MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nhằm xâydựng chế độ xã hội mới. Trong bối cảnh đó, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thì các vấn đề xã hội cũng nổi lên mạnh mẽ. Đặc biệt là
các loại tệ nạn xã hội và tội phạm.Là một quốc gia đang phát triển, tình hình
diễn biến tội phạm ở Việt Nam không cao như một số nước ở trong khu vực
và trên thế giới, nhưng tính chất phức tạp của tội phạm ở Việt Nam lại khá
cao. Đặc biệt tội phạm liên quan đến ma túy và mua bán phụ nữ, trẻ em qua
biên giới luôn là vấn đề nóng bỏng và nhức nhối, luôn được nhà nước và toàn
xã hội quan tâm, tìm cách ngăn chặn.Nhận thấy tính chất nguy hiểm cho xã
hội cùng với những yêu cầu cấp thiết trong việc đấu tranh và phòng chống
của loại tội phạm này, em xin lựa chọn đề tài số 7 để phân tích nhằm giải
quyết các vấn đề liên quan được đề cập trong đề bài. Cụ thể:
ĐỀ BÀI 7:
S và V đều là đối tượng nghiện ma túy. Vì cần tiền mua ma túy nên S bàn V
rủ cháu T ( 13 tuổi, cháu họ S) đi Lạng Sơn chơi, rồi lừa bán T sang Trung
Quốc. Hành vi của S và V cấu thành nên tội mua bán trẻ em theo khoản 2 điều
120 BLHS.
Câu hỏi:
1. Tội mua bán trẻ em điều 120 là tội phạm có CTTP vạt chất hay CTTP hình
thức? ( 1 điểm)
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này. ( 1 điểm)
3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải đồng phạm không?
4. Giả sử V vừa mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài sản
( Điều 136 BLHS) lại phạm tội mua bán trẻ em thì trường hợp phạm tội của V
là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm ? ( 3 điểm)
NỘI DUNG
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Tội mua bán trẻ em theo Điều 120 là tội phạm có CTTP vật chất hay
CTTP hình thức?
Trả lời: Dựa vào các khái niệm về cấu thành tội phạm, cấu thành tội phạm
vật chất, cấu thành thành tội phạm hình thức và khoản 1 Điều 120 quy định
về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em,ta có thể kết luận tội mua
bán trẻ em theo Điều 120 BLHS là tội có cấu thành tội phạm hình thức.
Giải thích: Như chúng ta đã biết, tội phạm là một hiện tượng xã hội và một
trong những đặc điểm cơ bản,quan trọng của tội phạm là tính nguy hiểm cho
xã hội. Nếu không có tính nguy hiểm cho xã hội thì đó không phải là tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được biểu hiện ra bên ngoài thông
qua những ảnh hưởng không tốt của nó đến sự tồn tại và phát triển của xã
hội, ảnh hưởng tiêu cực đến con người. Muốn xác định được hành vi nào đó
có phải là tội phạm hay không, chúng ta cần có những căn cứ pháp lí nhất
định : đó là dựa vào những quy định của luật và dựa vào CTTP. Cấu thành tội
phạm là gì ? Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nhà xuất bản Công
An nhân dân năm 2012, trang 74 thì “ Cấu thành tội phạm là tổng hợp những
dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định
trong luật hình sự”. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình
sự, là căn cứ pháp lí để định tội và định khung hình phạt.
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có
thể chia cấu thành tội phạm thành cấu thành tội phạm hình thức và cấu
thành tội phạm vật chất.
Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm có các dấu hiệu của
mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả.
Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có một dấu hiệu
của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã họi.
Giữa cấu thành tội phạm hình thức và cấu thành tội phạm vật chất có
những điểm khác biệt cơ bản, nổi bật nhất là : trong cấu thành tội phạm vật
chất, hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc, còn trong cấu thành
tội phạm hình thức, hậu quả đó không phải là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ có
hành vi nguy hiểm cho xã hội mới là dấu hiệu bắt buộc.
