Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bài tập nhóm học phần luật hình sự việt nam 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.28 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẦN: LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1

THÀNH VIÊN NHÓM:
TRẦN THỊ NGỌC

LỚP: LUẬT INH TẾ K24A1

HÀ BẢO HOÀI

LỚP: LUẬT KINH TẾ K24A1

ĐINH THU HƯƠNG

LỚP: LUẬT KINH TẾ K24A1

NGUYỄN HOÀI LINH

LỚP: LUẬT KINH TẾ K24A1

NGUYỄN VĂN KIÊN

LỚP: LUẬT KINH TẾ K24A1

PHÌN THỊ KIM OANH

LỚP: LUẬT KINH TẾ K24A2


NGUYỄN TIẾN DŨNG

LỚP: LUẬT KINH TẾ K24A1

NĂM 2020


Câu 1:
a,
Hiệu lực theo thời gian là phạm vi áp dụng BLHS 2015 đối với hành vi phạm tội trong
khoảng thời gian nhất định. Hiệu lực theo thời gian được quy định cụ thể tại Điều 7
BLHS 2015:
“Điều 7. Hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian
1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực
thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng
mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có
lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện
trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một
hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo,
miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt,
tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm
tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có
hiệu lực thi hành.”
Như vậy, chúng ta xác định thời điểm thực hiện tội phạm qua 02 trường hợp:
+ Đối với tội phạm được thực hiện trong một khoảng thời gian thì tất cả quá trình thực
hiện tội phạm là thời điểm thực hiện tội phạm.
+ Điều luật được áp dụng là điều luật đang có hiệu lực thi hành vào thời điểm cuối cùng

của việc thực hiện tội phạm.
Lưu ý: Hiệu lực hồi tố
BLHS 2015 chính thức có hiệu lực (được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án) đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01
tháng 01 năm 2018.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, BLHS 2015 vẫn có hiệu lực vào trước thời
điểm trên, đây được gọi là “hiệu lực hồi tố” và được ghi nhận cụ thể tại điểm b khoản 1
Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 như sau:
“Các điều khoản của BLHS 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự,


miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người
phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ
00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị
điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành
hình phạt, xóa án tích.”
b,
-Việc áp dụng BLHS 1999 và BLHS 2015 trong cùng một vụ án khi quyết định hình phạt
của Tòa án cấp sơ thẩm là hoàn toàn phù hợp vì:
Ngày 09/01/2018, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn 04/TANDTC - PC hướng
dẫn việc áp dụng BLHS năm 2015 và Nghị quyết số 41 của Quốc hội như sau:
TANDTC yêu cầu các TAND, Tòa án quân sự các cấp và các đơn vị thuộc TANDTC
trong qua trình giải quyết vụ án hình sự và thi hành án hình sự cần lưu ý một số vấn
đề sau:
- Tất cả điều khoản của BLHS 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018.
- Những điều khoản của BLHS 2015 xóa bỏ tội phạm, hình phạt, tình tiết tăng nặng; quy
định hình phạt nhẹ; miễn giảm TNHS... và những quy định có lợi cho người phạm tội thì
được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày

01/01/2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử
hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.
- Các điều luật mới quy định tội được tách ra từ các tội ghép trong BLHS số 15/1999/QH10
đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 27/2009/QH12 (BLHS
1999):

+ Nếu có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội
xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 để giải quyết.
+ Nếu không có lợi cho người phạm tội thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn
bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 để
giải quyết.
- Các tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng", "số lượng lớn", "thu lợi bất chính", "đất có
diện tích lớn", "quy mô lớn" ... của BLHS 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0
giờ 00 phút ngày 01/01/2018 thì vẫn áp dụng quy định của BLHS 1999 để khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, trừ trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số
41;


