Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và bài học đối với sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.76 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Môn học:Tư tưởng Hồ Chí Minh
Học kỳ II (2019-2020)

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và bài
học đối với sinh viên

Sinh viên: Bùi Văn Danh
MSSV: 1718154
Lớp: 17CSH
Trường: Đại học Khoa học tự nhiên

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 06 năm 2020


2


Mục lục:
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.............................................5
1.

Cơ sở khách quan......................................................................................................5

1.1.


Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh...............................................5

a.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX................................5

b.

Bối cảnh thời đại...................................................................................................7

1.2.

Những tiền đề tư tưởng lí luận...............................................................................8

a.

Giá trị truyền thống dân tộc...................................................................................8

b.

Tinh hoa văn hóa nhân loại....................................................................................9

c.

Chủ nghĩa Mác – Lênin:......................................................................................13

2.

Nhân tố chủ quan....................................................................................................15


2.1.

Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh.............................................................15

2.2.

Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn............................................16

II.

BÀI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN.........................................................................16
1.

Tiếp thu và kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc đối với sinh viên.....16

2.

Tiếp thu giá trị tinh hóa văn hóa nhân loại đối với sinh viên...............................17

3.

Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin.............................................................................18

4.

Học tập tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh..........................................................19

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


3


PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất
của nhân loại – Người chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường – Người sáng lập, lãnh
đạovà rèn luyện Đảng ta, Nhà nước ta,… Cuộc đời hoạt động của người đã để lại cho
chúng ta và các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô giá, đó chính là Tư tưởng của Hồ
Chí Minh. Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng định “chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng
Việt Nam”. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến mơi trong
tư duy luận của Đảng ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống tư tưởng quan điểm cơ bản phản ánh thực tiễn
cách mạng thuộc địa. Trên cơ sở kế thừa, vận dụng, và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tinh hoá văn hoá dân tộc và trí tuệ nhân loại nhằm giải phóng dân tộc giai cấp, con
người. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Và bất cứ một tư tưởng nào cũng phải có nguồn
gốc, cơ sở hình thành, đó chính là tuân theo qui luật hình thành tư tưởng từ ít đến nhiều,
từ hình thức đến nội dung, bản chất. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không nằm
ngoài qui luật đó.

4


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.

Cơ sở khách quan


1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Vào năm 1859, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta, giữa lúc chế độ phong
kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến trở nên gay gắt. Trước hành động xâm lược của đế quốc Pháp, chế độ
phong kiến mà đại biểu là triều đình nhà Nguyễn đã chọn con đường quỳ gối đầu hàng,
dâng nước ta cho Pháp. Chế độ phong kiến Việt Nam trước đây đại biểu cho dân tộc, đến
nay bộc lộ rõ sự thối nát, bất lực và phản động. Mặc dù vậy, ngay từ khi đế quốc Pháp
xâm lược nước ta, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta với truyền thống
kiên cường bất khuất đã liên tiếp nổ ra khắp Bắc, Trung, Nam. Cuộc chiến đấu vô cùng
anh dũng của nhân dân ta đã gây cho bọn xâm lược rất nhiều khó khăn, thiệt hại. Phải mất
một phần ba thế kỷ, đế quốc Pháp mới đặt được ách thống trị lên đất nước ta. Tuy nhiên,
các cuộc kháng chiến anh dũng đó đều không thành công, đều bị dập tắt trong máu lửa.
Năm 1885, phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước phát triển
rầm rộ, nhưng cũng chỉ kéo dài được đến năm 1896. Tuy các sĩ phu giàu lòng yêu nước,
nhưng không có khả năng vạch ra được giải pháp mới phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và
xu thế phát triển của thời đại. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, các phong trào yêu nước chống
Pháp đều bị thất bại. Bởi kẻ thù mới này có tiềm lực kinh tế, có đội quân xâm lược nhà
nghề với ưu thế về vũ khí, kỹ thuật và phương tiện chiến tranh. Nhận định phong trào
chống Pháp của nhân dân ta thời kỳ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này có viết: “Cuối
thế kỷ XIX chủ nghĩa đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam. Bọn vua quan và phong kiến đê
tiện và hèn nhát đầu hàng và câu kết với bọn đế quốc để tiếp tục nô dịch nhân dân Việt
Nam nhiều hơn, khiến nhân dân Việt Nam khổ cực không kể xiết. Nhưng đại bác của bọn
đế quốc không thể át tiếng nói yêu nước của nhân dân Việt Nam…Phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng

