Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

PP XÃ HỘI HỌC _ TIỂU SỬ HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.36 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


1. Phương pháp xã hội học
Theo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang
tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng
với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá
mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học
người Pháp Auguste Comte đặt ra.
Nằm trong ngành xã hội học, bộ môn xã hội học văn học cũng nhanh chóng
phát triển, và từ giữa thế kỷ XX nó trở thành một khoa học phổ biến trên thế giới.
Nguyễn Văn Dân đã giới thiệu xã hội học văn học với tư cách là phương pháp áp
dụng cho nghiên cứu văn học.
Nói đến xã hội học văn học, chúng ta phải kể tới đóng góp của nhà xã hội học
người Pháp Robert Escarpit, giáo sư Đại học Bordeaux III (1910-?).
Xã hội học văn học được Robert Escarpit chia văn học ra làm ba bộ phận cơ bản:
+ sản xuất, + phân phối [phổ biến, truyền bá] và + tiêu thụ văn học. Tức là thuật ngữ
“văn học” khơng cịn chỉ đơn thuần có nghĩa là sản xuất ra tác phẩm văn học như
trước đây người ta vẫn thường quan niệm, mà nó cịn bao gồm cả hoạt động tiêu
thụ văn học.
Với Escarpit, quá trình văn học sẽ bao gồm các khâu: tác giả – tác phẩm – công
chúng. Ở đây, Escarpit đã dùng các thuật ngữ mang tính chất xã hội hố, theo đúng
với tinh thần là việc viết văn đã trở thành một nghề trong xã hội: nghề viết văn [“le
métier des lettres”].
Tuy nhiên không phải bất cứ một nhà xã hội học văn học nào cũng đi theo hướng
nghiên cứu của Escarpit, mà trên thực tế trong ngành xã hội học văn học đã hình thành
hai xu hướng khá rõ rệt: xu hướng thứ nhất tập trung chú ý vào sự tác động của xã hội
đến văn học, xu hướng này ban đầu có vẻ như được nhiều người quan tâm hơn và có
thể được gọi là xã hội học sáng tác; xu hướng thứ hai chú ý vào sự tác động của văn


học đến xã hội, được gọi là xã hội học tiếp nhận

2


1.1. Xã hội học sáng tác
Xu hướng xã hội học nghiên cứu sự tác động của xã hội đến sáng tác văn học là
một xu hướng phổ biến và đã có nguồn gốc từ lâu.
* Ở thế kỷ XIX, có một nhà triết học và phê bình văn học người Pháp là
Hippolyte Taine đã phát triển một phương pháp nghiên cứu văn học mang tính nhân
học-xã hội học. Taine cho rằng mọi nhà văn và tác phẩm đều chịu ảnh hưởng của ba
yếu tố: chủng tộc, môi trường xã hội, thời đại lịch sử. Ông cho rằng các yếu tố tâmsinh lý của nhà văn, các yếu tố về hoàn cảnh xã hội, về lịch sử thời đại, đều có một vai
trị quyết định đến tính chất và giá trị của tác phẩm. Và để nghiên cứu các yếu tố đó,
nhà nghiên cứu phải áp dụng các thành tựu của khoa học nhân văn – như sinh lý học,
tâm lý học, nhân chủng học – và của xã hội học.
Như vậy, có thể nói phương pháp nghiên cứu của Taine cũng là một mầm mống
của phương pháp xã hội học hiện đại. Chỉ có điều ở ơng có sự kết hợp nhiều lĩnh vực
mà nếu phân tích rạch rịi theo cái nhìn ngày nay thì ta có thể cịn nói đến một phương
pháp sinh lý, phương pháp tâm lý và phương pháp lịch sử. Nhưng ta không thể phủ
nhận vai trị mở đầu của ơng đối với phương pháp xã hội học.
* Tiếp đến, chúng ta cần nhắc đến một chuyên gia nổi bật về xã hội học văn học
đã có ý muốn xác lập những nguyên tắc lý thuyết cho lĩnh vực xã hội học sáng tác, đó
là nhà xã hội học văn học người Pháp Lucien Goldmann (1913-1970).
Trong cơng trình Vì một xã hội học tiểu thuyết (Paris, 1964), Goldmann đã thiết
lập những nguyên tắc phương pháp luận cho việc nghiên cứu xã hội học tiểu thuyết.
Ông tuyên bố: “...vấn đề đầu tiên mà một khoa học xã hội học tiểu thuyết cần phải giải
quyết là vấn đề về mối quan hệ giữa chính cái hình thức tiểu thuyết với cái cơ cấu [hay
“cấu trúc”] của môi trường xã hội mà trong đó cái hình thức tiểu thuyết được phát
triển, tức nó là vấn đề về tiểu thuyết như là một thể loại văn học và về cái xã hội hiện
đại mang tính cá nhân chủ nghĩa”.

