Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận Văn Phật giáo Nhật Bản thời kỳ Kamakura (1192 - 1333)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.18 KB, 77 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này em đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của
các thầy, cô cùng các bạn sinh viên trong khoa Lịch Sử, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và những đóng
góp quý báu đó.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của em tới giảng viên Th.s
Nguyễn Thị Nga - Người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 01 tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Minh

Nguyễn Thị Minh

1

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự


hướng dẫn chỉ bảo tận tình của giảng viên Th.s Nguyễn Thị Nga – Người
trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu của khóa luận chưa từng
được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào, đó là những kết quả
đúng, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 01 tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Minh

Nguyễn Thị Minh

2

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt, ra đời và tồn tại hàng vạn
năm nay với nhân loại, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo nhân
dân ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến đời sống xã hội nhiều mặt của con người.
Tuy nhiên, xung quanh tôn giáo đang còn nhiều ý kiến khác nhau trong
giới nghiên cứu (và có thể nói là một trong những hiện tượng xã hội có nhiều
tranh cãi nhất). Chẳng hạn tôn giáo là một hiện tượng tích cực hay tiêu cực,

ảnh hưởng tốt hay xấu đến đời sống con người, xã hội và đánh giá trên cơ sở
khoa học nào. Về mặt hình thái ý thức xã hội, tôn giáo lâu nay được xem là
đối lập với khoa học và nếu vậy thì cắt nghĩa như thế nào về hiện tượng tôn
giáo có chiều hướng gia tăng hiện nay trong khi có sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ trên phạm vi toàn thế giới cũng như mỗi quốc gia? Vấn
đề quan hệ hay tác động, ảnh hưởng qua lại giữa tôn giáo với chính trị, văn
hoá, đạo đức …như thế nào và bản thân tôn giáo trong nội dung các quan
niệm của mình có chứa đựng các yếu tố chính trị, đạo đức không?...
Có thể nói, những vấn đề trên đây là những vấn đề có phạm vi rộng lớn
và có tính cấp thiết, nhất là vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo đối với xã hội, con
người cần được quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên các lĩnh
vực khác nhau.
Nhật Bản là một quốc gia có trình độ phát triển cao trên nhiều lĩnh vực.
Trong những nguyên nhân tạo nên những thành công chung của quốc gia này
cần phải kể đến sự tác động của một nền văn hoá độc đáo mang bản sắc Nhật
Bản. Nghiên cứu chính nền văn hoá Nhật Bản trong đó có văn hoá Phật giáo
mới giúp chúng ta cắt nghĩa được một phần thành công của đất nước này
trong sự phát triển.
Nguyễn Thị Minh

3

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khi nghiên cứu quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản

hiện vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng, đó chỉ là sự bành trướng tư tưởng văn hoá
Trung Hoa hơn là nhu cầu nội tại của nước Nhật, và mặc dù các môn phái
Bukkyo (đạo Phật) ở đây trong thế giới quan của mình còn chứa đựng những
yếu tố tiêu cực, song khách quan mà nói, đạo Phật ở Nhật Bản nói chung đã
có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của xã hội Nhật Bản trong lịch
sử cũng như hiện tại. Nghiên cứu những đóng góp đó sẽ có ý nghĩa bổ ích cho
sự chế định những chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Trong lịch sử nhân loại, tuy giữa những nước có sự khác biệt về truyền
thống thể hiện qua phong tục, tập quán, tính cách, lối ứng xử của nhân dân và
moi đặc tính văn hóa khác do lịch sử để lại, song giữa các dân tộc vẫn có
nhiều nét tương đồng, nhất là đối với Việt Nam và Nhật Bản là những quốc
gia cùng nằm trong cộng đồng châu Á, cùng có chung một xuất phát điểm về
kinh tế là nông nghiệp lúa nước, mà điểm nổi bật nhất là cả hai nước đều
mang dấu ấn đậm nét của văn hoá Trung Hoa. Do đó nghiên cứu về văn hoá
Nhật Bản nói chung, về Phật giáo Nhật Bản nói riêng, Việt Nam sẽ tìm được
một phần những bài học kinh nghiệm bổ ích cho việc phát triển đất nước
mình.
Hơn nữa khi nghiên cứu đi sâu vào sự phát triển Phật giáo ở Nhật Bản
trong một thời kỳ cụ thể, ta sẽ thấy rõ hơn được Phật giáo phát triển và ảnh
hưởng của nó đến đời sống văn hoá xã hội Nhật Bản một cách sâu rộng nhất.
Vì vậy, tôi chọn vấn đề “Phật giáo Nhật Bản thời kỳ Mạc Phủ
Kamakura (1192 – 1333)” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng thắt chặt, nhu cầu
tiếp xúc, học hỏi Nhật Bản tăng lên, nhiều tác phẩm bàn về văn hoá Nhật Bản
được giới thiệu.