- Đối với hành vi hoạt động phỉ; hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật; hành vi cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, quy định tại
BLHS 1999 xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mà sau thời điểm đó vụ án đang
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của BLHS năm
1999 để xử lý;
+ Trường hợp vụ án đã xét xử và đã có bản án, quyết định của tòa án thì không được căn
cứ vào việc BLHS 2015 không quy định các tội danh trên để kháng cáo, kháng nghị theo
hướng không phạm tội.
+ Trường hợp người bị kết án đang chấp hành án về những tội danh trên hoặc đã chấp
hành xong bản án thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm
pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 để giải quyết.
- Các quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại BLHS năm 2015

không áp dụng đối với những hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại xảy ra trước 0
giờ 00 phút ngày 01/01/2018. Nếu sau thời điểm này mới bị phát hiện thì không khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội danh trên của BLHS 1999 mà áp dụng các tội danh
tương ứng của BLHS 2015.
- Đối với những hành vi phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 thì không được căn cứ vào những quy
định của BLHS 2015 có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án
để kháng nghị giám đốc thẩm; trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã
kháng nghị trước ngày 01/01/2018 thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy
định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc thì báo cáo TANDTC (thông qua Vụ Pháp
chế và Quản lý khoa học) để được giải thích và hướng dẫn kịp thời.
Câu 2:
a,
 Khái niệm của tội phạm
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã đưa ra khái
niệm tội phạm như sau:
"1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi


ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác."


 Các yếu tố tội phạm
Tội phạm gồm các yếu tố sau có quan hệ mật thiết với nhau: mặt khách quan, mặt chủ
quan, chủ thể, khách thể.
1 Mặt khách quan của tội phạm:
-Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên
ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách quan của tội phạm gồm
những hành vi nguy hiểm cho xã hội: tính trái pháp luật của hành vi; hậu quả nguy hiểm
cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm; ngoài ra còn có
các dâu hiệu khác nhau như: phương tiện, công cụ, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa
điểm, thực hiện tội phạm.
2 Mặt chủ quan của tội phạm:
-Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm bao gồm:
lỗi, mục đích, và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải được thực
hiện bởi hành vi có lỗi. Theo quy định của pháp luật, có hai loại lỗi: lỗi cố ý và lỗi vô ý
phạm tội.
-Cố ý phạm tội là tội phạm được thực hiện một trong các trường hợp sau: (i) Người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành
vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp); (ii) Người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy
ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (lỗi có ý gián
tiếp).
-Vô ý phạm tội là phạm tội một trong các trường hợp sau: (i) Người phạm tội tuy thấy
trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu
quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (vô ý do quá tự tin); (ii) Người
phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,
mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (vô ý do cẩu thả).
-Động cơ phạm tội là cái thôi thúc tội phạm thực hiện hành vi phạm tội để đạt được mục
đích của mình.
3 Khách thể của tội phạm:



STT
1

Loại tội phạm
Cách xác định
Ít nghiêm trọng
- Mức độ nguy hiểm không lớn
-Khách thể của tội phạm là quan hệ-Mứcxãhộihìnhđượcphạtluậtcaohìnhnhấtsựlà:bảo vệ và bị tội phạm xâm
hại. Theo hệ thống pháp luật hình+sựPhạtViệttiềnNam những quan hệ đó là: quan hệ về độc lập,
+ Phạt cải tạo không giam giữ
+ Phạt tù đến 03 năm
con người các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. . . những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
4 Chủ thể của tội phạm:
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, nền văn hoá,

quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền

-Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
theo quy định của luật hình sự.
-Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
người phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự
với mọi loại tội phạm trừ những tội phạm Bộ luật Hình sự có quy định khác; người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289,
290, 299, 303 và 304 BLHS.


Như vậy, một hành vi được coi là tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ 4 yếu tố trên.
Khi đã được coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của
mình theo quy định của pháp luật.
 Phân loại tội phạm
Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015 quy định rõ tội phạm được phân thành 4 loại:
- Tội phạm ít nghiêm trọng
- Tội phạm nghiêm trọng
- Tội phạm rất nghiêm trọng
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Trong đó, cách xác định được nêu cụ thể như sau:


2

Nghiêm trọng

3

Rất nghiêm trọng

4

Đặc biệt nghiêm trọng

- Mức độ nguy hiểm lớn
- Khung hình phạt cao nhất là từ trên 03 năm đến 07 năm tù giam
- Mức nguy hiểm rất lớn
- Khung hình phạt cao nhất là từ trên 07 năm đến 15 năm tù giam
- Mức nguy hiểm đặc biệt lớn