Theo Goldmann, trong xã hội, giá trị sử dụng của các đồ vật sẽ là giá trị đích
thực; cịn trong xã hội sản xuất phục vụ thị trường của chủ nghĩa tư bản, thì giá trị sử
dụng bị biến thối thành giá trị trao đổi. Đồng thời, trong cái xã hội có sự biến thoái
3


từ giá trị sử dụng thành giá trị trao đổi ấy, vẫn còn một số cá nhân – là những người
sáng tạo trong tất cả mọi lĩnh vực văn hoá-tinh thần – vẫn muốn tìm kiếm các giá trị
sử dụng, và vì thế, họ bị gạt ra ngồi lề xã hội và trở thành những cá nhân có vấn đề.
Và trên bình diện văn học, những cá nhân có vấn đề đó được thể hiện thành các nhân
vật có vấn đề.
Từ quan niệm trên, Goldmann đi đến quan niệm về cái mà ông gọi là “Phương
pháp cấu trúc phát sinh trong lịch sử văn học”.
Ơng đã trình bày một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp cấu trúc phát sinh
như sau:
- Phương pháp cấu trúc phát sinh xuất phát từ giả thiết cho rằng bất cứ một hành
vi ứng xử nào của con người cũng là một nỗ lực muốn đưa ra một lời giải đáp có ý
nghĩa đối với một tình huống riêng biệt, và chính qua đó nó có xu hướng muốn tạo ra
sự cân bằng giữa chủ thể hành động với đối tượng nhận thức của nó, tức là thế giới
quanh ta
- Như thế, hiện thực con người diễn ra như một quá trình hai mặt: + giải kết
cấu đối với các cơ cấu cũ và + kết cấu các cơ cấu mới để tạo ra thế cân bằng nhằm đáp
ứng những yêu cầu mới của các tầng lớp xã hội(7).
Phương pháp nghiên cứu cái quá trình giải kết cấu và kết cấu này được
Goldmann gọi là “phương pháp cấu trúc [hay cơ cấu] phát sinh”. Sau đó Goldmann
lần lượt giải quyết những vấn đề mà phương pháp cấu trúc phát sinh gặp phải.
Thứ nhất là vấn đề chủ thể của tư tưởng và hành động. Ông cho rằng bất cứ cá
nhân nào cũng phải nằm trong một tầng lớp xã hội nhất định. Do đó trong lĩnh vực
văn hoá-văn học, người sáng tạo chỉ là người đại diện cho một tầng lớp xã hội, và tầng
lớp xã hội, “xét đến cùng, mới chính là chủ thể thực sự của hành động sáng tác, thông

qua người sáng tác”
Thứ hai là vấn đề “cắt lớp đối tượng”. Vấn đề này yêu cầu nhà xã hội học văn
học khi nghiên cứu bằng phương pháp cấu trúc phát sinh sẽ phải phân định phạm vi
cho các nhóm dữ liệu kinh nghiệm với tư cách là các thành tố làm nên các cấu trúc,
các tổng thể tương đối, và sau đó phải đưa chúng vào trong các cấu trúc khác rộng lớn
4