Nguyễn Thị Minh

4


K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Như bộ sách “Lịch sử văn hóa Nhật Bản” của G.B. Samson (Nxb
Khoa học xã hội, năm 1995) . Bộ sách viết về lịch sử văn hóa Nhật Bản qua
các thời kỳ lịch sử.
Bộ sách “Lịch sử Nhật Bản” của G.B. Samson (Nxb Khoa học xã hội,
năm 1994). Bộ sách viết tổng quan về lịch sử văn hóa - kinh tế - chính trị
Nhật Bản từ thời xưa cho đến lịch sử Nhật bản thời hiện đại.
Cuốn sách “Lịch sử tôn giáo Nhật Bản” của tác giả Sueki Fumihiko,
dịch giả Phạm Thị Thu Giang (Xb năm 2011) đây là một cuốn sách hiếm hoi,
trong đó đã tổng hợp được một cách logic toàn bộ lịch sử tôn giáo Nhật Bản.
Ngoài ra còn có “Chân dung văn hoá đất nước mặt trời mọc” của
Hữu Ngọc, xuất bản năm 1993. Hay “Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản” của
Joseph M. Kitagawa (Nxb Khoa học xã hội, năm 2002). Trong những tác
phẩm đó, vấn đề Phật giáo ở Nhật Bản cũng đã được đề cập. Có thể thấy, Phật
giáo được xem là những nhân tố góp phần tạo nên diện mạo văn hoá đầy tính
mầu sắc, độc đáo của Nhật Bản.
Ngoài những tác phẩm đã được kể trên, những công trình khoa học
khác như: Nhật Bản tăng cường hiểu biết và hợp tác (1994 -1995); Sổ tay
nghệ thuật Nhật Bản (dịch năm 1990) hay nhiều công trình nghiên cứu Nhật
Bản đã đưa lại một cách nhìn ngày càng đầy đủ và chân thực về văn hoá Nhật
Bản nói chung, Phật giáo Nhật Bản nói riêng.
Những tác phẩm trên cho tôi cái nhìn tổng quan về văn hoá Nhật Bản
nói chung và trong đó có Phật Giáo Nhật Bản. Việc nghiên cứu Phật giáo

Nhật Bản ở từng thời kỳ cụ thể, cũng như ảnh hưởng của nó đối với đời sống
xã hội vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn. Vẫn chưa có một công
trình nào viết riêng về Phật giáo Nhật Bản thời kỳ Kamakura (1129 -1333).

Nguyễn Thị Minh

5

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Khái quát về Phật giáo Nhật Bản, đi sâu tìm hiểu về sự phát triển của
Phật giáo Nhật Bản thời kỳ Mạc Phủ Kamakura (1192 -1333) cũng như một
số ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần ở Nhật Bản.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có hai nhiệm vụ chủ yếu:
- Khái quát bối cảnh lịch sử của quá trình du nhập Phật giáo vào Nhật
Bản và một số đặc điểm của quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Nhật
Bản.
- Sư phát triển của Phật giáo Nhật Bản thời kỳ Mạc Phủ Kamakra, và
ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần ở Nhật Bản ở thời kỳ
này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu vấn đề
Đề cập chủ yếu đến phương diện lịch sử của quá trình du nhập và phát

triển của Phật giáo ở Nhật Bản ; đi sâu tìm hiểu Phật giáo Nhật bản thời kỳ
Mạc Phủ kamakura và những ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống văn hoá
tinh thần ở Nhật Bản trên một số phương diện.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu của mình người viết dựa trên cơ sở phương
pháp luận sử học mácxít, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta trong nghiên cứu sử học, văn hóa và tôn giáo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu người viết đã cố gắng kết hợp chặt chẽ giữa
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra người viết còn sử dụng

