hoạt động nhóm.
- Nhiều học sinh vốn ngôn ngữ chưa đủ để tự tin trong giao tiếp với bạn bè, thầy
cô.
* Về phụ huynh:
- Nhiều phụ huynh chưa có điều kiện để quan tâm đúng mức về việc học tập của
con em mình.
- Nhiều phụ huynh chưa hợp tác với con em mình để giải quyết hoạt động ứng
dụng.
- Nhiều phụ huynh còn gửi con cho ông bà, cô dì, chú bác để đi làm ăn xa.
2.3. Các giải pháp thực hiện:
2.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền một cách kịp thời, đúng đắn về mô
hình trường học mới Việt Nam đến phụ huynh.
Trong cuộc họp phụ huynh học sinh cuối năm học 2015-2016, tổ chức
tuyên truyền đến phụ huynh học sinh lớp 1 hiểu về mô hình trường học mới Việt
Nam; trao đổi kỹ càng về những ưu điểm của chương trình: Tài liệu hướng dẫn
học không phải mua, học sinh được mượn để học tập; Tài liệu cấu trúc to rõ ràng,
hình ảnh đẹp với các logo hướng dẫn học sinh hoạt động, sách dễ học, đọc dễ
hiểu, giúp phụ huynh học sinh hiểu được cách học của học sinh, trách nhiệm của
phụ huynh trong hoạt động ứng dụng để phụ huynh nhận thấy vai trò của cộng
đồng và gia đình trong giáo dục, hình thành nhân cách của trẻ. Phụ huynh là người
giúp đỡ học sinh lĩnh hội kiến thức cũng như ứng dụng nội dung bài học vào cuộc
sống hằng ngày ở gia đình và cộng đồng. Từ đó, xây dựng được mối liên hệ chặt
chẽ, tương tác giữa nhà trường, gia đình, cộng đồng tốt hơn, khuyến khích được
gia đình, cộng đồng cùng tham gia hoạt động giáo dục.
Tuy nhiên đối với năm học 2016-2017, Dự án VNEN đã kết thúc đồng
nghĩa với việc không còn kinh phí hỗ trợ, như vậy việc tăng cường Tiếng Việt cho
các em học sinh lớp 2 không được chế độ hỗ trợ cho giáo viên cũng như học sinh.
Song việc tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 lên lớp 2 là việc làm vô cùng

cần thiết nên rất cần được sự quan tâm, thống nhất của các bậc phụ huynh để tạo
6


điều kiện cho con em mình được tham gia tăng cường Tiếng Việt hè 2016.
2.3.2. Bố trí sắp xếp đội ngũ giáo viên dạy học lớp 2 một cách phù hợp, có
hiệu quả.
Năm học 2016- 2017, Ban giám hiệu căn cứ vào kết quả công tác của giáo
viên trong các năm gần đây, chọn những giáo viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
dựa vào ý thức trách nhiệm của giáo viên, những người có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy và phải là người đã dạy lớp 2 chương trình VNEN trong những
năm học trước, kết hợp tham khảo ý kiến của tổ trưởng, tổ phó tổ chuyên môn để
lựa chọn giáo viên giảng dạy lớp 2. Giáo viên dạy lớp 2 phải là giáo viên trẻ, năng
động, linh hoạt trong dạy học và đã đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện trở
lên, có tâm huyết với nghề.
Phân công giáo viên dạy lớp 2 năm học 2016-2017 như sau:

TT

Họ và tên

Năm
sinh
1966

Trình độ
chuyên môn
Cao đẳng

Danh hiệu đã

Ghi
đạt
chú
1
Đỗ Thị Liên
Giáo viên giỏi
tỉnh
2
Bùi Thị Hiền
1973
Đại học
Giáo viên giỏi
tỉnh
3
Đỗ Thị Huệ
1972
Đại học
Giáo viên giỏi
huyện
2.3.3. Tổ chức tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lên lớp 2 trong hè năm
2016 đạt hiệu quả.
Năm học 2016-2017, nhà trường có 84 em học sinh lớp 1 được lên lớp 2. Vì
Dự án đã kết thúc không còn chế độ hỗ trợ giáo viên dạy cũng như hỗ trợ ăn nhẹ
cho học sinh nên Ban giám hiệu đã tham khảo ý kiến giáo viên dự kiến dạy lớp 2
trong năm học 2016-2017 và giáo viên dạy lớp 1 năm học trước để thống nhất số
học sinh cần phải tăng cường Tiếng Việt trong hè năm 2016. Sau khi thăm dò đã
thống nhất có 30 em sẽ tham gia tăng cường Tiếng Việt hè năm 2016. Lập danh
sách 30 em cần tăng cường Tiếng Việt hè năm 2016.
Triệu tập 3 giáo viên dự kiến phân công dạy lớp 2 năm học 2016-2017. Ban
giám hiệu đã cùng trao đổi với giáo viên về tính cần thiết, tầm quan trọng của việc