hơn nhưng phải cùng loại, và cứ tiếp tục như thế. Trong quá trình cắt lớp đối tượng
này, khâu đoạn làm sáng tỏ một cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm được Goldmann gọi là
quá trình tìm hiểu tác phẩm; còn khâu đoạn đưa tác phẩm vào trong một cấu trúc [hay
cơ cấu] rộng lớn hơn được ông gọi là q trình lý giải đối với tác phẩm đó.
Cuối cùng Goldmann nói đến “chức năng của sự sáng tạo văn hoá trong đời sống
của con người”. Về vấn đề này ông cho rằng sự sáng tạo văn hoá là để “bù đắp cho sự
pha tạp và cho những sự thoả hiệp mà thực tế đã áp đặt cho các chủ thể con người, và
nó tạo thuận lợi để cho họ hồ nhập vào thế giới thực tại, điều này có thể là cơ sở tâm
lý học của sự thanh lọc [catharsis]. Ở đây, Goldmann đã kết hợp chiết trung chủ nghĩa
Mác với tâm phân học Freud để xây dựng nên phương pháp cấu trúc phát sinh.
Về cơ bản Goldmann vẫn là một nhà xã hội học văn học, bởi vì các ngun tắc
và mục đích phương pháp luận của ơng vẫn là thuộc lĩnh vực xã hội học. Ơng khơng
bàn sâu về các nguyên tắc của chủ nghĩa cấu trúc, mà ơng chỉ áp dụng phương pháp
phân tích cấu trúc và tâm phân học để rút ra những kết luận về xã hội học, về cơ sở xã
hội của cấu trúc tiểu thuyết.
* Ở Việt Nam, phương pháp xã hội học cũng đã được các nhà nghiên cứu văn
học áp dụng từ lâu. Tuy nhiên nó thường được kết hợp với các phương pháp khác để
giúp nhà nghiên cứu đánh giá tồn diện một đối tượng. Nhìn chung các nhà nghiên
cứu của Việt thường kết hợp nghiên cứu hoàn cảnh xã hội với nghiên cứu thân thế tiểu
sử, con người, sự nghiệp của nhà văn để tìm hiểu tác phẩm. Trường hợp của Nguyễn
Bách Khoa là một ví dụ.
Mặc dù tiếp thu phương pháp xã hội học của Taine trong việc đề cao vai trị của

hồn cảnh xã hội và thời đại lịch sử, nhưng Nguyễn Bách Khoa vẫn phê phán Taine là
đã không chú ý đến tâm lý cá nhân của nhà văn. Và đó là điều mà Nguyễn Bách Khoa
đã quan tâm. Ông tiếp thu các phương pháp tâm lý, và tiếp thu phương pháp xã hội
học-lịch sử về đấu tranh giai cấp của Plekhanov, để bổ khuyết cho phương pháp của
Taine. Nhưng ở ông, cái nổi bật nhất vẫn là phương pháp xã hội học-lịch sử.
Trong lời Tựa viết cho cơng trình Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, ông đã
công khai tuyên bố rõ ràng các nguyên tắc mà có thể gọi là “nguyên tắc phương pháp
luận” của ông như sau:
5


“1.) Đời sống tinh thần của con người là sản phẩm của đời sống sinh lý và xã
hội.
2.) Bản chất (cả sinh lý lẫn tâm lý) của con người luôn ln biến đổi theo sự
biến đổi của hồn cảnh xã hội.
3.) Con người sau khi bị xã hội quyết định có thể ảnh hưởng trở lại đến xã
hội, nhưng sức ảnh hưởng này cũng vẫn bị những điều kiện xã hội quyết
định”.
Sau đó ơng cho rằng, theo các ngun tắc trên, muốn hiểu một nhân vật lịch sử, chúng
ta phải khảo sát các phương diện sau:
“1.) Khảo xét [sát - NVD] kỹ hoàn cảnh xã hội [...]
2.) Khảo xét kỹ kiến trúc nguyện vọng, tâm lý, tư tưởng, xu hướng cùng vai
trò lịch sử của đẳng cấp cá nhân ấy.
3.) Khảo xét xem những ảnh hưởng của cuộc xung đột đẳng cấp trong xã hội
đã tác động đến cá nhân ra sao và đã chịu sức phản động của cá nhân ấy tới
chừng nào.
Tóm lại: phải nghiên cứu tất cả cái hệ thống xã hội trong đó cá nhân kia, đứng ở
phạm vi đẳng cấp của mình, đã bị hồn cảnh quyết định và đã chiến đấu để phản động
lại hoàn cảnh ấy”.
Tuy nhiên, phương pháp xã hội học của Nguyễn Bách Khoa đã bộc lộ những