Nguyễn Thị Minh

6

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh…nhằm nhìn nhận vấn đề một cách
xác thực nhất.
5. Đóng góp của đề tài
- Góp phần đánh giá vai trò của Phật giáo vào kho tàng văn hoá tinh
thần của Nhật Bản.
- Đề tài góp phần gợi mở một số vấn đề giúp các nhà quản lý xã hội
suy nghĩ về việc khuyến khích những đóng góp của Phật giáo vào nền văn

hoá dân tộc và vận dụng nó trong điều kiện xã hội Viêt Nam.
- Kết quả của khoá luận có thể sử dụng vào quá trình học tập nghiên
cứu về Phật giáo
6. Bố cục của khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về Phật giáo Nhật Bản
Chương 2: Sự phát triển của Phật giáo Nhật Bản thời kỳ Mạc Phủ
Kamakura
Chương 3: Ảnh hưởng của Phật Giáo đến Nhật Bản thời kỳ Mạc Phủ
Kamakura

Nguyễn Thị Minh

7

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ PHẬT GIÁO NHẬT BẢN
TRƢỚC THỜI KỲ MẠC PHỦ KAMAKURA

1.1. SỰ DU NHẬP PHẬT GIÁO VÀO NHẬT BẢN
Cho đến hiện nay cuộc tranh luận về những động cơ dẫn đến sự du
nhập, bám rễ của Phật giáo vào Nhật Bản vẫn chưa đi đến những thống nhất
cần thiết. Có thể thấy có hai quan điểm chính: Thứ nhất cho rằng, sự du nhập

Phật giáo vào Nhật Bản là do những động cơ từ phía Trung Hoa hay đó chỉ là
sự bành trướng về tư tưởng, văn hóa của Trung Hoa; Thứ hai cho rằng, đó là
sự tiếp nhận diễn ra trên cơ sở nhu cầu nội tại của người Nhật Bản hay người
Nhật đã chủ động tiếp nhận Phật giáo. Theo ý kiến của tôi, trong sự phát triển
của văn hóa Nhật Bản nói riêng và của bất kỳ nền văn hóa nào nói chung
không bao giờ là một quá trình thuần nhất, bởi các dân tộc liên tục có những
cuộc tiếp xúc văn hóa dù tự giác hay tự phát. Trường hợp Nhật Bản trước khi
tiếp xúc với Triều Tiên, Trung Hoa có những đặc biệt bởi đó là xứ sở của các
hòn đảo sống gần như biệt lập so với thế giới bên ngoài, nhất là khi kỹ nghệ
hàng hải chưa phát triển. Chính sự cô độc trong những mối giao cảm văn hóa
mà so với Triều Tiên, Trung Hoa, trình độ văn minh của Nhật Bản lúc đó thấp
hơn. Về mặt xã hội, đó là sự tồn tại của chế độ thị tộc còn khá phổ biến, và về
kinh tế là trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Những thấp kém
trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện cả trong lĩnh vực tư tưởng. Ở Nhật Bản
chưa hình thành các tư tưởng có tính hệ thống trong nghệ thuật, tôn giáo, triết
học... Khi những quan hệ đầu tiên của Nhật Bản hình thành với lân bang qua
buôn bán và nhất là chiến tranh, người Nhật đã nhận ra rằng, bên cạnh họ là
những quốc gia có trình độ phát triển cao hơn: "Không có gì đáng ngạc
Nguyễn Thị Minh