tăng cường Tiếng Việt cho các em học sinh lớp 2 trong hè. Các đồng chí giáo viên
đã nhận thức được trách nhiệm của mình và nêu cao tình thương yêu học sinh đã
tự nguyện dạy tăng cường Tiếng Việt cho các em, 3 đồng chí dạy 20 buổi trong hè
2016. Sau khi nhận được sự đồng thuận của 3 giáo viên, Ban giám hiệu tiếp tục
thảo luận và thống nhất với giáo viên được phân công dạy tăng cường Tiếng Việt
về nội dung, phương pháp, cách tổ chức dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh: Cách tổ chức: Dạy 20 buổi (Miễn phí).
Giao cho đồng chí Đỗ Thị Liên sẽ phân công việc đứng lớp của 3 đồng chí.
- Phương pháp: Tập cho học sinh làm quen dần với phương pháp học mới.
Hướng dẫn học sinh cách làm việc với tài liệu, cách thảo luận theo cặp, theo
nhóm.
- Nội dung: Tập trung vào rèn các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói cho học sinh. Đặc
biệt quan tâm đến kỹ năng đọc hiểu cho các em, giành 2/3 thời lượng để rèn kỹ
7


năng đọc hiểu. Cho các em tự đọc các bài tập đọc trong sách Tiếng Việt lớp 1 để
tự tìm câu trả lời cho các câu hỏi và ghi phần trả lời ra vở, cho học sinh làm quen
với sách Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2. Qua đó, giáo viên nắm bắt được khả
năng đọc hiểu của từng em để rèn luyện cho các em. Còn 1/3 thời lượng tăng
cường để rèn các kỹ năng nghe, viết. Giáo viên đọc cho học sinh viết các bài
chính tả, chứ không để học sinh nhìn chép. Kết hợp việc viết chính tả, cho học
sinh làm thêm các bài tập chính tả, bài tập luyện từ và câu để mở rộng vốn từ.
Mời phụ huynh của 30 em học sinh lớp 2 trong danh sách tăng cường Tiếng
Việt hè năm 2016 đến để cùng nghe nhà trường trao đổi về mục đích, nội dung
tăng cường Tiếng Việt cho các em nhằm nâng cao tính hợp tác của phụ huynh.
Qua cuộc trao đổi thì phụ huynh học sinh hoàn toàn ủng hộ kế hoạch tăng cường
Tiếng Việt cho học sinh và càng yên tâm hơn về mô hình trường học mới Việt
Nam.
- Thực hiện thời gian tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 hè năm 2016 từ
8/8/2016 đến 26/8/2016.