- Khung hình phạt cao nhất là:
+ Trên 15 năm đến 20 năm tù
+ Tù chung thân
+ Tử hình

Ngoài ra, để quyết định hình phạt đối với một tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền
không chỉ căn cứ vào mức độ nguy hiểm cùng tính chất của hành vi phạm tội mà còn căn
cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, nhân thân của người phạm tội….
 Phân loại cấu thành tội phạm
-Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội
phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
-Trong thực tế, hành vi phạm tội diễn ra rất đa dạng và phong phú. Mỗi hành vi phạm tội
được thực hiện bởi 1 chủ thể có nhân thân khác nhau, trong không gian, thời gian, hoàn
cảnh phạm tội viớ các công cụ, phương tiện, phương pháp.... khác nhau. Tuy nhiên, nhà
làm luật phải khái quát được những dấu hiệu chung nhất, đặc trưng nhất cho một loại tội
phạm cụ thể vào trong Bộ luật Hình sự. Tổng hợp những dấu hiệu đó được gọi là Cấu
thành tội phạm (CTTP).

-Phân loại CTTP theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được CTTP
phản ánh:
+ Cấu thành tội phạm cơ bản: là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng, cấu thành tội phạm chỉ
có dấu hiệu định tội – dấu hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác.
+ Cấu thành tội phạm tăng nặng: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội
còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội
tăng lên một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).
+ Cấu thành tội phạm giảm nhẹ: là cấu thành tội phạm mà ngoài dấu hiệu định tội còn có
thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống
một cách đáng kể (so với trường hợp bình thường).
-Việc phân loại theo mức độ nguy hiểm giúp xác định rõ ràng các dấu hiệu định tội, định
khung hình phạt khi áp dụng điều luật theo từng trường hợp cụ thê, tránh sự tùy tiện trong

việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án


-Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của cấu thành tội phạm, có thể chia cấu thành tội
phạm thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức:
+ Cấu thành tội phạm vật chất: Là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của mặt
khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
+ Cấu thành tội phạm hình thức: Là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu của mặt khách
quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Cấu thành tội phạm cắt xén: Là 1 dạng đặc biệt của CTTP hình thức, chỉ quy định một
phần hành vi mà người phạm tội mong muốn thực hiện để gây hậu quả nguy hiểm cho
xã hội
-Việc xác định tội phạm có CTTP vật chất hay CTTP hình thức là căn cứ vào quy định
của Bộ luật Hình sự,
b,
Đây là tội giết người
- Về mặt khách quan: T có hành vi ngu hiểm cho xã hội trái pháp luật hình sự, đạo
đức xã hội: T cầm dao đâm S khiến S tử vong. Con dao T đâm là hhng khí nguy
hiểm, T đâm vào những vùng xung yếu của S (vùng bụng, ngực).
- Chủ thể: T là người khỏe mạnh có năng lực chịu TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS
- Khách thể: T đã xâm hại đến quyền được bảo vệ tính mạng.
- Mặt chủ quan: T đâm vào chỗ trọng yếu của S dù biết rất nguy hiểm nhưng vẫn
làm
T phạm tội rất nghiêm trọng thuộc cấu thành tội phạm tăng nặng vì hành vi giết
người T đã đâm vào những vùng xung yếu và có sự tấn công liên tục khi đâm tiếp
vào ngực S.
Tội cố ý gây thương tích vượt quá phòng vệ chính đáng
- Về mặt khách quan đây là hành vi chống trả lại sự tấn công của T1. T dùng dao
đâm vào bụng T1 (con dao là hung khí nguy hiểm, bụng là vùng xung yếu)
- Chủ thể: T là người khỏe mạnh có năng lực chịu TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS

- Khách thể: xâm hại đến sức khỏe
- Mặt chủ quan: T đâm vào vùng bụng T1 để chống lại sự tấn công của T1
Thuộc loại tội phạm nghiêm trọng, thuộc loại CTTP cơ bản vì hành vi của T là phòng vệ
chống lại sự tấn công của T1 nhưng vượt quá giới hạn phòng vệ
câu 3:
a,
Các giai đoan thực hiện tội phạm


1.Khái niệm:
-Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm.
Được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu, biển hiệu nhằm đánh giá sự diễn biến mức độ
thực hiện ý định phạm tội, làm cơ sở cho việc xác định phạm vi và mức độ trách nhiệm
hình sự và hình phạt.
2.Phân loại:
-Quá trình thực hiện tội phạm (lỗi cố ý) có ba giai đoạn:
+ Giai đoạn chuẩn bị phạm tội
+ Giai đoạn phạm tội chưa đạt +Giai
đoạn tội phạm đã hoàn thành.