Áp dụng vào tình huống nêu ở đề bài, về tội mua bán trẻ em, khoản 1
điều 120 BLHS năm 1999( sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định : “ Người nào
mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới bất kì hình thức nào, thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm”. Như vậy, chúng ta có thể thấy, cấu thành
cơ bản tại khoản 1 điều 120 BLHS về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
trẻ em thì không có dấu hiệu mô tả hậu quả của hành vi phạm tội mà chỉ có
dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đó là “ mua bán, đánh tráo hoặc
chiếm đoat trẻ em”. Chỉ riêng hành vi này cũng đã phản ánh đầy đủ tính chất
nguy hiểm cho xã hội.
Như vậy, đối chiếu với các khái niệm đã nêu trên, chúng ta có thể khẳng
định rằng: tội mua bán trẻ em được quy định tại điều 120 là tội phạm có
cấu thành tội phạm hình thức.
2. Xác định hình thức lỗi của người phạm tội trong vụ án này.
Trả lời: Trong vụ án này, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
Giải thích: Chúng ta có thể xác định điều đó dựa vào những lí luận và căn cứ
sau:
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là
có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ
điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù
hợp với đòi hỏi của xã hội.
Luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành 2 loại: lỗi cố ý (gồm cố ý trực tiếp
và cố ý gián tiếp) và lỗi vô ý (gồm vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả).
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu
quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (Điều 9 BLHS).
Từ định nghĩa trên này có thể rút ra những dấu hiệu của lỗi cố ý trực tiếp:
- Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó. Cụ thể là nhận
thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi đang thực hiện trên
cơ sở nhận thức những tình tiết khách quan của nó. Những tình tiết đó có thể
là mặt thực tế của hành vi, là đặc điểm của đối tượng tác động của tội phạm,
là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm
phạm tội,…
- Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Điều đó có
nghĩa hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hoàn
toàn phù hợp với mục đích – phù hợp với sự mong muốn của người đó.
Áp dụng vào tình huống, chúng ta có thể thấy: Trong tình huống trên, S
và V là đối tượng nghiện ma túy, cần tiền mua ma túy nên đã bàn nhau rủ
cháu V đi Lạng Sơn chơi rồi lừa bán sang Trung Quốc. Trong trường hợp này,
dấu hiệu lỗi của S và V thỏa mãn các đặc điểm của trường hợp lỗi cố ý trực
tiếp. Cụ thể là:
-Về lí trí: S và V đều nhận thức rõ được hành vi lừa cháu T đi chơi rồi
bán sang Trung Quốc là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã được
nhà nước quy định trong BLHS. Hành vi này nguy hiểm ở chỗ nó không
những tạo ra những tác động tiêu cực về phía gia đình cháu T, gây cho cháu T
những tổn thất không bù đắp được mà còn gây ra tâm lí hoang mang lo ngại
cho toàn xã hội.
-Về ý chí: S và V nhận thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
nhưng vẫn mong muốn hậu quả phát sinh. Trong trường hợp này, S và V
hoàn toàn có những cách lựa chọn xử sự khác: ví dụ như không thực hiện
hành vi bán cháu T qua biên giới mà quay về quê làm việc kiếm tiền mua ma
túy, hay dẫn cháu D đi chơi sau đó cho cháu về còn bản thân ở lại tìm công
việc, thậm chí S và V có thể vay mượn tiền của người thân… chứ không cần
phải bán cháu T để lấy tiền mua ma túy. Tuy vậy, S và V đã không chọn những
cách đó mà vẫn bán cháu T, chứng tỏ S và V mong muốn hậu quả hành vi của
mình xảy ra, để có thể có tiền nhằm mua ma túy.
Khoản 1, điều 9 BLHS năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009) quy định :
“ Cố ý phạm tội là phạm tội trong trường hợp người phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi và
mong muốn hậu quả xảy ra”.
Như vậy: trong trường hợp này: S và V biết rõ việc mua bán trẻ em là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn làm, vẫn muốn
hậu quả sự việc xảy ra.Do đó, lỗi của S và V là lỗi cố ý trực tiếp.
3. Nếu S mới 15 tuổi thì S và V có phải đồng phạm không? Tại sao?
Trả lời: Theo quan điểm của em, trong tình huống trên, nếu S mới 15 tuổi thì
S và V là đồng phạm. Vì:
Theo quy định tại khoản 1 điều 20 BLHS: “ Đồng phạm là trường hợp có
hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Để xác định S và V là
đồng phạm trong vụ án trên thì phải thỏa mãn các dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu về mặt khách quan: Có ít nhất hai người trở lên và hai người này
phải có đủ điều kiện của chủ thể tội phạm: có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự), và những người này phải cùng thực
hiện tội phạm ( cố ý).