2.3.4. Tổ chức tập huấn bổ sung phương pháp dạy - học môn Tiếng Việt
lớp 2 cho giáo viên trực tiếp dạy lớp 2 năm học 2016-2017.
Tuy nhiên đã thực hiện sau 4 năm học, song nhận thấy những khó khăn đối với
dạy học môn Tiếng Việt lớp 2, ngay từ bài học đầu tiên học sinh lớp 2 phải thành
thạo kỹ năng học tập cá nhân và học tập theo nhóm để hoàn thành bài học nên nhà
trường tổ chức tập huấn bổ sung phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cho giáo
viên dạy lớp 2. Tập trung tập huấn đến giáo viên những nội dung sau:
a. Chỉ đạo, hướng dẫn giáo viên tổ chức tập huấn cho Hội đồng tự quản,
các trưởng ban và các nhóm trưởng:
- Tổ chức bầu Hội đồng tự quản, các ban và sắp xếp các nhóm học tập, phân
công nhóm trưởng: Thực hiện ngay tuần tựu trường tháng 8/2016, giáo viên chủ
nhiệm mời phụ huynh học sinh cùng tham gia bầu Hội đồng tự quản, các ban của
lớp.
- Tổ chức tập huấn cho Hội đồng tự quản, trưởng các ban và các nhóm trưởng:
Sau khi đã bầu được Hội đồng tự quản, trưởng các ban và phân công được nhóm
trưởng giáo viên tập huấn riêng cho các em, giúp các em nắm được các nhiệm vụ
của mình và biết cách hoạt động.
b. Rèn kỹ năng học tập cho học sinh:
Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt là một chuỗi các hoạt động được thiết kế
nhằm giúp học sinh tự học bằng cách thực hiện các yêu cầu, các chỉ dẫn trong bài
học. Do đó, điều giáo viên cần phải quan tâm trước tiên là tập dượt cho học sinh
các kỹ năng sau đây:
- Kỹ năng đọc hiểu tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2: Giúp học sinh hiểu
được các câu lệnh, các yêu cầu, các loại (dạng) hoạt động học tập.
- Kỹ năng làm việc độc lập: Học sinh phải có khả năng tập trung suy nghĩ để
hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân đó là: độc lập suy nghĩ, độc lập đọc thầm, độc
lập viết, độc lập chọn giải pháp và cần mạnh dạn trình bày suy nghĩ, ý kiến của
mình với nhóm, với lớp, với thầy cô.
- Kỹ năng làm việc hợp tác theo cặp, theo nhóm: Các em phải biết tổ chức hoạt
động nhóm, nhận nhiệm vụ, lên kế hoạch, phân công, đảm nhận trách nhiệm, phối

8


hợp với các thành viên trong nhóm để hoàn thành tốt công việc của cặp, của
nhóm.
- Kỹ năng sử dụng đồ dùng học tập ở góc học tập, sử dụng tài liệu tham khảo ở
góc thư viện trong lớp học.
- Kỹ năng tìm tòi tư liệu ở môi trường xung quanh, ở gia đình, cộng đồng.[3] c.
Trong tiết học Tiếng Việt cần phát huy tính chủ động, tích cực của học
sinh ở từng loại hoạt động trong giờ học.
Tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức từng hoạt động với các mục tiêu, việc làm cụ
thể là:
Đối với hoạt động cơ bản : Phần khởi động giúp học sinh tạo được hứng thú
học tập. Để thực hiện tốt yêu cầu này, giáo viên cần có biện pháp hướng dẫn, hỗ
trợ phù hợp để học sinh cảm thấy không khí học tập thoải mái, thân thiện, nội
dung bài học mới rất gần gũi và bổ ích đối với các em. Phần hoạt động hình thành,
lĩnh hội kiến thức nội dung mới của bài học, giáo viên cần chuẩn bị các câu hỏi,
các chỉ dẫn, tăng cường đồ dùng học tập, khích lệ học sinh phát huy tính độc lập
sáng tạo trong suy nghĩ, phát huy tinh thần hợp tác qua việc thảo luận theo cặp,
theo nhóm hoặc tổ chức thi đua giữa các đội.
Đối với hoạt động thực hành: Các nội dung học tập ở phần này nhằm giúp
học sinh củng cố, luyện tập kiến thức, kỹ năng đã chiếm lĩnh hoặc đã được học
tập. Các bài tập trong phần này thường là yêu cầu luyện đọc, thực hành dùng từ và
viết câu (đoạn), làm bài tập chính tả, thực hành kể chuyện, … tạo cơ hội cho các
em thực hành vận dụng kiến thức và kỹ năng mới vào một bối cảnh, điều kiện
khác gần gũi với các em. Khi hướng dẫn học sinh thực hành, giáo viên cần có biện
pháp giúp học sinh hiểu đúng nhiệm vụ, định hướng để học sinh hiểu đúng cách,
điều chỉnh những hiểu biết và kỹ năng còn sai lệch, hỗ trợ phù hợp từng đối tượng
học sinh để các em có thể hoàn thành nhiệm vụ bài học. Để đạt được điều đó thì
trong quá trình hướng dẫn giáo viên cần giám sát quá trình làm việc của các em