-Các giai đoạn phạm tội chỉ diễn ra trong các tội được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp.
Đối với tội vô ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không mong muốn hậu quả
xảy ra cho nên tội vô ý chỉ có thể là những tội đã hoàn thành, không có giai đoạn
chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt.
- Cụ thể các giai đoạn phạm tội như sau:
Nội dung

Chuẩn bị phạm tội

Phạm tội chưa đạt


Tội phạm hoàn
thành

Tự ý nửa chừng
chấm dứt hành vi
phạm tội

Khái
niệm

Giai đoạn người phạm tội
tiến hành tìm kiếm công
cụ phạm tội; sửa soạn
công cụ, phương tiện
phạm tội hoặc chuẩn bị
những điều kiện thuận lợi
cho tội phạm quan sát địa
điểm, điều kiện liên quan
xung quanh hoàn cảnh
của nạn nhân.
-Thứ nhất, CBPT tồn tại
dưới dạng “hành vi” và
hành vi chuẩn bị liên
quan trực tiếp đến quá
trình thực hiện tội phạm
như: tìm kiến công cụ,
phương tiện phạm tội; tạo
điều kiện cần thiết khác


Giai đoạn mà người
phạm tội có thực hiện
hành vi phạm tội, nhưng
không thực hiện được
đến cùng do những cản
trở khách quan.

Giai đoạn hành vi
phạm tội làm thỏa
mãn tất cả các dấu
hiệu được nêu trong
cấu thành
tội phạm
quy định trong luật.

Tự ý nửa chừng
chấm dứt
việc
phạm tội là tự mình
không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy
không có gì ngăn
cản.

-Thứ nhất, người phạm
tội đã trực tiếp thực hiện
tội phạm qua việc: Thực
hiện hành vi khách quan
được mô tả trong cấu
thành tội phạm, hoặc

thực hiện hành vi đi liền
trước hành vi khách

Cần phân biệt Tội
phạm hoàn thành cới
Tội phạm kết thúc:
+ Tội phạm
hoàn
thành: hành vi phạm
tội thỏa mãn hết các
dấu hiệu về
mặt
pháp lý quy định

-Nửa chừng: tức
phải xảy ra ở giai
đoạn chuẩn bị phạm
tội hoặc phạm
tội
chưa đạt.
-Tự ý, tức phải:
+Tự nguyện chấm
dứt hành vi phạm

Đặc
điểm


(nghiên cứu, xem xét địa
hình nơi dự định thực

hiện tội phạm…)
-Thứ hai, ý định phạm tội
đã được biểu hiện ra bên
ngoài. Thời điểm muộn
nhất của giai đoạn CBPT
là thời điểm trước lúc
người phạm tội thực hiện
hành vi khách quan được
quy định trong cấu thành
tội phạm (là những dấu
hiệu chung cho loại tội
phạm cụ thể được quy
định trong luật)
hoặc
hành vi đi liền trước hành
vi khách quan
- Thứ ba, nguyên nhan
không thực hiện tội phạm
được đến cùng là do
khách quan ngoài ý muốn
(yếu tố giúp phân biệt với
tự ý nửa chừng chấm dứt
phạm tội)
Phạm vi Chỉ phải chịu TNHS đối
trách
với những tội quy định tại
nhiệm khoản 2 ĐIều 14 BLHS
hình sự 2015

quan.