5


dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám

mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam”
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi đã cơ bản hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm lược nước
ta, đế quốc Pháp tiến hành kế hoạch “khai thác thuộc địa”, nhằm bóc lột, vơ vét sức
người, sức của ở Việt Nam. Dưới chế độ khai thác, bóc lột và thống trị của đế quốc Pháp,
xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi quan trọng về kinh tế, chính trị và văn hóa.
Cũng vào thời điểm đó, các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản trên thế giới dồn dập
dội vào nước ta: tư tưởng của Cách mạng Nga năm 1905 dưới tác động của nước Nhật
duy tân, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của Lương
Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tư tưởng của Cách mạng tư sản Pháp, v.v.. Dưới ảnh hưởng
của các trào lưu tư tưởng trên, phong trào yêu nước Việt Nam chuyển sang khuynh hướng
mới mà ta thường gọi là cuộc vận động dân tộc dân chủ tư sản, tiêu biểu là các phong trào
Đông Du của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, cải cách dân
chủ của Phan Châu Trinh, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ,…. Sau một thời gian phát
triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp nhau tan rã trước sự đàn áp man rợ của đế
quốc Pháp. Mặc dù còn thụ động, chưa tin vào sức mạnh của chính dân tộc mình, mà
nặng về cầu viện, cải cách, nhưng giải pháp mới theo khuynh hướng dân chủ tư sản chí ít
cũng đặt vấn đề của dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế và thời đại nhất định.
Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây dẫn đến những thay
đổi về tính chất và mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đối tượng và lực lượng của
cách mạng Việt Nam. Cơ cấu giai cấp xã hội cũng thay đổi: giai cấp công nhân và giai cấp
tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai cấp cũ, rồi kéo theo sự thay đổi về ý
thức xã hội và đời sống. Bị đế quốc Pháp xâm lược, xã hội Việt Nam từ một xã hội phong
kiến chuyển thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
Việt Nam là: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược; mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam – chủ yếu là nông dân – với giai cấp địa chủ phong kiến. Đối
tượng cần phải đánh đổ của cách mạng Việt Nam là đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ
phong kiến. Trong bối cảnh của tình hình quốc tế và trong nước như vậy, giải phóng dân
tộc là yêu cầu căn bản của xã hội Việt Nam, là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, là
6



nguyện vọng thiết tha của cả dân tộc Việt Nam. Rõ ràng, đến đầu thế kỷ XX, cách mạng
Việt Nam diễn ra cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Cách mạng Việt Nam ở trong "tình hình đen tối như không có
đường ra”
b. Bối cảnh thời đại
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở Anh,
Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Ở các nước này, giai cấp tư sản tăng cường áp
bức, bóc lột giai cấp công nhân. Và cũng tại đây, phong trào công nhân phát triển từ "tự
phát" đến "tự giác", mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trở nên
gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có
lý luận tiên phong dẫn đường. Để đáp ứng đòi hỏi đó, chủ nghĩa Mác ra đời với Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác khẳng định sứ mệnh lịch sử toàn
thế giới của giai cấp công nhân là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới, xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Đến cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Các nước đế quốc tranh giành nhau xâm chiếm thuộc địa và đã căn bản hoàn
thành việc phân chia thế giới, áp đặt ách thống trị thực dân ở khắp các nước Á, Phi và Mỹ
Latinh. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm các nước tư bản, có nền công
nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây, còn khu vực còn lại gồm các nước
thuộc địa và phụ thuộc, nền kinh tế còn lạc hậu, thường được gọi là phương Đông. Vấn đề
đặt ra cho các nước thuộc địa và phụ thuộc là làm thế nào để được giải phóng. Thế giới
hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc,
thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân ở các nước tư bản.
Sang đầu thế kỷ XX, nhiều sự kiện lịch sử diễn ra dồn dập, báo trước sự chuyển biến
của tình hình quốc tế. Cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc đã dẫn
đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), làm cho các mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân

7


ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ,
Ápganixtan, Inđônêxia, v.v… Bão táp cách mạng với "phương Đông thức tỉnh" là nét đặc
sắc của tình hình quốc tế trong giai đoạn này.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, Lênin đã phân tích tình hình cụ thể, tiếp tục phát triển chủ
nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành
công ở một số nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình; đồng thời nêu
lên nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp
công nhân ở các nước tư bản và các dân tộc ở các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh
chung chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Thực tiễn chứng minh lý luận của Lênin là
đúng với thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 dưới sự lãnh đạo của
Đảng Bônsêvích Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với cách mạng thế giới,
nhất là cách mạng ở thuộc địa. Năm 1919, Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính ở
các nước thành lập Quốc tế Cộng sản - một tổ chức quốc tế của phong trào cách mạng thế
giới. Quốc tế Cộng sản ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất của phong trào cách
mạng vô sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi thế giới.

1.2.

Những tiền đề tư tưởng lí luận

a. Giá trị truyền thống dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc,
tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền thống văn hóa ngàn
năm của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước
và giữ nước đã tạo lập cho mình một nên văn hóa riêng, phong phú và bền vững với

những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí kiên
cường, bất khuất, tự lập, tự cường; tinh thần nhân nghĩa, truyền trống đoàn kết, tương
thân, tương ái; cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, lạc quan, yêu đời;….
Trong những giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm cao
quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt
Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc. Chúng ta có thể khẳng định rằng
chủ nghĩa yêu nước như một dòng chảy xuyên suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm đấu
8


tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; là bản sắc văn hóa, là thước đo cho
phẩm giá của con người Việt Nam, mà mọi học thuyết du nhập vào Việt Nam đều phù hợp
với truyền thống và chủ nghĩa yêu nước đó.
Trong các giá trị truyền thống Việt Nam, tinh thần nhân nghĩa, truyền trống đoàn
kết, tương thân, tương ái là những nét hết sức đặc sắc. Truyền thống này hình thành cùng
lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên
và giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng
bác ái” và chính Người là biểu tượng, là kết tinh của lòng nhân ái Việt Nam. Lòng nhân
ái, vị tha của Hồ Chí Minh xuất phát từ lẽ sống “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” và
dành tất cả cho mọi kiếp người, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, già trẻ, gái
trai, hễ là người Việt Nam yêu nước đều có chỗ trong trái tim và tấm lòng nhân ái của
Người. Người lo cho đồng bào phải chịu cực khổ, đau đớn khi đất nước trong cảnh “một
cổ hai tròng”. Chính điều này đã thúc giục Người phải nhanh chóng tìm ra con đường
mới để giúp dân tộc thoát khỏi cảnh lầm than, cực khổ.
Cuối cùng, dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo
trong sản xuất và chiến đấu và cũng là một dân tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng
tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, từ Nho, Phạt, Lão của phương Đông đến tư tưởng
văn hóa hiện đại phương Tây. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn
của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại

 Tiếp thu những giá trị phương Đông:
Về Nho giáo:
Nho giáo có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bởi vì Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất thân trong một gia đình nhà Nho nền nếp. Ngay
từ thời niên thiếu, Hồ Chí Minh đã được học chữ Hán ở cha mình (cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc) cùng các thầy giáo vốn là những nhà nho yêu nước như Hoàng Phan Quỳnh,
Vương Thúc Quý, Trần Nhân…. Chính vì có ảnh hướng lớn về Nho giáo từ nhỏ nên khi
đến Liên Xô năm 1923, trả lời phỏng vấn của một nhà báo, Người đã tự giới thiệu: “Tôi
sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường
học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ
khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái
9


niệm về “thế giới đại đồng””. Hay tại Đại hội Quốc tế cộng sản năm 1935, Người ghi
trong lý lịch: “Thành phần gia đình nhà nho”
Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra
nó là Khổng Tử đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo. Hơn ai
hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo
có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân
tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận xét: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử
có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Theo đó,
những mặt tích cực của Nho giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu
học với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo
hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ
cai trị.
Bên cạnh kế thừa, Hồ Chí Minh còn khắc phục về quan điểm Nho giáo thời đó, cụ
thể về phạm trù “trung–hiếu” trong triết lý phương Đông. Trong giai đoạn phong kiến,
quan niệm về “trung” trong Nho giáo được hiểu là "trung quân", có nghĩa là hết lòng với