một cách sát sao để kịp thời phát hiện những khó khăn của học sinh và giúp đỡ
học sinh tháo gỡ những khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Ở phần này, sau khi học
sinh hoàn thành nhiệm vụ thì giáo viên nên tạo cơ hội để học sinh được trình bày
kết quả làm việc, được nhận xét, đánh giá lẫn nhau.[3]
Đối với phân môn tập đọc, phần học sinh đọc trước lớp còn ít. Tôi nhận thấy
vấn đề học sinh đọc to trước lớp, thi đọc trước lớp cũng rất cần thiết để các em có
thể học tập lẫn nhau hoặc bổ sung, góp ý về cách đọc bài cho nhau. Bản thân tôi
đã chỉ đạo giáo viên nên linh hoạt cần tổ chức cho các em đọc to, thi đọc trước lớp
sau phần luyện đọc nhóm, như vậy giáo viên có thể kiểm soát tốt hơn kỹ năng đọc
của từng học sinh.
Đối với hoạt động ứng dụng: Hoạt động này tạo cơ hội cho học sinh tích hợp,
mở rộng và vận dụng kiến thức và kỹ năng có được vào các tình huống hàng ngày
ở gia đình, cộng đồng. Đối với phần này giáo viên cũng cần giành thời gian để
học sinh được báo cáo kết quả.
Chỉ đạo giáo viên kiểm tra chặt chẽ phần hoạt động ứng dụng của học sinh
để nắm bắt được sự tham gia của gia đình, cộng đồng trong các hoạt động học của
học sinh. Từ đó, giáo viên cần phối hợp, liên lạc trực tiếp với những phụ huynh
chưa thực sự quan tâm đến học sinh để vận động phụ huynh giúp đỡ các em hoàn
9


thành mục tiêu bài học.
d. Giáo viên cần nắm rõ nội dung của từng dạng bài:
Nội dung dạy học của bài A là:
- Đọc và hiểu một văn bản.
- Luyện tập kỹ năng nói về chủ điểm mới.
- Luyện tập về từ và câu.
Nội dung của bài B là:
- Kể chuyện (Kể câu chuyện đã học ở bài A).
- Viết chữ hoa: chữ cái, từ ngữ có chữ cái viết hoa.

- Nhìn chép hoặc nghe viết một đoạn văn, đoạn thơ. Luyện tập viết từ đúng
quy tắc chính tả.
- Luyện tập về từ và câu.
- Luyện nói.
Nội dung dạy học của bài C là:
- Đọc và hiểu một văn bản.
- Luyện tập về từ và câu.
- Viết đoạn văn về chủ điểm mới.
- Luyện tập viết từ đúng quy tắc chính tả.[4]
2.3.5. Làm tốt công tác chuẩn bị cho học sinh lớp 2 trước khi bước vào năm
học mới 2016-2017.
Trước thời gian học chính thức một tuần nhà trường tổ chức cho giáo viên dạy
lớp 2 tập trung học sinh và thực hiện các việc sau:
- Phát tài liệu Hướng dẫn học các môn học cho học sinh, phối hợp với phụ
huynh học sinh để chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng học tập cần thiết cho học sinh.
- Phối hợp với phụ huynh học sinh tổ chức cho các em bầu Hội đồng tự quản
và các ban học tập. Giáo viên chỉ rõ nhiệm vụ của Hội đồng tự quản và các ban
học tập. Hướng dẫn các em thực hiện các nhiệm vụ của mình.
- Giáo viên tổ chức tập huấn cho Hội đồng tự quản lớp học.
- Tổ chức cho học sinh lớp 2 xem băng đĩa các tiết học theo Mô hình trường
học Mới Việt Nam để giúp các em tiếp cận nhanh hơn về phương pháp học. Sau
mỗi băng đĩa giáo viên đặt ra những câu hỏi để kiểm tra sự nhận thức, sự hiểu biết
của học sinh trong mỗi hoạt động.
- Hướng dẫn cụ thể, chi tiết đến từng học sinh cách học mới. Đồng thời giáo
viên cho học sinh thực hành luôn để các em quen dần với phương pháp học mới.
- Phối hợp với phụ huynh học sinh để hoàn thiện sơ đồ cộng đồng của lớp.
2.3.6. Tăng cường công tác dự giờ thăm lớp đối với môn Tiếng Việt lớp 2 và
nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn định kỳ.
Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu lên kế hoạch dự giờ ở tất cả các khối lớp,
song đặc biệt quan tâm đến công tác dạy học môn Tiếng Việt lớp 2. Tăng cường

công tác dự giờ, thăm lớp đối với dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 nhằm giúp đỡ
giáo viên, học sinh dần tháo gỡ những khó khăn. Mỗi tuần dự giờ ít nhất 1 tiết,
luân phiên dự các tiết học, các dạng bài để có thể nắm bắt một cách cụ thể về tình
hình dạy học môn Tiếng Việt ở mỗi lớp. Tất cả các vấn đề vướng mắc, bất cập cần
rút kinh nghiệm được trao đổi cụ thể với giáo viên giảng dạy lớp 2, với giáo viên
toàn trường trong buổi sinh hoạt chuyên môn. Mỗi khối lớp, môn học đều có Tài
10