-Thứ hai, người phạm
tội chưa thực hiện tội
phạm đến cùng (tức
chưa hành vi của họ
chưa thỏa mãn hết các
dấu hiệu về mặt khách
quan trong cấu thành tội
phạm (dấu hiệu phân
biệt với tội phạm hoàn
thành)
-Thứ ba, nguyên nhân
không thực hiện tội
phạm đến cùng là do:
Khách quan ngoài ý
muốn hoặc sai lầm của
người phạm tội (về đối
tượng tác động
hay
công
cụ,
phương
tiện.…) như: bắn nhưng
đạn không nổ, thuốc
độc không đủ
liều
lượng…

trong luật.
+ Tội phạm kết thúc:
hành vi phạm tội

thực sự chấm dứt
trên thực tế.
->Hai thời điểm trên
có thể trùng
nhau
hoặc không trùng
nhau.

tội.
+Chấm dứt
một
cách dứt khoát: triệt
để, từ bỏ hẳn ý định
phạm tội.

Người
đạt
nhiệm
phạm
15)

Mọi hành vi
tội
phạm hoàn thành về
nguyên tắc đều phải
chịu TNHS

Được miễn trách
nhiệm hình sự về
tội định

phạm.
(ĐIều 16)
Lưu ý: chỉ là người
phạm tội được miễn
TNHS,
tức vẫn bị
coi là tội phạm

phạm tội
phải chịu
hình sự về
chưa đạt

chưa
trách
tội
(Điều

.
Mức độ
trách
nhiệm
hình sự

Hình phạt được quyết
định trong phạm vi khung
hình phạt được quy định
trong các điều luật cụ thể
(Khoản 2 ĐIều 57)


Nếu điều luật được áp
dụng có quy định hình
phạt cao nhất là tù
chung thân hoặc tử hình
thì áp dụng hình phạt tù
không quá 20 năm; nếu
là tù có thời hạn thì mức
hình phạt không quá ba
phần tư mức phạt tù mà
điều luật quy định.
(khoản 3 ĐIều 57)

Áp dụng theo quy
định tại từng điều
luật của tội phạm cụ
thể


b,
Là tội phạm ở giai đoạn hoàn thành Vì:
T phạm tội giết người T đã thực hiện những hành vi thỏa mãn dáu hiệu trong CTTP (T đã
thực hiện hành vi dung dao đâm 1 nhát vào ngực và 1 nhát vào bụng của S) về mặt khách
qua T đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội
Chủ thể T đủ các điều kiện để chịu TNHS
Khách thể: xâm hại đến tính mạng
Mặt chủ quan: T cố tình đâm vào vùng trọng yếu của S
T phạm tội cố ý gây thương tích vượt quá phòng vệ chính đáng (T đã đâm 1 nhát vào
bụng T1). Hành vi đâm vào bụng của T đã thỏa mãn dấu hiệu trong CTTP. Hành vi đâm
T1 của T là sự chống trả lại việc T1 lao vào đánh. T đâm T1 đã xâm hại đến sức khỏa của
T1.

Câu 4:
a,
- Phòng vệ chính đáng là: hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả
lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ
chính đáng không phải là tội phạm.
- Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng:
• Là sự tấn công đang hiện hữu, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể,
quyền hoặc lợi ích chính đáng của công dân. Như vậy, chỉ có thể nói đến phòng vệ chính
đáng khi có hành vi của con người đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã
hội. Hành vi này có thể xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và
lợi ích chính đáng của công dân khác mà không nhất thiết phải xâm phạm đến quyền
hoặc lợi ích chính đáng của người phòng vệ. Quyền hoặc lợi ích chính đáng bị xâm
phạm có thể là an ninh trật tự quốc gia, quyền nhân thân, quyền sở hữu.
• Hành vi tấn công có thể có đầy đủ 3 yếu tố cấu thành tội phạm nhưng đó không phải
điều kiện bắt buộc vì có hành vi tuy không cấu thành tội phạm nhưng vẫn đòi hỏi phải
được ngăn chặn kịp thời để tránh thiệt hại như hành vi đâm, chém của những người
không có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần. Hơn nữa, khi đứng trước
sự tấn công không phải người bình thường nào cũng khẳng định được ngay đó là tội
phạm hay không phải tội phạm.