khiếm khuyết. Ông đã có xuất phát điểm đúng khi phê phán “phương pháp phê bình
phù phiếm”, nhưng ơng lại sa vào một cực đoan khác: phê bình máy móc. Mặc dù ơng
tun bố phương pháp của ông là “phương pháp duy vật biện chứng”, mang tính khoa
học chặt chẽ, nhưng việc thực hành phương pháp của ông lại thiếu biện chứng và
thiếu chặt chẽ.
Nguyễn Bách Khoa cho rằng thể thơ lục bát (tức là hình thức nghệ thuật) ở
Truyện Kiều “chỉ là sản phẩm của một trạng thái nô lệ của dân tộc trong một giai đoạn
lịch sử (thời Bắc thuộc).” Và ông nhấn mạnh: “Âm điệu lục bát tiến đến chỗ tuyệt diệu
là một âm điệu báo tin sự diệt vong vậy”. Cịn về nội dung Truyện Kiều thì theo ơng
nó chỉ là sự phản ánh cái ý thức hệ ốm yếu của đẳng cấp của Nguyễn Du mà thôi:
6


“Truyện Kiều chỉ là cái kết tinh của những cái suy nhược trong cốt tinh Việt”. Và:
“Một xã hội ốm, một đẳng cấp ốm, một cá nhân ốm: Tất cả Truyện Kiều là ở đó”.
Như vậy, ơng đã lược quy một cách thơ thiển sự tác động của hồn cảnh xã hội
để suy diễn một cách máy móc, đã khơng thấy được mâu thuẫn trong con người
Nguyễn Du khi đánh giá nội dung Truyện Kiều, và không thấy được vị trí độc lập của
nghệ thuật so với ý thức giai cấp-xã hội khi ông đánh giá giá trị của thể thơ lục bát.
Việc này đã làm cho cái “phương pháp duy vật biện chứng” của ông biến thành
“phương pháp duy vật máy móc” và đã bị nhiều người phê phán.
Tóm lại, phương pháp xã hội học có nhiệm vụ tìm hiểu các mối quan hệ giữa
văn học với xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý rằng đây chỉ là một phương pháp bổ sung để
giúp ta hiểu được những khía cạnh ngoại văn học có liên quan mật thiết đến bản chất
của hiện tượng văn học, từ đó hiểu rõ bản chất của hiện tượng văn học hơn.
1.2. Phương pháp xã hội học tiếp nhận (mĩ học tiếp nhận)
Vào những năm 60 của thế kỉ 20, Mĩ học tiếp nhận (Receptional Aesthetic)
xuất hiện ở Đức mà đại diện tiêu biểu là hai giáo sư đại học Konstanz Hans Robert
Jauss và Wolfgang Iser. Mĩ học tiếp nhận cực thịnh vào những năm 70, 80, trở thành
một hướng nghiên cứu phê bình văn học có ảnh hưởng rộng rãi trên tồn thế giới. Mĩ

học tiếp nhận thúc đẩy sự chuyển hướng từ văn bản trung tâm luận sang độc giả trung
tâm luận trong nghiên cứu văn học, nghiên cứu tiêu dùng và tiếp nhận văn hóa.
Mĩ học tiếp nhận là một trường phái nghiên cứu tương đối phức tạp, dung hợp
rất nhiều tư tưởng mĩ học triết học khiến bản thân nó thiếu tính thống nhất, nhưng mặt
khác lại có độ mở khá cao. Mĩ học tiếp nhận chủ yếu kế thừa Giải thích học – Giải
thích học bản thể luận của Gadamer, kế thừa tư tưởng Hiện tượng học – Triết học
nghệ thuật của Roman Ingarden, kế thừa tư tưởng của Chủ nghĩa cấu trúc Prague và
Chủ nghĩa hình thức Nga. Chủ nghĩa hình thức Nga muốn xác lập sự độc lập của văn
học, do đó phạm trù trung tâm mà họ quan tâm là “tính văn học”, “lạ hóa”, “diễn biến
văn học”, “ngôn ngữ thơ ca”. Một bộ phận của Chủ nghĩa hình thức Nga đã kế thừa và
phê phán Chủ nghĩa hình thức để phát triển thành Chủ nghĩa cấu trúc Prague, mà đại
diện tiêu biểu là Jakobson và Mukarovsky. Trong phân tích của Mukarovsky có chú ý