liệu hướng dẫn giáo viên, yêu cầu giáo viên cần nghiên cứu kỹ tài liệu này để nắm
bắt tường minh hơn về cách hướng dẫn học sinh hoạt động học tập trong mỗi dạng
bài.
Tổ chức sinh hoạt chuyên môn trường 2 lần/tháng theo định kỳ, quan tâm
nhiều hơn đối với dạy học môn Tiếng Việt lớp 2.
Ngay tuần đầu tiên của năm học mới, nhà trường đã tổ chức sinh hoạt tổ
chuyên môn dành cho khối 2 để nắm bắt cụ thể tình hình học sinh tiếp cận chương
trình VNEN, xem có những khó khăn gì đối với học sinh học theo phương pháp
mới để cùng tháo gỡ kịp thời.
Trao đổi về vai trò, nhiệm vụ của giáo viên trong tiết dạy học VNEN, chỉ rõ
trách nhiệm của giáo viên, đó là:
Trong giờ học giáo viên phải là người linh hoạt, nhạy bén và phải biết chọn vị
trí thích hợp để quan sát được hoạt động của các nhóm, các học sinh của lớp. Nếu
có làm việc với một nhóm nào đó thì vẫn phải tìm vị trí đứng để có thể bao quát
được lớp học. Giáo viên chỉ đến hỗ trợ học sinh khi học sinh có nhu cầu cần giúp
đỡ hoặc giáo viên cần kiểm tra việc học của một học sinh hoặc một nhóm học
sinh.
Qua quan sát, kiểm tra giáo viên phải đánh giá được sự chuyên cần, tích cực
của mỗi học sinh, mỗi nhóm. Đồng thời phát hiện những học sinh chưa tích cực,
học sinh có khó khăn trong hoạt động để kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ các em hoàn
thành nhiệm vụ.

Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ đều định hướng về nội dung
trọng tâm cần thảo luận như:
- Cách tổ chức Hội đồng tự quản lớp học và hướng dẫn, bồi dưỡng của giáo
viên cho các thành viên, các ban của Hội đồng tự quản lớp học.
- Sự hợp tác của phụ huynh học sinh và sự phối hợp của cộng đồng với giáo
viên và nhà trường.
- Tổ chức lớp học ở mô hình trường học mới Việt Nam với các góc học tập,
thư viện lớp học, hòm thư cá nhân, sơ đồ cộng đồng, điều em muốn nói, …
- Vai trò của nhóm học tập, của nhóm trưởng.
- Đổi mới sư phạm của mô hình trường học mới Việt Nam.
- Tự học của cá nhân, học tập hợp tác và sự tương tác giữa các thành viên
trong nhóm của mô hình VNEN.
- Sử dụng tài liệu Hướng dẫn học và sự điều chỉnh nội dung cho phù hợp với
đối tượng học sinh. Sử dụng tài liệu hướng dẫn giáo viên.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học và đồ dùng dạy học tự làm.
- Quá trình tự đánh giá của học sinh.
- Vận dụng thông tư 22 về đánh giá, xếp loại học sinh Tiểu học và ra đề kiểm
tra theo thông tư 22.
Xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn trường cụ thể như sau:
TT
1

Nội dung sinh hoạt chuyên môn

Thời gian
thực hiện

Cách tổ chức Hội đồng tự quản lớp học và
hướng dẫn, bồi dưỡng của giáo viên cho Tháng 8, 9/2016
11


Ghi chú


các thành viên, các ban của Hội đồng tự
quản lớp học.
2

Sự hợp tác của phụ huynh học sinh và sự
phối hợp của cộng đồng với giáo viên và
nhà trường.

Trong tất cả các
buổi sinh hoạt
chuyên môn

3

Tổ chức lớp học ở mô hình trường học
mới Việt Nam với các góc học tập, thư
viện lớp học, hòm thư cá nhân, sơ đồ cộng
đồng, điều em muốn nói, …
Vai trò của nhóm học tập, của nhóm
trưởng.
Đổi mới sư phạm của mô hình trường học
mới Việt Nam.