• Hành vi tấn công của con người là cơ sở của quyền phòng vệ chính đáng, nhưng nó chỉ
là cơ sở chừng nào còn đang xảy ra hoặc đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc. Khi hành vi tấn
công đã thật sự chấm dứt thì cũng có nghĩa không đòi hỏi phải có hành vi ngăn chặn. Sự
phòng vệ lúc này hoàn toàn không đạt được mục đích của phòng vệ chính đáng. Đó có
thể chỉ là sự trả thù. Trách nhiệm hình sự trong trường hợp này sẽ được giải quyết như
trường hợp bình thường nếu đã cố ý phòng vệ quá muộn.
• Khi hành vi tấn công chưa xảy ra nhưng đã có những biểu hiện đe doa sự tấn công sẽ
xảy ra ngay tức khắc thì cũng cho phép được quyền phòng vệ chính đáng. Sự cho phép

này là cần thiết khách quan nhằm tạo điều kiện chủ động cho người phòng vệ ngăn chặn
sự tấn công kịp thời và có hiệu quả. Nếu chưa có những biểu hiện đe dọa sự tấn công
ngay tức khắc mà đã phòng vệ thì đó là trường hợp phòng vệ quá sớm và cũng phải chịu
trách nhiệm hình sự như trường hợp phòng vệ quá muộn.
- Trách nhiệm hình sự khi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
Trách nhiệm hình sự của người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được
quy định tại Điều 106 BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:
1. “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ
ba tháng đến một năm.”
2. “Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm”.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng phải có đầy đủ bốn dấu hiệu cơ bản sau:
• Thứ nhất, hành vi của nạn nhân là hành vi phạm tội hoặc là hành vi nguy hiểm cho xã
hội và trực tiếp xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
• Thứ hai, hành vi xâm hại của nạn nhân phải đang diễn ra, đã bắt đầu nhưng chưa kết
thúc.
• Thứ ba, hậu quả xảy ra là nạn nhân bị thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết
người.
• Thứ tư, hành vi phòng vệ của người phạm tội phải là quá mức, không tương xứng với
hành vi xâm hại của nạn nhân. Để đánh giá mức độ tương xứng của hành vi này cần dựa
vào các tình tiết như tính chất quan trọng của lợi ích bị xâm phạm; tính chất, mức độ nguy
hiểm và cường độ của hành vi xâm hại và hành vi chống trả; sự tương quan sức lực giữa
bên xâm hại và bên chống trả. Hành vi chống trả được coi là quá mức cần thiết khi


so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại chưa cần thiết phải dùng các

phương tiện và phương pháp đó để chống trả nhưng người chống trả vẫn sử dụng dẫn
đến gây tổn hại sức khỏe hoặc tính mạng cho người có hành vi xâm hại.
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng xâm phạm quyền được bảo hộ sức khỏe, tính mạng của
người khác, đồng thời xâm phạm quyền phòng vệ chính đáng như đã nêu trên.
Nếu hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà tỷ lệ thương tật dưới 31% thì không bị xử lý hình
sự mà giải quyết dân sự.
b,
Quyết định của toàn án về vượt quá giới hạn phòng vệ của toàn án sơ thẩm là chính xác
Vì:
-Hồ Văn T đã gây tổn hại cho Trần T1 bằng dao do Trần T1 đã sử dụng vũ lực để tấn
công Hồ Văn T
-Tòa án quyết định hình phạt theo khoản 1 điều 106 BLHS năm 1999 do điều 136
BLHS năm 2015 không có quy định về trường hợp của vụ án trên (Tỉ lệ tổn thương cơ
thể của Trần T1 là 83%) nên phải áp dụng luật hình sự có hiệu lực trở về trước
Câu 5:
a,
-

Căn cứ vào quyết định hình phạt:

+ Khoản 2 điều 123
+ Điểm b, s khoảm 1,2 điều 51 BLHS 2015
+ Khoản 1 điều 106 BLHS 1999
+ Khoản 1 điều 55 BLHS 2015
-

Nhân thân người phạm tội


+ giới tính: Nam
+Trình độ văn hóa: 10/12
+Nghề nghiệp: thợ hồ
+Tiền án tiền sự: không


-

Tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS: cố ý gây thương tíchdo vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng.