7


đến vị trí của người tiếp nhận, và mở rộng nghệ thuật đến tiêu dùng sản phẩm của
nghệ thuật xã hội học, phá vỡ quan niệm nghệ thuật nằm ở trên cao, mang tính cố hữu.
Như vậy, Mĩ học tiếp nhận đã kế thừa ưu điểm và khắc phục những thiếu sót
của các lí thuyết triết học mĩ học trước đó, để hình thành một thứ lí thuyết nghiên cứu
phê bình văn học chú trọng giao lưu tương hỗ giữa văn bản và độc giả, đặt độc giả vào
trung tâm của hoạt động văn học, thúc đẩy sự chuyển hướng lớn của lí luận văn học
thế giới.
Jauss và Iser là linh hồn của trường phái Mĩ học tiếp nhận Đức, họ đều nhấn
mạnh vị trí của người tiếp nhận trong hoạt động văn học, coi hoạt động giao lưu văn
học là trọng tâm nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, trọng tâm nghiên cứu và lịch trình tư
tưởng của hai người khơng hồn tồn tương đồng. Nếu như Jauss chú trọng đến lịch
sử hiệu quả của văn học và lịch sử tiếp nhận, sau đó nghiên cứu kinh nghiệm
thẩm mĩ, coi lịch sử tiếp nhận là lịch sử kinh nghiệm thẩm mĩ của nhân loại, thì
Iser lại chú trọng nghiên cứu hành động đọc.

Cơng trình tiêu biểu của Jauss là Hướng tới mĩ học tiếp nhận, Lịch sử văn học
như là sự khiêu kích đối với khoa học văn học, Kinh nghiệm thẩm mĩ và giải thích học
văn học, Tiếp nhận văn học và giao lưu văn học. Ngay từ sớm trong bài Lịch sử văn
học như là sự khiêu kích đối với khoa học văn học ông đã xây dựng quan niệm về văn
học sử và biên soạn văn học sử của mình. Jauss thống nhất nhân tố thẩm mĩ và
nhân tố lịch sử trong lĩnh vực nghiên cứu văn học sử. Ơng khơng hồn tồn đồng ý
với quan điểm của Chủ nghĩa hình thức Nga và Chủ nghĩa Mác. Ông cho rằng chủ
nghĩa Mác quá chú trọng nhân tố lịch sử xã hội chế ngự văn học cho nên khơng quan
tâm đúng mức tới tính lịch sử và tính độc lập của hình thức thẩm mĩ văn học. Ngược
lại chỉ đơn thuần miêu tả diễn biến của hình thức văn học như chủ nghĩa hình thức
Nga cũng khơng thể giúp chúng ta khái quát được lịch sử của tác phẩm văn học. Ơng
đã dung hịa quan niệm văn học sử của Chủ nghĩa hình thức Nga và Chủ nghĩa Mác.
Đối với Jauss, độc giả trở thành nhân tố quan trọng trong quan hệ giữa văn học và lịch
sử, và trong việc không ngừng tiếp nhận của người đọc, tác phẩm không ngừng thực
hiện sự kế hợp giữa quá khứ và hiện tại, khơng ngừng có được sinh mệnh mới.
Khái niệm quan trọng nữa của ông là khái niệm “Erwartungshorizont” –
“tầm đón nhận” (có người dịch “chân trời chờ mong” hay “chân trời chờ đợi” . Đây
8


vốn là khái niệm được dùng trong Giải thích học của Husserl và Gamdama, nó
mang đến cho sự lí giải một góc nhìn, một cơ sở để tiếp nhận cái mới, phía sau nó
là bối cảnh và truyền thống. Nếu tác phẩm vượt quá xa tầm đón đợi, độc giả sẽ khó
tiếp nhận, nhưng nếu cự li giữa tầm đón đợi của độc giả và tác phẩm quá nhỏ, tác
phẩm cũng thiếu sức hấp dẫn. Đây là tư tưởng quan trọng gợi mở nhiều ý tưởng trong
nghiên cứu tiếp nhận văn học nghệ thuật. Ơng cũng đưa ra lí luận đọc hiểu vĩ mơ. Ơng
hình dung hành động đọc chính là đối thoại theo hình thức hỏi đáp, là quá trình giao
lưu, q trình trùng cấu “tầm đón nhận” của quá khứ, và quá trình giao lưu, đối thoại
mang đến cho tác phẩm sinh mệnh mới. Lịch sử giải thích về một tác phẩm văn học
chính là sự giao lưu kinh nghiệm, hoặc có thể nói là một trị chơi hỏi đáp, một cuộc