Trong tất cả các
buổi sinh hoạt
chuyên môn


4
5
6
7
8
9
10
11
12

Tháng 8, 9/2016

Trong tất cả các
buổi sinh hoạt
chuyên môn
Tự học của cá nhân, học tập hợp tác và sự Trong tất cả các
tương tác giữa các thành viên trong nhóm buổi sinh hoạt
của mô hình VNEN.
chuyên môn
Sử dụng tài liệu Hướng dẫn học và sự điều Trong tất cả các
chỉnh nội dung cho phù hợp với đối tượng buổi sinh hoạt
học sinh.
chuyên môn
Việc sử dụng đồ dùng dạy học và đồ dùng Trong tất cả các
dạy học tự làm.
buổi sinh hoạt
chuyên môn
Quá trình tự đánh giá của học sinh.
Trong tất cả các

buổi sinh hoạt
chuyên môn
Tập huấn thông tư 22 về đánh giá học sinh Tháng 11/2016
Tiểu học.
Thực hiện thông tư 22 về đánh giá học
Từ
tháng
sinh Tiểu học.
11/2016 đến hết
năm học
Nâng cao kỹ năng ra đề kiểm tra định kỳ
Tháng 3, 4 năm
theo Thông tư 22.
2017

Ngoài các nội dung định hướng của sinh hoạt chuyên môn định kỳ, giáo viên
phản ánh kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình dạy học để cùng bàn
bạc, thống nhất và khắc phục.
2.3.7. Phát động phong trào thi đua trang trí lớp học thân thiện vào dịp chào
mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20.11.
Từ năm học 2016- 2017, Dự án VNEN không còn hỗ trợ kinh phí cho nhà
trường trong các hoạt động giáo dục như: trang trí lớp, làm đồ dùng, sinh hoạt
chuyên môn, khen thưởng học sinh, …. Tuy nhiên, việc trang trí lớp học vừa
12


mang tính chất tạo không khí lớp học sinh động, thân thiện, gây hứng thú học tập
mà còn là các công cụ hỗ trợ cần thiết trong nội dung các môn học. Chính vì vậy,
việc trang trí lớp học là rất cần thiết. Nhận thức được tính cần thiết của vấn đề
này, Ban giám hiệu đã đưa ra bàn bạc với giáo viên chủ nhiệm và được giáo viên

thống nhất cao, tham gia phong trào thi đua trang trí lớp học thân thiện vào đợt thi
đua chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Đây cũng là một tiêu chí trong
đợt thi đua chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam.
Sau ngày phát động thi đua 15/10/2016, giáo viên chủ nhiệm của các lớp đã
mời Ban đại diện phụ huynh đến để trao đổi về nội dung thi đua và cùng thống
nhất về các nội dung trang trí bổ sung cho phù hợp với lớp mình. Ban đại diện phụ
huynh đã phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, liên hệ với phụ huynh lớp mình để
cùng thực hiện nội dung thi đua của lớp. Tất cả các lớp đã nhận được sự ủng hộ
nhiệt tình của các bậc phụ huynh học sinh, hầu hết các phụ huynh đã tham gia tích
cực, phấn khởi và hiệu quả cao.
Kinh phí trang trí lớp được các bậc phụ huynh học sinh thống nhất trích từ quỹ
Ban đại diện cha mẹ học sinh các lớp.
2.3.8. Động viên, khích lệ quan tâm đến đội ngũ giáo viên.
Chương trình học với phương pháp dạy, phương pháp học mới, là năm đầu
tiên sau kết thúc Dự án VNEN nên bên cạnh sự giám sát, đốc thúc giáo viên thực
hiện tốt nhiệm vụ thì tôi đã thường xuyên quan tâm động viên, gần gũi, trao đổi
với giáo viên để chia sẻ những khó khăn, vướng mắc mà giáo viên, học sinh gặp
phải trong quá trình dạy – học kịp thời nhất, từ đó tìm ra những biện pháp để cùng
tháo gỡ những khó khăn.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường, thường xuyên khích lệ những
giáo viên có tinh thần trách nhiệm, có sáng tạo trong dạy học, làm đồ dùng, tuyên
dương những việc làm tốt giúp cho đồng nghiệp học tập và để nhân rộng những
gương điển hình, xuất sắc.
Nhà trường đã dành những phần thưởng thích đáng để động viên, khuyến
khích giáo viên có thành tích xuất sắc trong công tác giảng dạy, trong đọt thi đua,
trong công tác làm đồ dùng dạy học.
2.3.9. Kêu gọi, vận động phụ huynh học sinh tích cực tham gia làm đồ dùng
học tập cùng với giáo viên, học sinh.
Trong quá trình dạy học chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam rất
cần thiết sử dụng đến nhiều dụng cụ học tập, đặc biệt đối với học sinh lớp 2 đồ

