Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài tập nhóm học phần luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.42 KB, 10 trang )

KHOA LUẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

Thành viên:
1. Lê Thị Ngọc Huyền
2. Vũ Thị Hoài Thương
3. Đoàn Cảnh Hoàng
4. Vũ Thị Dung
5. Bùi Thị Thu Hoài
6. Tạ Thị Hường
7. Vũ Văn Nam
8. Dương Hồng Hạnh
9. Ngô Thị Nọc Hà
10. Nguyễn Ngọc Ánh

Hà Nội, tháng 2/2020


Câu 1.
a, Hiệu lực của bộ luật hình sự Việt Nam theo thời gian được quy định tại điều 7
Bộ Luật hình sự năm 2015. Cụ thể:
1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có
hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết
tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình
sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích
và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng
đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi
hành .
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy
định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm


vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án
tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với
hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
b, Thời điểm xảy ra vụ án là ngày 7/11/2016, nên việc áp dụng bộ luật hình sự năm
1999 và năm 2015 trong cùng một vụ án, thì quyết định hình phạt của tòa án cấp sơ
thẩm là phù hợp. Vì:
- Tất cả điều khoản của BLHS 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 phút
ngày 01/01/2018
- Những điều khoản của BLHS 2015 xóa bỏ tội phạm, hình phạt, tình tiết tăng
nặng, quy định có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những
hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 mà sau thời điểm
đó mới bị phát hiện, hoặc đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người
đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.
- Các điều luật mới quy định tội được tách ra từ các tội ghép trong BLHS số
15/1999/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều luật số 27/2009/QH12
(BLHS 1999):


Nếu có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi
phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 để giải quyết.
Nếu không có lợi cho người phạm tội thì vẫn áp dụng quy định tương tự
của các văn bản quy phạm pháp luật về hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00
phút ngày 01/01/2018 để giải quyết.
Câu 2.
a,
Căn cứ vào điều 8 BLHS 2015 quy định về khái niệm tội phạm như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực

hiện một cách cố ý hoăc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất, toàn ven
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định
của bộ luật này phải xử lý hình sự.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác”.
Các yếu tố của tội phạm là:
- Mặt khách quan của tội phạm: Là những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc
tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Những dấu hiệu thuộc về khách quan
của tội phạm gồm những hành vi nguy hiểm cho xã hội: tính trái pháp luật của
hành vi, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả của tội phạm, ngoài ra còn có các dấu hiệu khác như: phương tiện,
công cụ, phương pháp thủ đoạn, thời gia, địa điểm thực hiện của tội phạm.
-

Mặt chủ quan của tội phạm: Là những diễn biến tâm lý bên trong của tội
phạm bao gồm: lỗi, mục đích, động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào
cũng đều phải được thực hiện bởi hành vi có lỗi. Theo quy định của pháp luật
có 2 loại lỗi: lỗi cố ý và lỗi vô ý phạm tội.


Cố ý phạm tội là tội phạm được thực hiện một trong các trường hợp sau: Người
phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội , thấy trước hậu
quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra(lỗi cố ý trực tiếp). Người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn cố ý thực hiện để mặc
cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp).
Vô ý phạm tội là phạm tội một trong các trường hợp sau: Người phạm tội tuy

thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng
cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (vô ý do quá tự
tin), Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (vô ý
do cẩu thả)
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam những quan hệ đó
là: quan hệ về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
chế độ chính trị, nền văn hóa, quốc phòng, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân… những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
- Chủ thể của tội phạm: là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình
sự và đạt độ tuổi theo quy định của luật hình sự .
Như vậy một hành vi được coi là tội phạm phải thỏa mãn đầy đủ 4 yếu tố trên.
Khi đã được coi là tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự cho hành vi của
mình theo quy định của pháp luật.
Phân loại tội phạm: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội được quy định trong bộ luât hình sự, tội phạm được phân thành
bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là phạt tiền , phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đế 3 năm


- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định
đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù.ư
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt này do Bộ luật
quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc
tử hình.
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm cụ
thể được quy định trong luật hình sự. Cấu thành tội phạm phải có đầy đủ 4 yếu tố:
yếu tố khách thể, yếu tố chủ thể, yếu tố chủ quan, yếu tố khách quan.
b,
Tội phạm: Hồ Văn T phạm tội giết người và cố ý gây thương tích.
Các yếu tố của tội phạm :
- Đâm một nhát vào lưng anh S và một nhát vào ngực anh S.
- Mặt chủ quan: Hồ Văn T phòng vệ, đề phòng Nguyễn Thành T2 (lỗi cố ý
gián tiếp).
- Khách thể của tội phạm: Xâm phạm tới tính mạng , sức khỏe của người khác
- Chủ thể: Anh Hồ Văn T.
Tội phạm trong vụ án trên là loại tội phạm rất nghiêm trọng vì anh Hồ Văn T
đã có hành vi giết người nhưng với động cơ là phòng vệ bản thân.
Câu 3.
a, Các giai đoạn thực hiện tội phạm:
- Chuẩn bị phạm tội: là giai đoạn tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm.