b, Phân tích

-

BLHS: Áp dụng BLHS 2015 và BLHS 1999 từ các điểm, khoản và điều của
các bộ luật để đưa ra các quyết định hình phạt phù hợp nhất đối với người
phạm tội.
Nhân thân cung là 1 trong những yếu tố quan trọng quyết định việc định
hình phạt cho người phạm tội.
Tình tiết giảm nhẹ tang nặng cũng là 1 yếu tố khi đưa ra phán quyết tòa án có
tể dựa và đó để quyết định giảm nhẹ hình phạt hay tăng nặng hình phạt
Tòa căn cứ vào hành vi dùng dao đâm người khác của anh T đã gây nguy hiểm
cho xã hội, mà theo như miêu tả cấu thành tội phạm tại điều 51 và điều 123 LHS
2015 thì anh T đã thực hiện tội phạm. Việc anh S bị T đâm và chết cho thấy hành
vi giết người của anh T đã ở giai đoạn tội phạm hoàn thành. Do vậy theo điều 123
BLHS thì anh T đã phạm tội giết người.
Còn về phía anh T và T1 thì anh T đã đâm anh T1 một nhát vào bụng gây thương
tích thiệt hại sức khỏe lên đến 83%. Căn cứ theo điều 134 BLHS 2015 thì anh T đã
phạm tội “cố ý gây thương tích”. Tuy nhiên trước đó anh T1 đã có hành vi tấn

công anh T trước và khi rút dao ra anh T cũng đã có lời đe dọa “tụi bay mà đánh
tau nữa tau đâm đó”. Do vậy hành động sử dụng dao lúc đó có thể được xem là
phòng vệ chính đáng theo điều 22 BLHS 2015.
Nhưng khi T1 xông vào định đánh thì anh T đã đâm 1 nhát vào vùng bụng.
Mà theo kết quả của giám định thì vị trí của vết đâm là vị trí hiểm và tổn hại lên
đến 83%. Do đó anh T đã vượt quá phòng vệ chính đáng theo điều 22 BLHS 2015,
còn hình phạt của anh T thì được Tòa áp dụng theo điều 55 LHS 2015.
Về tội danh Giết người anh T phải chịu phạt 11 năm. Tội cố ý gây thương tích do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng chịu phạt 6 tháng tù. Nên tổng hình phạt
anh T phải chịu là 11 năm 6 tháng.

c,
Không thể áp dụng them tình tiết giảm nhẹ trong thường hợp này vì hành vi đã vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại điểm c khoản 1 điều 51 BLHS 2015 để
quyết định hình phạt theo hướng giảm nhẹ đối với tội cố ý gây thương tích vượt quá
phòng vệ chính đáng của bị cáo.
d,
Có thể sửa quyết định hình phạt của tòa án cấp sơ thẩm đối với tội “giết người” theo
hướng tăng nặng hình phạt do có tình tiết tăng nặng “có tính chất côn đồ” vì T đã có hành
vi đâm vào lưng, ngực anh S khi nhìn thấy anh này chạy ra chỉ để can ngăn mình.


Căn cứ mưacs độ nguy hiểm của bản án và hành vi phạm tội quyết định xử phạt đối
với bị cáo Hồ Văn T như sau
-

-

Áp dụng điểm n khoản 1điều 123 BLHS 2015(sửa đổi bổ sung 2017) xử phạt
bị cáo Hồ Văn T 16 năm tù về tội “giết người có tính chất côn đồ”

Áp dụng khoản 1 diều 106 BLHS 1999(sửa dổi bổ sung 2009) điểm C khoản 1
điều 51 BLHS 2015) xử phạt Hồ Văn T 6 tháng tù về tội vượt quá giới hạn phòng
về chính đáng
Áp dụng khoản 1 điều 55 BLHS 2015(sửa đổi bổ sung 2017) mức ánHoof Văn T
phải chịu là 16 năm 6 tháng tù

e,
Giả sử bị cáo là người 17 tuổi. Căn cứ vào khoản 1 điều 101 và điều 55 BLHS 2015(sửa
đổi bổ sung 2017) thì mức án của bị cáo là 8 năm 6 tháng tù.



×