Trong vụ án trên, tuy không nói rõ tuổi của V và gỉa thiết S mới 15 tuổi,
nhưng do ở tình huống đã đưa ra: “ Hành vi của S và V cấu thành tội mua
bán trẻ em theo khoản 2 điều 120 BLHS”, ta có thể khẳng định V đã đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự. Vì, một trong những dấu hiệu bắt buộc phải có
trong mọi cấu thành tội phạm là dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ
tuổi thuộc chủ thể của tội phạm. Hành vi của S và V đã cấu thành tội mua
bán trẻ em, như vậy V phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Đối với
S, giả thiết S 15 tuổi, theo khoản 2, điều 12 BLHS : “ Người từ đủ từ 14 tuổi
trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Áp dụng vào tình huống đề bài, ta thấy: Hành vi của S và V cấu thành tội
mua bán trẻ em theo khoản 2 Điều 120 BLHS, theo đó mức cao nhất của
khung hình phạt áp dụng cho tội phạm theo khoản này là tù chung thân. Dẫn
chiếu theo khoản 3, điều 8 BLHS về phân loại tội phạm thì “ Tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình”. Do đó, ta có thể thấy, hành vi phạm tội của S và V thuộc loại tội
đặc biệt nghiêm trọng.
Trong tình huống này, S tuy mới 15 tuổi nhưng đã phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng, do đó theo khoản 2 điều 12 BLHS thì S vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi của mình. Đồng thời, chúng ta có thể thấy: trong
trường hợp này S và V cùng bàn nhau rủ cháu T đi chơi và cùng bán cháu T
sang Trung Quốc để lấy tiề mua ma túy, tức là S và V cùng cố ý thực hiện một
tội phạm.
- Về mặt chủ quan: Áp dụng những phân tích khi giải quyết yêu cầu số 2 của
đề bài, chúng ta đều khẳng định được S và V đều là những người có lối cố ý
trực tiếp, cố ý lừa cháu T đi chơi để thực hiện hành vi bán cháu đi nhằm lấy
tiền mua ma túy.
Như vậy, từ những căn cứ trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: S mặc
dù mới 15 tuổi, nhưng trong tình huống cụ thể trên đây, S và V vẫn là đồng
phạm. Trong tội phạm này, S đóng vai trò vừa là người người thực hành,
người tổ chức vừa là người xúi dục; còn V có vai trò là người thực hành.
4. Giả sử V vừa mới chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp giật tài
sản (điều 136 BLHS) lại phạm tội mua bán trẻ em trường hợp của V là
tái phạm hay tái phạm nguy hiểm ?
Trả lời: Theo tình huống, ta thấy S và V cùng phạm tội mua bán trẻ em được
quy định tại khản 2 điều 120 BLHS. Riêng với V, V vừa chấp hành xong bản án
3 năm tù về tội cướp giật tài sản.
Để làm rõ V là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm, trước hết cần phải
hiểu “ tái phạm” và “ tái phạm nguy hiểm” là gì ? Điều 49 BLHS quy định về
tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:
“ 1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm
tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm :
a, Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đăc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý;
b,Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
Áp dụng vào giả thiết của đề bài : V vừa chấp hành xong bản án 3 năm
tù về tội cướp giật tài sản theo Điều 136 BLHS, lại phạm tội mua bán trẻ em.
Đề bài đặt ra yêu cầu xác định trường hợp phạm tội của V là tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm, muốn xác định được điều đó trước hết chúng ta phải xem
xem V đã được xóa án tích hay chưa? Vì khi một người đã được xóa án tích
phạm tội thì Toàn án không được căn cứ vào tiền án đã được xóa để xác định
là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Căn cứ vào khoản 2, Điều 64 BLHS quy
định về việc xóa án tích:
“Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương
XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời
hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a, Một năm trong trường hợp bị phạt cải tạo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ
hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b, Ba năm trong trường hợp bị phạt tù đến ba năm;
c,Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ ba năm đến mười lăm năm;
d, Bảy năm trong trường hợp phạt tù trên mười lăm năm.”.