- Giải đoạn phạm tội chưa đạt: là cố ý thực hiện tội phạm nhưng chưa thực
hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm
tội.
- Tội phạm hoàn thành: khi hành vi phạm tội đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu
được mô tả trong cấu thành tội phạm.

b, Trong vụ án trên, tội phạm thực hiện ở giai đoạn tội phạm hoàn thành. Vì:
- Dù biết là con dao bấm bằng kim loại nhọn rất nguy hiêm nhưng nhưng Hồ
Văn T vẫn cố ý cất vào túi quần và có ý định chống trả nếu Nguyễn Thành
T2 đánh
- Khi đâm một nhát trúng vào bụng của Trần T1 thì anh Nguyễn Trường S có
ra can nhưng T không dừng lại mà tiếp tục đâm anh S khiến anh S tử vong.
Ngay sau đó Hồ Văn T không có ý định đưa anh S đi cấp cứu mà chạy về
nhà. Hành động của anh T cho thấy anh đã phạm tội giết người.
Câu 4.
- Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước,của tổ chức , cơ
quan mà chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm lợi
ích nói trên.
- Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Cơ sở phát sinh:
Hành vi tấn công xâm hại lợi ích hợp pháp – cơ sở làm phát sinh quyền Phòng
vệ chính đáng : lợi ích hợp pháp là những quyền của Nhà nước, tổ chức và công
dân được pháp luật quy định như quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm...những hành vi chống trả để bảo vệ lợi ích bất hợp pháp không được coi là
phòng vệ chính đáng.
Hành vi tấn công phải có thật và đang diễn ra chứ không phải do suy đoán
tưởng tượng.
Trách nhiệm :
- Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá
mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi xâm hại.


- Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS
quy định của Bộ luật này.

Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt
giữ người phạm tội.
Điều 136 BLHS 2015 quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể là 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt
tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo k giam giữ đến 03
năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03
tháng đến 02 năm:
a. Đối với 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể mỗi người là từ 31%
đến 60% .
b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên.
3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe cho 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể mỗi người là 61% trở lên, thì
bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
Khoản 2 điều 15 BLHS quy định: “Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại”.
Khoản 1 điều 106 BLHS quy định: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ thương tật từ 31 % trở lên hoặc
dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo,
cải tạo k giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đên 01 năm.”
Đây là trường hợp “... người phòng vệ đã dùng những phương tiện và
phương pháp gây thiệt hại quá đáng cho người xâm hại mà tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ thể chưa đòi hỏi phải dùng



các phương tiện và phương pháp đó”. (chỉ thị 07/ TATC ngày 22/12/1983 của Tòa
án nhân dân tối cao).
Người phòng vệ trong các trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng thì phải chịu TNHS nếu có lỗi đối với việc vượt quá của mình. Tuy nhiên,
TNHS không như những trường hợp bình thường. Điều 46 BLHS đã coi vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Câu 5:
a) Trình bày căn cứ quyết định hình phạt:
Theo Điều 50 BLHS 2015. Căn cứ quyết định hình phạt
1. Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ Luật này,
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, Nhân
thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1
điều này, Toà án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội
b) Phân tích căn cứ quyết định hình phạt
1. Các quy định của Bộ Luật Hình sự
Toà án căn cứ vào các quy định của BLHS sau:
- Khoản 2 điều 123 Điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 của BLHS 2015( sửa
đổi bổ sung 2017) về hành vi giết người
- Khoản 1 Điều 106 của BLHS năm 1999( sửa đổi bổ sung 2009) điểm b, s
khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS 2015 về tội “ cố ý giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đang”
- Khoản 1 Điều 55 BLHS 2015 Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội
2. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
- Tính chất của hành vi phạm tội như thử đoạn, công cụ, phương tiện, hình
thức thực hiện...