đối thoại, người đọc sẽ điều chỉnh “tầm đón nhận”, và q trình đọc chính là q trình
điều chỉnh quan hệ giữa quá khứ và hiện tại, văn bản và độc giả. Giai đoạn sau, ông
phát triển lí thuyết tiếp nhận của mình theo hướng lí thuyết kinh nghiệm thẩm mĩ. Đây
cũng là một bước tiến mới nhằm kết hợp giữa nghiên cứu văn học và nghiên cứu văn
hóa, hình thành một giai đoạn mới trong nghiên cứu văn học. Jauss đặc biệt chú
trọng giải trí thẩm mĩ và giao lưu thẩm mĩ, theo ơng, lồi người vì muốn giải trí
nên tìm đến nghệ thuật, cho nên khơng nên tách bạch giải trí và nghệ thuật. Coi trọng
chức năng giải trí chính là đáp ứng sự phát triển của thực tiễn và thúc đẩy hoạt động
tiêu dùng văn học, liên kết văn học và văn hóa đại chúng. Ông cho rằng kinh nghiệm
thẩm mĩ tồn tại trong sáng tác và tiếp nhận, cả người sáng tác và người đọc đều có
được khối cảm thẩm mĩ. Như vậy, có thể thấy Jauss nhấn mạnh chức năng chủ thể
của người đọc, xem trọng vị trí của độc giả trong hoạt động văn học. Ơng đã giải
thích sự sinh thành của ý nghĩa tác phẩm văn học từ góc độ mới, lấy “tầm đón nhận”
làm điểm xuất để phân tích kinh nghiệm thẩm mĩ, có những lí giải mới về mĩ cảm và
giải trí trong kinh nghiệm thẩm mĩ.
Những tác phẩm chủ yếu của Iser là Kết cấu vẫy gọi của văn bản, Độc giả tiềm
ẩn, Hoạt động đọc: lí luận hưởng ứng thẩm mĩ. Thời kì sau ơng dần dần chuyển sang
nhân loại học văn học, với tác phẩm tiêu biểu là Hư cấu và tưởng tượng: biên giới của
nhân loại học văn học, và Hư cấu hóa: vĩ độ nhân loại học văn học của hư cấu văn
học. Quan niệm văn học của ông vô cùng phong phú, thuật ngữ và khái niệm phức
tạp, về cơ bản có thể khái quát thành một số phương diện sau: 1. Đề xuất quan niệm
9


mới về tác phẩm văn học: tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa tác giả và độc giả.
2. Văn bản tác phẩm có kết cấu vẫy gọi, trong đó tồn tại rất nhiều khoảng trống
và điểm khơng xác định, vẫy gọi người đọc đến bổ sung. Trong văn bản tồn tại cơ
sở để tiến hành giao lưu giữa độc giả và văn bản, nó là dấu vết của điều kiện lịch sử xã
hội và bối cảnh văn hóa hoặc những thứ tương đồng với tác phẩm trước. Ông cũng
quan tâm đến sự sinh thành của văn bản, coi việc đọc chính là một q trình giao lưu.

Đóng góp rất quan trọng của ông là khái niệm “độc giả tiềm ẩn”, độc giả tiềm ẩn tồn
tại trong kết cấu văn bản và trong hành động đọc. Trong quá trình đọc, tiêu chuẩn
kinh nghiệm vốn có có thể bị phủ định, từ đó kinh nghiệm thẩm mĩ của người đọc trở
nên phong phú hơn. Giai đoạn sau, ông hướng tới nhân loại học văn học, chủ yếu
nghiên cứu sự hình thành thẩm mĩ của nhân loại. Ông quan tâm đến sự kết hợp giữa
hư cấu và tưởng tượng, trò chơi hiện thực, độc giả và tác giả đều lấy thân phận
song trùng để tham dự vào trò chơi.
Mĩ học tiếp nhận đóng góp khơng nhỏ đối với lí luận phê bình văn học thế giới.
Nó khơng chỉ ảnh hưởng ở Đức mà còn mở rộng ra nhiều nước trên thế giới cùng với
Harold Bloom, Stanley Fish, G.Poule… thúc đẩy sự chuyển hướng từ văn bản trung
tâm sang độc giả trung tâm luận trong nghiên cứu văn học, nghiên cứu tiêu dùng và
tiếp nhận văn hóa. Tất nhiên, Mĩ học tiếp nhận cũng có những hạn chế, trong đó rõ
nhất là đã quá nhấn mạnh vai trò và hoạt động tiếp nhận của người đọc, bỏ qua ý
nghĩa và giá trị của người sáng tác và quá trình sáng tác, vì thế khơng ít người coi Mĩ
học tiếp nhận là “duy độc giả luận”, cực đoan hóa vai trị của người đọc. Ngồi ra, lí
luận văn học sử và biên soạn văn học sử của Jauss cũng khơng ít hạn chế. Lí thuyết
văn học sử của ơng thiếu những thao tác cụ thể, và để biên soạn một bộ văn học sử
theo lí thuyết của ơng cần một nguồn tư liệu khổng lồ. Iser lại thiên sang kết cấu nội
tại của văn bản. Khi phân tích hành động đọc đã thiếu cơ sở xã hội và góc nhìn lịch
sử, hệ thống thuật ngữ vô cùng phức tạp, không dễ khái quát và hệ thống hóa. Tuy
nhiên, khắc phục những hạn chế này, chúng ta sẽ có thể vận dụng lí thuyết Mĩ học tiếp
nhận để giải quyết khơng ít các vấn đề của thực tiễn nghiên cứu văn học nghệ thuật.