8

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nhiên nếu người Nhật sơ khai trên một đất nước gồm những hòn đảo biệt lập

của họ cảm nhận được những phản quang của đế quốc Trung Hoa mới và
bừng tỉnh với một nhận thức mới về cái đất nước lớn lao ở bên kia bờ biển"
[26; 23].
Tuy nhiên, như lịch sử đã chứng tỏ, buổi đầu giao tiếp với Trung Hoa,
những vay mượn diễn ra rất chậm chạp và không tự giác. Mãi cho đến gần
cuối thế kỷ thứ VI thì có một sự gia tăng đột ngột trong quá trình du nhập các
yếu tố của văn hóa Trung Hoa vào Nhật Bản. Sự thật này chỉ có thể giải thích
bởi hai lý do:
- Một là: Có thể dân tộc Nhật lúc ấy mới đạt được một trình độ văn hóa
cho phép họ nhận thức ra và có đủ khả năng để tiếp nhận các nhân tố ngoại lai
một cách nhanh chóng và có ý thức.
- Hai là: Mọi giá trị văn hóa, tự nó đều có nhu cầu và khả năng lan tỏa
hay bành trướng, nhất là khi chúng đạt trình độ cao. Trong thời kỳ đó, ở
Trung Hoa, nhà Đường đã tạo ra một chế độ phong kiến đạt đến cực thịnh, vì
vậy khả năng lan tỏa của nó ra xung quanh dễ dàng hơn.
Những tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Hoa lúc đầu
thông qua vai trò của những thương gia, thợ thủ công hay tù binh dưới dạng
hành vi và nhân cách của các cá nhân đó hay qua những vật phẩm hữu hình có
được trong các cuộc trao đổi. Dần dần những kiểu tiếp xúc đó trở nên thứ yếu
và thay bằng cuộc tiếp xúc tôn giáo. Điều cần thấy ở đây là, lúc này Phật giáo
cực thịnh ở Trung Hoa và Phật giáo trở thành công cụ chuyển tải văn hóa
quan thiết nhất từ đại lục sang Nhật Bản.
Sự xâm nhập của Phật giáo vào Nhật Bản cũng vậy, lúc đầu bằng con
đường dân gian. Những ảnh hưởng của Phật giáo lớn dần, gây chấn động đến
cả tầng lớp thống trị. Những chấn động đó đã tạo nên hai xu hướng tư tưởng
chủ yếu trong thị tộc Yamato đến mức gây nên những xung đột giữa nhóm

Nguyễn Thị Minh

9


K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

ủng hộ Phật giáo và phản đối Phật giáo. Sự thắng lợi của nhóm ủng hộ Phật
giáo diễn ra khoảng năm 587 đã mở đường cho sự tiếp nhận nhanh hơn các tư
tưởng của Trung Hoa nói chung và tín ngưỡng Phật giáo nói riêng. Nhờ sự
nâng đỡ của chính quyền, nhiều phái đoàn người Nhật được cử sang đại lục
học hỏi tri thức và ở trong nước Phật giáo được hỗ trợ, trở thành tôn giáo có
vị thế còn lớn hơn cả Shinto.
Như vậy, có thể nói rằng, sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản
không thuần túy chỉ là sự bành trướng văn hóa của người Trung Hoa và nếu
giả định đó là sự bành trướng văn hóa mà thiếu sự nhiệt tình tiếp nhận từ phía
Nhật Bản thì khả năng bén rễ, tồn tại, phát triển của nó sẽ khó khăn hơn
nhiều. Điều này là có cơ sở bởi, một mặt, khi văn minh nhà Đường có dấu
hiệu suy vi thì người Nhật cũng bắt đầu suy nghĩ lại. Đó là sự tái khẳng định
ngày càng mạnh mẽ tinh thần độc lập về văn hóa được biểu hiện qua thái độ
không còn chăm chú học hỏi hay thái độ quá sùng bái đối với mọi yếu tố của
văn minh Trung Hoa. Mặt khác, qua lịch sử nước Nhật ta thấy, dân tộc đó có
sự khôn ngoan đặc biệt trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai. Họ tiếp nhận rất
nhiều yếu tố ngoại lai song vẫn luôn tìm cách giữ gìn, phát triển các nhân tố
bản địa. Bằng chứng là, khi Phật giáo du nhập, có cuộc đấu tranh giữa Thần Phật. Cuộc đấu tranh đó tiếp tục diễn ra trong các thời kỳ và cuối cùng Phật
giáo bị bản địa hóa mặc dù có thời kỳ Phật giáo trở thành trụ cột và chi phối
mạnh mẽ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN
BUỔI ĐẦU DU NHẬP