dùng trực quan, các dụng cụ học tập cần hơn các lớp khác rất nhiều. Song kinh phí
hỗ trợ không có, kinh phí ngân sách nhà nước quá eo hẹp. Chính vì vậy, nhà
trường đã kêu gọi, vận động giáo viên tăng cường phối kết hợp với phụ huynh học
sinh trong việc làm đồ dùng dạy học và các dụng cụ học tập đối với những bài học
cần thiết phải có đồ dùng dạy học.
Vận động phụ huynh học sinh sưu tầm những đồ dùng, vật dụng truyền thống
có ở địa phương để phục vụ, hỗ trợ cho các bài học.
Còn phiếu học tập nhà trường vẫn tạo điều kiện hỗ trợ photo phiếu cho các lớp
bằng máy photo được cấp từ dự án và bao giờ cũng ưu tiên khối lớp 2 hơn cả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
13


Năm học 2016-2017, là năm học đã kết thúc Dự án VNEN, song không phải kết thúc Dự án là nhà trường
không thực hiện chương trình Mô hình trường học Mới Việt Nam. Bản thân tôi đã nhận thức được những tiến bộ
của chương trình để phát huy tối đa mặt ưu điểm, tìm tòi để khắc phục những khó khăn, những bất cập trong quá
trình thực hiện nhằm giúp học sinh, giáo viên đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động học, hoạt động dạy. Qua
thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi cũng đã một phần nào giúp đỡ giáo viên, học sinh khắc phục
những tồn tại để tiếp tục duy trì chương trình đạt hiệu quả cao nhất. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 2, các em đã
tiếp cận với phương pháp học một cách nhanh nhất, chất lượng học tập các môn học lớp 2 nói chung và môn
Tiếng Việt lớp 2 nói riêng được duy trì ổn định và kết quả môn Tiếng Việt lớp 2 cuối năm của nhà trường cụ thể là:

Số HS
khối 2
84

Số HS
được đánh
giá

84

Hoàn thành tốt
SL
TL
34

Hoàn thành
SL
TL

40,5 49

58,4

Chưa hoàn thành
SL
TL
1

1,1

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
3.1. Kết luận:
Năm học 2016-2017, là năm thứ năm thực hiện thử nghiệm chương trình Mô
hình trường học mới Việt Nam, Ban giám hiệu cùng các tổ trưởng tổ chuyên môn
trường Tiểu học Thành Vân đã rút được kinh nghiệm từ các năm học trước để đưa
ra các giải pháp, biện pháp tổ chức dạy học theo Mô hình trường học mới Việt
Nam đạt kết quả cao hơn. Đối với giáo viên đã quen với phương pháp dạy mới,
giáo viên đã chủ động với cách làm mới. Học sinh lớp 2 đã nhanh chóng làm quen

với phương pháp học mới. Các em đã hoàn toàn chủ động với phương pháp học
mới, các em tự tin, tích cực làm việc với tài liệu, tương tác với thầy cô, bạn bè đạt
hiệu quả. Đặc biệt các em học sinh đã mạnh dạn hơn, phát huy tính độc lập trong
suy nghĩ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống của các em được thể hiện tốt hơn. Việc
gắn kết giữa kỹ năng học tập và kỹ năng sống trong từng hoạt động học tập đã đáp
ứng mục tiêu giáo dục toàn diện trong sự nhẹ nhàng, thoải mái và ham thích của
học sinh.
Để thực hiện có hiệu quả chương trình Mô hình trường học mới Việt Nam, đặc
biệt sau kết thúc Dự án chúng ta cần:
- Nhà trường làm tốt công tác tuyên truyền để phụ huynh, cộng đồng có sự nhìn
nhận đúng đắn, kịp thời về mô hình trường học mới Việt Nam. Đồng thời tăng
cường công tác xã hội hóa giáo dục để phụ huynh, cộng đồng ủng hộ tích cực hơn
đối với các hoạt động giáo dục của nhà trường.
- Ban giám hiệu nhà trường cần phải chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong công tác
chỉ đạo triển khai thực hiện, cần động viên, khích lệ giáo viên khắc phục những
khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
- Quan tâm đến công tác sinh hoạt chuyên môn cấp trường, cụm trường với các
chuyên đề dạy học, cách tổ chức, quản lý, trang trí lớp học theo mô hình trường
học mới Việt Nam một cách có hiệu quả để giáo viên thường xuyên được trao đổi,
chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Giáo viên cần mạnh dạn trao đổi những khó khăn
14