10


2. Phương pháp tiểu sử
2.1. Khái niệm
Bên cạnh phương pháp xã hội học, phương pháp tiểu sử cũng là một phương
pháp hữu hiệu để tiếp cận tác phẩm văn học. Vậy phương pháp tiểu sử là gì?

Phương pháp tiểu sử là gì phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học bằng cách tìm
hiểu và nghiên cứu tiểu sử nhà văn.
Sự phân biệt giữa phương pháp xã hội sáng tác và phương pháp tiểu sử học
chính là đối tượng sáng tác. Đối tượng của phương pháp xã hội sáng tác là nhà văn từ
góc độ xã hội và bình diện xã hội như thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh, mơi
trường sống,…. Cịn phương pháp tiểu sử học quan tâm đến những vấn đề riêng của
nhà văn.
Tác giả đã khẳng định phương pháp tiểu sử là phương pháp của kết quả kinh
nghiệm cuộc sống thực tiễn và cuộc sống khoa học, khác với các phương pháp được
hình thành từ lý thuyết, các chủ nghĩa.
2.2. Lịch sử của phương pháp tiểu sử
Tác giả đã chỉ ra được quá trình lịch sử của phương pháp và xem nó là một trong
những phương pháp ra đời lâu nhất. Tác giả nhấn mạnh sự ra đời của phương pháp
này xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu cuộc đời của các nhân vật quan trọng trong xã hội.
Đó, cũng chính là lý do của sự hình thành, phát triển thể tài văn học tiểu sử.
+ Có thể kể đến tác phẩm thuộc thể tài ở thời đại cổ đại này: “Những sự kiện
đáng nhớ” – Xenenphon, “Liệt truyện đối chiếu” của Plutarkh.
+Đến 1753, “Phong cách chính là con người” của bá tước Buffon đã trở thành
câu ngạn ngữ nổi tiếng, kích thích động cơ tìm hiểu tác giả thông qua tác phẩm của
anh ta và ngược lại.
+“Cuộc đời của Samuel Johnson” của James Boswell là tác phẩm đã đánh dấu
thời hoàng kim của thể tài văn học tiểu sử.

11


+Đến thế kỉ XIX, nhiều cơng trình tiểu sử dung lượng lớn đã xuất hiện:
“Biographia Literaria” của Samual Taylor hoặc “Cuộc đời của Huân tước Walter
Scott” của John Gibson Lockhart.
Những cơng trình trên đã khẳng định thể tài văn học tiểu sử và phê bình tiểu sử