vua. Điều này ta có thể thấy rõ trong câu nói của Khổng Tử: "Quân sử thần dĩ lễ, thần sự
quân dĩ trung" (Nhà vua sai khiến bề tôi thì dùng lễ, bề tôi phụng sự nhà vua thì giữ đạo
trung). Còn về chữ “hiếu” trong quan niệm của Nho giáo có nội dung khá phong phú.
Nhưng phần lớn đều nói về trong mối quan hệ gia đình, ở mối quan hệ con cháu đối với
ông bà cha mẹ, nêu lên nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà cha mẹ, mà cụ thể đó là con
cái phải phụng dưỡng bố mẹ khi già và tế tự họ khi mất. Khổng Tử nói : "Sống thì phải
phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ". Theo dòng chảy của thời gian, trung và
hiếu đã thâm nhập vào nước ta và đã trở thành một trong những chuẩn giá trị của các triều
đại phong kiến. Bác Hồ tiếp nhận trung - hiếu ở một tầm nhận thức mới. Bác đã gọt bỏ
nội dung cũ của Nho giáo là trung với vua và đưa vào đó nội dung mới : Trung là trung
với nước. Bên cạnh đó, chữ hiếu không còn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con đối
với ông bà cha mẹ mình, mà hiếu còn là hiếu thảo với nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.
Về phật giáo:
Cùng với Nho giáo, trên bình diện tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều mặt gần
gũi, gặp gỡ với giáo lý Phật giáo. Nhận rõ những giá trị cao đẹp của Phật giáo, có sự gần
10


gũi, gặp nhau với tư tưởng Phật giáo trên những nét lớn, Người bao giờ cũng nhìn Phật
giáo với một thái độ trân trọng: “Nền tảng và truyền thống của triết học Ấn Độ là lý
tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ, tư tưởng của Phật giáo, nghệ thuật
khoa học Ấn Độ đã lan khắp thế giới”. Từ đó Người “Đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng
hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo
đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã
nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc,
động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước”:
 Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể
thương thân - một tình yêu bao la không chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim
muông, cây cỏ.
 Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.

 Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân biệt
đẳng cấp.
 Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất
thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng.
 Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất
khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam,
chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất
nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Bên cạnh những tác động tích cực, Phật giáo cũng có những tác động tiêu cực mà
Người khắc phục và loại bỏ. Đó là vấn đề tình yêu thương con người trong Phật giáo, con
người hay có quan niệm về tình yêu thương con người trong quá khứ, luôn suy nghĩ và
tưởng nhớ về những điều đẹp đẽ trước đây cho nên làm cho con người không chú tâm vào
những thứ ở thực tại. Hay là thế giới quan Phật giáo chú trọng đến cái tâm ít quan tâm đến
các vấn đề kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ; và Phật giáo chỉ chú trọng đến cái khổ về
tinh thần mà không chú trọng đến cái khổ về vật chất, sự phát triển của xã hội. Chính
những điều này làm cho con người khó có thể ý thức và tiếp thu những tư tưởng mới , đặc
biệt là trong tình hình của đất nước bị thực dân đô hộ.
Về chủ ngĩa Tam dân:
Hồ Chí Minh đã tìm thấy, tiếp thu những điều thích hợp với điều kiện của nước ta
trong chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn, đó là, dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân
11


sinh hạnh phúc. Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn về
bản chất thuộc hệ tư tưởng tư sản, nên có nhiều hạn chế và Người đã phát triển khái niệm
“ độc lập - tự do - hạnh phúc” lên một trình độ mới, mang tính giai cấp, tính nhân dân,
tính dân tộc và tính cách mạng triệt để.
 Tiếp thu những giá trị phương Tây:
Trong ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu
ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng

của phương Tây.
Về tư tưởng và văn hoá Pháp: Từ tháng 9-1905 đến tháng 6-1910, Người được
cha xin cho theo học qua các trường Tiểu học Pháp - bản xứ (Vinh), Tiểu học Pháp - Việt
(Thừa Thiên), Trường Quốc học Huế, Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn. Qua các trường ấy,
được tiếp xúc với sách báo Pháp, thầy giáo người Pháp, Người đã có những hiểu biết ban
đầu về văn hóa phương Tây. Sau này, Người kể rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu
tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái... Và từ thuở ấy, tôi rất muốn
làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” .
Năm 1917, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Anh sang Pháp, một quyết định đã mở ra thời kỳ
mới trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nghiên cứu cách mạng tư sản Pháp
năm 1789, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra 5 bài học mà cách mạng Pháp dạy cho chúng ta:
Dân chúng công nông là gốc cách mệnh; Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền mới
thành công; Đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều; Dân khí mạnh thì
quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại; Cách mệnh Pháp hy sinh rất nhiều
người mà không sợ; ta muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ phải hy sinh.
Về tư tưởng và văn hoá Mỹ: Đến nước Mỹ vào cuối năm 1912, vừa đi làm thuê để
kiếm sống, vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đến thăm quận Brooklin của thành phố New York, tới cả những ngôi nhà ổ chuột ở khu
Harlem… để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những
người da đen. Người đã có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ
với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng năm 1776, nhưng đánh giá đây là cuộc cách mạng
không triệt để và khẳng định không đi theo hình mẫu của cách mạng đó, vì “chúng ta đã
hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy
12


sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Đồng thời Hồ Chí Minh đã tiếp thu
một cách sáng tạo những tư tưởng về “quyền bình đẳng”, “quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc” của con người, về quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ và

về ý chí đấu tranh giành độc lập, tự do của nhân dân được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc
lập 1776 của nước Mỹ.
c. Chủ nghĩa Mác – Lênin:
Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước vào tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Khác với nhiều nhà lý luận tư sản phương Tây, đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm giải quyết những vấn đề về lý luận hơn là vấn đề thực tiễn;
còn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa đó, trước hết là nhằm giải quyết nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam. Song, theo Hồ Chí Minh, Mác đã xây dựng học thuyết của
mình trên một cơ sở lịch sử nhất định, đó là lịch sử châu Âu, mà châu Âu chưa phải là
toàn thể nhân loại, nên cần “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố
nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô viết đảm nhiệm”
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp nhận thức Mác xít,
đồng thời theo lối "đắc ý, vong ngôn" của phương Đông, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái
bản chất chứ không bị trói buộc vào cái vỏ của ngôn ngữ. Người tiếp thu, vận dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tự tìm ra những chủ
trương, giải pháp thích hợp với từng hoàn cảnh, thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Người còn chỉ rõ
vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với những người cách mạng nói chung,
những người cách mạng Việt Nam nói riêng: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không
những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi
cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin đối với tư tưởng Hồ Chí Minh được biểu hiện ở những điểm chính là:
 Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đem lại cho Hồ Chí Minh thế giới quan và phương pháp luận
khoa học chỉ đạo hoạt động nhận thức của Người. Đứng vững trên nền tảng thế giới
quan, phương pháp luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xem xét, đánh giá được các hiện
13


tượng lịch sử, những giá trị truyền thống của dân tộc, các học thuyết trong xã hội... một