vướng mắc để cùng nhau tháo gỡ, chỉnh sửa.
- Nhà trường cần tăng cường công tác dự giờ, thăm lớp để nắm bắt thực tế tình
hình dạy học của giáo viên, học sinh.
- Giáo viên cần tích cực trong công tác tự học tự bồi dưỡng, nắm bắt, tìm hiểu cái
mới để nâng cao trình độ chuyên môn. Đồng thời giáo viên phải nghiên cứu kỹ
nội dung từng bài học để nắm được lượng kiến thức cần định hướng cho học sinh
và để biết nội dung bài học nào chưa phù hợp với học sinh cần điều chỉnh.

- Các lớp học theo chương trình VNEN cần quan tâm đến các thành viên trong
Hội đồng tự quản và cần luân phiên bầu Hội đồng tự quản để học sinh mạnh dạn
hơn, phấn khởi hơn trong học tập.
- Cần phát huy những điểm mới, những ưu điểm của chương trình VNEN, vận
dụng linh hoạt trong quá trình dạy học, biết điều chỉnh các nội dung chương trình,
cách thức tổ chức, các logo cho phù hợp với đối tượng học sinh.
- Tạo động lực để giáo viên yêu nghề hơn, nhiệt tình, trách nhiệm hơn trong công
tác dạy học.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo:
- Chương trình VNEN là chương trình cần được tổ chức cho học sinh học 2
buổi/ngày. Chính vì vậy, nhà trường rất cần bổ sung đủ tỷ lệ giáo viên/lớp theo
quy định để sắp xếp, bố trí chuyên môn hợp lý, đạt hiệu quả hơn. Phân bố tỷ lệ
học sinh/lớp không quá đông để thuận lợi cho việc hoạt động nhóm.
- Tham mưu với Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện tăng cường kinh phí hoạt động
chuyên môn cho các nhà trường, đặc biệt là các trường thực hiện chương trình Mô
hình trường học Mới Việt Nam.
* Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
- Cần nhân rộng chương trình Tiếng Việt 1- Công nghệ cho tất cả các trường tham
gia VNEN trong tỉnh. Vì học sinh lớp 1 được học chương trình Tiếng Việt 1 Công nghệ thì kỹ năng đọc, viết của các em tương đối tốt, khi lên lớp 2 các em sẽ
dễ dàng tiếp cận với chương trình học VNEN.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc chỉ đạo để nâng
cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình VNEN sau kết thúc Dự
án để cùng trao đổi với đồng nghiệp, song do trình độ lý luận còn hạn chế nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý
kiến chân thành của các đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA
Thành Vân, ngày 25 tháng 5 năm 2017
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của

người khác.
Người thực hiện

Trương Thị Hằng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
15


[1] Một số tài liệu trên mạng Internet.
- Nguồn:
[2] Tài liệu tập huấn môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học Mới
Việt Nam.
[3] Tài liệu Hướng dẫn giáo viên môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình
trường học Mới Việt Nam.
[4] Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2 chương trình Mô hình trường học
Mới Việt Nam.

16


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trương Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường Tiểu học Thành Vân
Cấp đánh

TT


Tên đề tài SKKN

1.

Nâng cao chất lượng dạy học
giải toán có lời văn cho học

Kết quả
đánh giá
giá xếp loại xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng
A

Năm học đánh giá
xếp loại

2000-2001

sinh lớp 3.
2.

Chỉ đạo đổi mới phương pháp
dạy học nhằm nâng cao chất

Phòng


B

2005-2006

Sở

C

2008-2009

lượng giáo dục trong trường
Tiểu học Thành Vân.
3.

Giúp học sinh lớp 4 học tốt
các yếu tố hình học.

4.

Nâng cao chất lượng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 5.

Phòng

B

2012-2013

5.


Nâng cao chất lượng dạy học
môn Tiếng Việt lớp 2 chương

Sở

B

2013-2014

trình VNEN.



×