trở thành “một ngành nghệ thuật tinh tế nhất và nhân văn nhất trong số các ngành
nghệ thuật ngôn từ”
+ Thế kỷ XX, nhà phân tâm Sigmund Freud cùng nhiều nhà khoa học khác chủ
trương nghiên cứu tác phẩm văn học để tìm hiểu tiểu sử văn học.
Để thực hiện phương pháp này, tác giả đã xác định phảm đảm bảo các nguyên
tắc sau:
+ Xác định mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp yếu tố tiểu sử nhà văn và tác
phẩm
+ Phải xác định được mối quan hệ về loại hình hoặc quan hệ về hệ thống giữa
yếu tố tiểu sử và yếu tố tác phẩm.
+ Khơng thể gán ghép võ đốn, tùy tiện mối liên hệ giữa các yếu tố nhà văn và
tác phẩm
+ Không lý giải tất cả yếu tố của tác phẩm bằng tất cả yếu tố của tiểu sử nhà văn
Như vậy, phương pháp tiểu sử hồn tồn có ích cho nghiên cứu văn học trong
một số trường hợp và một mức độ nhất định.
2.3. Nguyên tắc
- Dùng các yếu tố tiểu sử của nhà văn để lý giải các tác phẩm văn học của nhà
văn đó.
- Yếu tố tiểu sử của nhà văn có thể có mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp vơi tác
phẩm.
2.4. Yêu cầu của phương pháp
- Xác định được các mối quan hệ về loại hình hoặc quan hệ về hệ thống giữa các
yếu tố tiểu sử của nhà văn với các yếu tố của tác phẩm.
12


- Các yếu tố của tác phẩm không nhất thiết phải có đầy đủ các yếu tố đối ứng
trong tiểu sử nhà văn.
 Đây chỉ là một phương pháp bổ sung, phải được kết hợp với các phương pháp khác.
 Phương pháp này được sử dụng trong nghiên cứu văn học sử, các tập tiểu luận phê

bình thuộc loại “chân dung văn học”.
Như vậy, cơng trình này được đánh giá là cơng trình thuộc thể tài phê bình tiểu
sử văn học.
2.5. Một vài hạn chế
+ Đối với nhà văn khi đã qua đời, cần khảo lược một cách khách quan, chính
xác, nhìn nhận nhiều nguồn các tư liệu tiểu sử và kết hợp các phương pháp khác,biện
pháp khoa học kiểm chứng
+ Tránh lệ thuộc, áp đặt những định kiến, tránh những gị ép một cách thơ thiển,
máy móc.
2.6. Một số tác phẩm áp dụng
Tác giả, đồng thời, đã mô tả được tình hình vận dụng phương pháp tiểu sử tại
Việt Nam.
Cụ thể, “Sự nghiệp và thi văn Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ”, tác giả
Lê Bá Thước, Hoa Bằng nghiên cứu Hồ Xuân Hương, Trần Thanh Mại nghiên cứu Tú
Xương, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bách Khoa nghiên cứu Nguyễn Du. Ngồi ra, cịn có
những cơng trình được gọi là phê bình tiểu sử văn học để nhằm phác họa “chân dung
văn học” Qua đó, nhà nghiên cứu đã có ý thức sử dụng phương pháp tiểu sử một cách
khoa học, có kết hợp một cách biện chứng với phương pháp nghiên cứu hoàn cảnh
lịch sử-xã hội nhằm tránh kết luận phiến diện, chủ quan.
Phương pháp tiểu sử đặc biệt được u thích tại Việt Nam và các nước phương
Đơng nói chung vì thói quen nhìn nhận, đánh giá sự nghiệp của con người bằng chính
bản thân con người chứ ít khi nào tách bạch yếu tố con người và thành quả. Điều này
được xem là hệ quả của quan niệm Nho giáo, tất cả mọi việc đều có gốc rễ sâu xa từ
“tu thân”.
13


Với cơng trình của mình – “Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn”, Trần Thanh Mại
đã vận dụng phương pháp tiểu sử và nói rõ ở phần lời Tựa, dù khơng gọi đích danh đó
là phương pháp tiểu sử. Ông đã chỉ ra ba yếu tố bệnh tật, người tình và tơn giáo là

những yếu tố đã chi phối cuộc đời và thơ văn của Hàn Mặc Tử.Tác giả đã chứng minh
xác đáng các yếu tố của thi ca đều có quan hệ rất chặt với các sự kiện tiểu sử nhà văn.
Tác giả đã dung “sự kiện tiểu sử nhà văn để cắt nghĩa thi phẩm”. Song, vẫn có nhiều
đánh giá bị coi là những ý kiến có phần chủ quan. Sử dụng phương pháp này yêu cầu
người nghiên cứu phải đọc, sử dụng nhiều tư liệu tiểu sử với sự chính xác cao độ.
Song, nhiều tư liệu ông đưa ra vẫn vấp phải sự phản bác, nghi ngờ của người tiếp
nhận về độ chính xác của chúng, kể cả đối với người thân của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.
2. Vũ Cao Đàm (2003), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học

và kĩ thuật, Hà Nội.

14


15



×