cách đúng đắn, trên cơ sở đó lọc bỏ các yếu tố lỗi thời, lạc hậu, hấp thụ và chuyển hoá
những nhân tố tiến bộ cách mạng, để từng bước phát triển và hoàn thiện hệ thống tư
tưởng của mình.
 Trong nguồn gốc tư tưởng lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố quyết định bản
chất giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh. Để hình thành, phát triển tư tưởng của mình,
Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa trong nhiều học thuyết về chính trị, xã hội, quân sự
của nhân loại. Trong các học thuyết đó, có học thuyết thuộc hệ tư tưởng phong kiến, có
học thuyết thuộc hệ tư tưởng tư sản và có học thuyết thuộc hệ tư tưởng vô sản. Song,
trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh
tuy là một người yêu nước nồng nàn, nhưng chưa phải là một người cộng sản. Nhờ tiếp
thu chủ nghĩa Mác - Lênin gắn liền với việc tích cực hoạt động trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản, trở thành người
yêu nước theo lập trường vô sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
 Trong nguồn gốc tư tưởng lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố có ảnh hưởng sâu
sắc đến nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung những nguyên lý, những quy
luật của lý luận Mác - Lênin nói chung, nhất là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về lý luận nhận thức, hình thái kinh tế xã hội, cách mạng giải phóng dân
tộc, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế, đảng và nhà nước vô sản, đạo đức, nhân văn, văn hoá, phương pháp cách mạng,
bạo lực cách mạng, vai trò của con người trong hoạt động quân sự, mối quan hệ giữa
chính trị và quân sự... mà Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu chính là cơ sở quan
trọng nhất để Hồ Chí Minh từng bước xây dựng, phát triển tư tưởng của mình về các
vấn đề đó.
 Trong nguồn gốc tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố có ảnh hưởng to
lớn đến tính khoa học, cách mạng và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kế thừa
có chọn lọc nhiều chủ nghĩa, học thuyết của nhân loại đã góp phần giúp cho Hồ Chí
Minh xây dựng phát triển hệ thống quan điểm của mình mang tính khoa học, cách mạng
và có sức sống mãnh liệt. Trong những học thuyết, chủ nghĩa này, chỉ có chủ nghĩa Mác
- Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất.
14



Như vậy, trong nguồn gốc tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc cơ
bản, chủ yếu, có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh.

2.
2.1.

Nhân tố chủ quan
Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên

cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận thức thực tiễn, làm phong phú thêm sự
hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở quan trọng để tạo dựng nên những
thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận của Người về sau.
Hồ Chí Minh nhận thấy các con đường cứu nước của các tiền bối không phù hợp và
đúng đắn về sự thay đổi của dân tộc và thời đại. Người không cứu nước theo ngọn cờ
phong trào Cần Vương, hay khởi nghĩa “nặng cốt cách phong kiến” như cụ Hoàng Hoa
Thám, Người cũng không theo chính sách cải lương “chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng
thương” cụ Phan Châu Trinh, cũng không cứu nước theo phòng trào Đông Du chẳng khác
nào “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” của cụ Phan Bội Châu. Tuy người rất khâm
phục tinh thần cứu nước của cha ông, nhưng Nguyễn Tất Thành không tán thành các con
đường của họ, không thể dựa vào nước ngoài để giải phóng dân tộc. Đó là tư duy rất trí
tuệ ở Hồ Chí Minh. Mà Người quyết tâm một hướng đi mới. Hướng đi mới này không
giống như những bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…ra đi với tư cách
người trí thức, du học. Ngày 05/06/1911, Người đã rời bến Nhà Rồng (Sài Gòn) để bắt
đầu cuộc hành trình vạn dặm để tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Nhờ vào con
đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan,
cách mạng và khoa học.


2.2.

Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sự

nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả
cho dân tộc và nhân loại. Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và trí tuệ siêu
việt của Hồ Chí Minh. Phẩm chất, tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh
giá các sự vật, sự việc chung quanh.
15


Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân
dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng,
có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá ra lý luận cách mạng thuộc
địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc
và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn,
sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học tập để chiếm
lĩnh đỉnh cao trí thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ
cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, sẵn sàng chịu đựng
hy sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.

II.

BÀI HỌC ĐỐI VỚI SINH VIÊN.