V vừa mới chấp hành xong bản án về tội cướp giật tài sản lại phạm tội
mua bán trẻ em. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 64 đã dẫn ở trên, V chưa
được xóa án tích và Toàn án hoàn toàn có thể căn cứ vào đó để xác định
trường hợp của V là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào việc V chưa được xóa án tích và những
quy định tại điều 49 BLHS thì vẫn chưa thể xác định được trường hợp phạm
tội của V là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Mặc dù hành vi của S và V cấu
thành nên tội mua bán trẻ em theo khoản 2 Điều 120 là đặc biệt nghiêm
trọng nhưng chúng ta chưa xác định được tội cướp giật tài sản của V bị kết
án theo khoản nào của điều 136. Như vậy, trong tình huống này có thể xảy ra
các trường hợp sau:
-Trường hợp 1:V bị kết án về tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136
BLHS.
Khoản 1 Điều 136 quy định: “ Người nào cướp giật tài sản của người
khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Như vậy, kết hợp với khoản 3
Điều 8 BLHS thì tội cướp giật tài sản của V là loại tội phạm nghiêm trọng.
Như vậy, bản thân V đã phạm tội nghiêm trọng,chưa được xóa án tích mà
tiếp tục phạm một tội đặc biệt nghiêm trọng khác do cố ý ( tội mua bán trẻ
em). Căn cứ vào khoản 1 Điều 49 BLHS, trường hợp phạm tội này của V là tái
phạm.
-Trường hợp 2: V bị kết án về tội cướp giật theo khoản 2 Điều 136 BLHS:
Khoản 2 Điểu 136 quy định :
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười năm :
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
e) Hành hung để tẩu thoát;
f) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ gây
thương tật từ 11% đến 30%;
g) Chiếm đoạt tài sản từ năm mươi triệu đồng trở lên đến dưới hai tram triệu
đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.
Kết hợp với khoản 3, Điều 8 BLHS thì tội cướp giật tài sản theo khoản 2
Điều 136 là tội rất nghiêm trọng và phạm tội cố ý.Sau đó V lại tiếp tục phạm
tội mua bán trẻ em theo khoản 2 Điều 120 là tội đặc biệt nghiêm trọng. Như
vậy, căn cứ vào khoản 2, Điều 49 BLHS, trong trường hợp này hành vi phạm
tội của V là tái phạm nguy hiểm.
-Trường hợp 3: Hành vi phạm tội của V được xử theo khoản 3 điều 136
nhưng do có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46
nên được Toàn án áp dụng Điều 47: xử theo khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật.
Trong trường hợp này, nếu V phạm tội theo khoản 3 Điều 136 BLHS thì
đó là tội phạm rất nghiêm trọng. Nhưng nếu V có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ được quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS thì Tòa án áp dụng thêm Điều
47 của Bộ luật này, mức hình phạt được giảm xuống mức phạt của khung
hình phạt liền kề nhẹ hơn, tức là sẽ xét xử theo khoản 2 Điều 136. Như vậy,
trong trường hợp này, theo chứng minh ở phần trên, hành vi phạm tội mua
bán trẻ em của V là tái phạm nguy hiểm.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua sự phân tích trên ta có thể thấy được mua bán trẻ em là tội
phạm thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tác động tiêu cực đến sự ổn
định và phát triển của xã hội. Đất nước đã và đang phát triển không ngừng,
tình hình tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, để đảm bảo cho sự ổn định và
phát triển của đất nước, nhà nước không những phải không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật mà còn đòi hỏi ý thức của toàn xã hội trong việc
ngăn ngừa và đấu tranh phòng chống các loại tội phạm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.CÁC TÀI LIỆU
1. Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội,Tập I, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2012.
2.Giáo trình luật hình sự (Phầnchung), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Nxb. ĐHQG, HàNội, 2005.
3. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi và bổ sung năm 2009).
4. Bình luận khoa học bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999( phần chung), Đinh
Văn Quế, Nxb TP.HCM, 2000
5. Bình luận bộ luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), tập 2, Đinh Văn
Quế, NXxb TP. HCM .
B. CÁC TRANG WEB
1. />2. />