+ Thủ đoạn : sau khi ném nắp chai nhựa vào Nguyễn Thành T2 nhưng T2 cho

rằng Hồ Văn T không tôn trọng mình nên đi tới hất ly rượu xuống đất và gây gổ
với Hồ Văn T. Sau đó được mọi người can ngăn nên Hồ Văn T sang chỗ khác ngồi.
Hồ Văn T sợ Nguyễn Thành T2 sẽ tiếp tục gây sự nên ra xe máy mở cốp xe lấy con
dao bấm cất vào túi quần bên phải để nếu Nguyễn Thành T2 có đánh thì T rút dao
ra chống trả. Sau đó Hồ Văn T tiếp tục ngôi vào uống rượu.
+ Công cụ: con dao bấm cán màu đen bằng kim loại dài 12cm, lưỡi dao bằng
kim loại màu đen dài 10cm, chỗ rộng nhất của cán dao rộng 2,5cm , mũi dao nhọn.
+ Hình thức thực hiện: Sau khi ra lấy dao từ trong cốp xe cất vào túi quần bên
phải Hồ Văn T tiếp tục vào uống rượu. Khi bị T2,T1,Q chặn đánh, Trần Văn Q hỏi
Hồ Văn T vì sao gây chuyện với Nguyễn Thành T2. Hồ Văn T chưa kịp trả lời thì
Trần T1 xông vào dùng tay, chân đánh. T lùi lại rút dao trong túi quần ra, cầm dao
bằng tay phải, bấm nút cho lưỡi dao bật lên rồi nói :” tụi bay mà đánh tau nữa tau
đâm đó” . Rồi dùng con dao quơ qua quơ lại từ phải sang trái. Khi đó, Trần T1
xông vào đánh Hồ Văn T thì bị T đâm một nhát trúng vào vùng bụng của Trần T1.
Ngay sau đó, anh Nguyễn Trường S nghe ồn ào bên ngoài nên từ trong rạp cưới
chạy ra can ngăn thì bị Hồ Văn T đâm một nhát trúng vào lưng anh S, anh S quay
lại dùng tay đánh 2 cái vào mặt anh S. Khi T cầm dao đâm trúng vào phần ngực a S
thì toàn bộ phần lưỡi dao và tay của a T chạm vào da thịt a S, T sợ quá rút dao chạy
về nhà.
- Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe doạ đã gây ra: vụ án xảy
ra khiến anh S tử vong, anh Trần T1 tỉ lệ tổn thương là 83%
- Mức độ lỗi như động cơ, quyết tâm phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
phạm tội: Lỗi cố ý trực tiếp
+ Động cơ phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
+ Nguyên nhân phạm tội: do có mâu thuẫn với T2 khi dự đám cưới con gái ông
B và bị T2, T1, Q chặn đánh
+ Điều kiện phạm tội: Do T1 đánh
- Hoàn cảnh phạm tội: trong đám cưới con gái ôn B
3. Nhân thân người phạm tội
Hồ Văn T, sinh năm 1995 tại huyện T, tỉnh Quảng Nam, nơi đăng ký HKTT và

chỗ ở hiện nay: Tổ 6, thôn B, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam . Nghề nghiệp: thợ


hồ, trình độ văn hóa 10/12, dân tộc: kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: không, quốc
tịch:Việt Nam. Con ông Hồ Văn T và ba Trương Thị H, có vợ là Nguyễn Thị H,
sinh năm 1966, có 01 con sinh năm 2014, Tiền an Tiền sự không.
4. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
- Tình tiết giảm nhẹ :Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng
- Tình tiết tăng nặng: hành vi có tính chất côn đồ: Dùng dao sắc nhọn đâm vào
vùng nguy hiểm của nạn nhân, phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng
c) Có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng “ quy định tai điểm b, c khoản 1Đ 51 BLHS 2015 để quyết
định hình phạt theo hướng giảm nhẹ đối với tội “ cố ý gây thương tích do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng “ bởi vì sau khi bị đánh lần đầu Hồ Văn T đã kêu lên
“ tụi bay mà đánh nữa tau đâm đó” rồi tiếp tục bị T1 đánh nên T đã quơ qua quơ lại
dao làm gây thương tích. Đây chính là hành vi phạm tội do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng
d) Có thể sửa quyết định hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm đối với tội “giết người “
theo hướng tăng nặng hình phạt do có tình tiết tăng nặng “có tính chất côn đồ “ vì
T đã dùng dao sắc và nhọn đâm vào vùng nguy hiểm trên cơ thể nạn nhân như
phần lưng của anh S và phần bụng của T1
Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của bản án và hành vi phạm tội quyết định xử phạt
đối với bị cáo Hồ Văn T như sau:
- Áp dụng điểm n khoản 1 điều 123 BLHS 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017)
xử phạt bị cáo HVT 16 năm tù về tội giết người
- Áp dụng khoản 1 điều 106 của BLHS 1999 ( sửa đổi bổ sung 2009) điểm c
khoản 1 điều 51 BLHS 2015) xử phạt HVT 6 tháng tù
- Áp Dụng khoản 1 điều 55 BLHS mức án tổng hợp là 16 năm 6 tháng tù
e) Giả sử bị cáo là người 17 tuổi căn cứ vào điều 101,55 BLHS 2015 mức án tổng

hợp là 8 năm 7 tháng tù



×