1. Tiếp thu và kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc đối với sinh viên

Phát triển là sự kế thừa và đổi mới. Sinh viên Việt Nam ngày nay là thế hệ trí thức
tương lai của đất nước, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình hội nhập quốc tế. Được sống và học tập trong nhà
trường cũng như xã hội luôn coi trọng truyền thống, nên trong quá trình hình thành lối
sống mới của mình, sinh viên Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng và kế thừa, phát huy được
những giá trị của văn hóa truyền thống nói chung và giá trị tốt đẹp trong lối sống dân tộc
nói riêng. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
 Một là phát huy chủ nghĩa yêu nước. Ngày nay, lòng yêu nước giới trẻ không còn là
sự đấu tranh chống giặc, bảo vệ tổ quốc mà còn thể hiện trên mọi phương diện bắt
đầu từ những việc nhỏ nhặt nhất như cố gắng học tập tốt, rèn luyện tốt, hoàn thành
nhiệm vụ học tập của mình hay tham gia nghiên cứu khoa học; tự giác thực hiện
chính sách, pháp luật, tôn trọng kỷ cương; lao động tích cực, hăng hái, làm giàu chính
đáng; có khi lại là việc nhỏ như không vứt rác bừa bãi, không tàn phá môi trường,
không hủy diệt muông thú. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
tiến công vào mặt trận kinh tế, làm giàu cho đất nước được xem như nhiệm vụ then
chốt của thanh niên. Ngày hôm nay, trên khắp mọi miền Tổ Quốc đã xuất hiện hàng
loạt gương thanh niên vượt khó vươn lên. Góp phần làm cho "nước mạnh". Đồng thời
16


không tiếp thu những quan điểm lệch lạc gây hại cho xã hội hay theo lời xúi giục
chống phá Cộng sản.
 Hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền trống đoàn kết, tương thân, tương ái. Điều này ta
có thể thấy rõ qua việc tham gia các phong trào, hoạt động xã hội như tham gia các
câu lạc bộ tình nguyện, câu lạc bộ tình thương, câu lạc bộ hiến máu nhân đạo, câu lạc
bộ giúp người già neo đơn, câu lạc bộ võ, câu lạc bộ bóng rổ, bóng đá, cầu lông, bóng
chuyền,... Tham gia những hoạt động đó giúp ta sống đẹp hơn, sống lành mạnh hơn,
suy nghĩ lạc quan hơn, yêu đời hơn, sống có ích cho xã hội hơn. Không những thế mà
nó còn giúp chúng ta có năng lực lãnh đạo tập thể, tăng khả năng làm việc nhóm, gặp
gỡ làm quen được nhiều người tốt có cùng lí tưởng và biết đâu một trong số đó sẽ là

bạn tri kỉ của ta trong cuộc đời.
 Ba là cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo. Đây là một yếu tố rất quan trọng đối
với sinh viên hiện nay, bởi vì chính những yếu tố này quyết định thành bại đối với
một sinh viên. Chỉ có sinh viên cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo mới là nguồn
tài nguyên con người quý giá giúp cho đất nước phát triển. Thiếu một trong những
yếu tố trên cũng không được, bởi vì thực tế Bác có nhắc “Có tài mà không có đức là
người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”
2. Tiếp thu giá trị tinh hóa văn hóa nhân loại đối với sinh viên
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong
thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm
nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn
hóa, pháp luật, giáo dục,... Và Sinh viên là một thế hệ năng động và tràn đầy năng lượng,
vì thế việc hội nhập thế giới dễ dàng hơn. Chúng ta có thể tiếp thu những giá trị tinh hoa
văn hóa nhân loại thông qua các hoạt động cụ thể như: trao đổi sinh viên giữa các trường
đại học trên thế giới; tổ chức hoạt động giao lưu học hỏi về văn hóa các nứơc trên thế
giới….
Bên cạnh đó, đặc biệt là sự phát triển vũ bão của internet, của các phương tiện
truyền thông thì chỉ ngồi một chỗ và qua một cú nhấp “chuột” người ta cũng có thể biết
được tin tức mới mẻ nhất ở mọi ngóc ngách trên hành tinh. Chưa bao giờ cầu nối giữa con
17


người với con người, quốc gia với quốc gia bị rút ngắn đến mức thấp nhất như vậy. Các
nền văn hóa đều coi đây vừa là cơ hội vừa là thách thức, cơ hội để hòa nhập, để hiểu
nhiều hơn những nền văn hóa khác, qua đó cũng để hiểu mình hơn, hiểu rõ và sâu hơn nét
riêng của mình. Thách thức là dễ bị hòa tan, dễ bị đánh mất bản sắc. Chính vì điều này
sinh viên hay giới trẻ cần nhận thức rõ những điều đúng sai, từ đó tránh được những điều
tiêu cực có thể gây ra hậy quả xấu.
3. Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin
Sinh viên cần học tập và hiểu rõ thế giới quan của Mác-Lênin vì đó chính là thế giới

quan duy vật biện chứng - nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp thu những nguyên lý,
quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri thức, những quan niệm của con người
về thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới đó. Là một hệ thống tri thức,
quan niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức
đặc thù của con người, chứ không phải là phép cộng giản đơn tổng số các tri thức khoa
học cụ thể.
Mặc khác, khi hiểu rõ về Mác-Lênin, sinh viên sẽ được trang bị cho họ những kiến
thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con
người và các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển
tất yếu của xã hội... Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống
cũng như cách vận dụng những định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn
cuộc sống. Chẳng hạn, từ tri thức về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy, cung cấp cho sinh viên một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và
khẳng định vai trò, vị trí của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là,
khi phân tích kết cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, với tất cả các quy luật tác động và
chi phối nó, C.Mác đã kết luận: Sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên. Chính những kết luận như vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh viên
một niềm tin vào sự phát triển.
4. Học tập tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng mà sinh viên cần phải noi theo. Bác
không chỉ giàu về mặc tri thức mà còn là một người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
18


Về tri thức, sinh viên cần nhận thấy rõ về phong cách tự học của Người từ đó áp
dụng cho bản thân mình để rèn luyện và trau dồi thêm kiến thức. Chính vì khả năng tự
học của Bác cao nên Người có thể thành thạo 9 loại ngôn ngữ và có thể đọc viết nhiều
loại văn bảng trên thế giới. Còn đối với sinh viên hiện nay tự học là tự mình xây dựng kế
hoạch, đặt ra mục tiêu, xác định phương pháp học tập; năng động tìm tòi, phân tích nội
dung bài học, tài liệu tiến tới làm chủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; có khả năng tự chủ trước

những tác động tiêu cực của xã hội.
Về đạo đức, Hồ Chí Minh không chỉ là nha đạo đức học lỗi lạc mà con là một tấm
gương đạo đức vô song. Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo đức
của Người có một sức sống mãnh liệt và cổ vũ lớn lao với nhân dân ta và nhân dân thế
giới. Để có đủ tài đức để trở thành chủ nhân tương lai của đất nước , thanh niên cần phải
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thanh niên cần trung với nước ,
hiếu với dân , suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ,
giải phóng con người.đó chính là một phẩm chất đạo đức quan trọng của sinh viên hiện
nay, chính là sự trung thành với đất nước với nhân dân, và đó cũng chính là phẩm chất
đạo đức cần có với sinh viên của đất nước đi theo con đường Xã hội Chủ nghĩa như đất
nước Việt Nam chúng ta, đạo đức vì cộng đồng vì nhân loại. Học cần, kiệm, liêm , chính,
chí công vô tư, đời riêng trong sáng , nếp sống giản dị và đức khiêm tốn vô thường. Một
đạo đức hi sinh tính cá nhân của con người, không phải vì riêng tư, từ bỏ những ham
muốn cá nhân , sống trong sạch, giản dị , giàu lòng nhân ái , gương mẫu trong sinh hoạt
học tập, tránh rơi vào thói ích kỉ , cá nhân , tham lam . Học tấm gương về ý chí và nghị
lực tinh thần to lớn quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích
trong cuộc sống. Có được đức tính như vậy sinh viên có thể vượt qua các khó khăn thủ
thách gặp được trong cuộc sống và sẽ gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống.

PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện
chứng truyền thống văn hóa của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác-Lênin
làm nền tảng cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của
Hồ Chí Minh – một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân
19


cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam
hiện đại.
Thông qua những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên có thể rút ra

được nhiều bài học quý giá cho bản thân. Từ những điều kiện đó sinh viên cần phải không
ngừng rèn luyện cho bản thân để ngày càng hoàn thiện chính mình và tích cực tham gia
vào việc xây dựng cho quê hương đất nước ngày càng giàu mạnh.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị - Hành chính, 2011
Đặng Quốc Bảo, 2008, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội
Hồ Chí Minh, Toàn tập, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội, Tập 6
5. Website: www CPV.ORG.VN

21



×