Theo quy luật của sự tiếp biến văn hóa, khi muốn bắt rễ vào một khu
vực nào đó, các hiện tượng văn hóa ngoại lai phải biến đổi cho phù hợp với
những yêu cầu của bản địa. Quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản
cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Nó đã có nhiều biến đổi đến mức

Nguyễn Thị Minh

10

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

làm cho một số yếu tố của Phật giáo ở Nhật Bản đã có những khác biệt khá
căn bản với Phật giáo, Ấn Độ hay với Phật giáo Trung Hoa. Những biến đổi
đó lúc đầu được tạo nên bởi nền tảng kinh tế - xã hội cũng như những yêu cầu
của cư dân Nhật Bản, của văn hóa Nhật Bản nhưng đến lượt nó, nhiều khi lại
trở thành những định hướng cho sự phát triển của văn hóa Nhật Bản về sau.
Vì lẽ ấy, mặc dù tồn tại trong những điều kiện của một xã hội hiện đại nhưng
văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được những yếu tố như nhân ái, mềm mại của đạo
Phật, cứng nhắc đến tàn nhẫn của võ sĩ đạo, thực dụng như Khổng giáo và
mộng mơ siêu thoát của thiền, tư tưởng trọng lợi ích vật chất và yêu cái đẹp
da diết, một tư duy khoan hòa nhưng lại chứa đầy tính duy lý v.v...
Nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản có thể rút ra
một số đặc điểm chủ yếu như sau:
Một là: So với các nước trong khu vực, thời điểm du nhập Phật giáo
vào Nhật Bản có muộn hơn. Theo các nguồn sử liệu còn lưu lại, khoảng thế

kỷ VI Phật giáo đã từng có mặt ở Nhật Bản. Việc du nhập Phật giáo vào Nhật
Bản chủ yếu từ hai con đường: Trung Quốc và Triều Tiên. Phật giáo có mặt ở
Triều Tiên sớm hơn ở Nhật Bản chừng 150 năm. Sách Phù Tang lược ký cho
biết: "Tháng 2 năm thứ 16 sau khi Kế Thể Thiên Hoàng tức vị (năm thứ 3 niên
hiệu Phổ Tông Vũ Đế nhà Lương, năm 522) một người Hán là Tư Mã Đạt đến
Nhật Bản làm nhà cỏ ở bản Điền Nguyên, quận Cao Thị nước Đại hòa, bày
tượng phật lễ bái" . Cũng theo nguồn sử liệu trên thì vào tháng 10 năm 522
(năm thứ 13 đời Khâm Minh Thiên Hoàng) có Thánh Minh Vương ở nước
Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã sai Cơ Thị Đạt dẫn đầu một đoàn người
đến tặng một pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng và có cờ phướn, kinh luân.
Giới nghiên cứu ở Nhật Bản quen gọi hai con đường du nhập Phật giáo: Tư
truyền và Công truyền để phân biệt Phật giáo được dân gian truyền vào và
chính phủ truyền vào.

Nguyễn Thị Minh

11

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Qua nghiên cứu thời điểm và con đường du nhập Phật giáo vào Nhật
Bản có thể thấy rằng, Phật giáo được du nhập muộn hơn một số nước trong
khu vực, hơn nữa Phật giáo trên con đường truyền bá đã từng bị khúc xạ qua
nhiều nước trung gian vì vậy nó không còn nguyên vẹn như Phật giáo chính
gốc. Điều căn bản hơn là ở chỗ Phật giáo ở Nhật Bản bị chi phối mạnh bởi

các yếu tố tín ngưỡng bản địa vốn đã có truyền thống ở Nhật Bản đó là tục
thờ Kami (biểu tượng thần linh của Shinto). Điều này cũng cho thấy trong
lịch sử tồn tại của Phật giáo ở Nhật Bản luôn có sự giằng co thậm chí là xung
đột trong đời sống tín ngưỡng của cá nhân và trên bình diện xã hội giữa một
bên là Phật và bên kia là Thần. Nếu so sánh với Phật giáo ở Việt Nam ta thấy
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam sớm hơn vào Nhật Bản khoảng 6 thế
kỷ. Ở Việt Nam ngoài con đường du nhập Phật giáo trực tiếp từ phía các cao
tăng Ấn Độ còn có các cao tăng của Trung Hoa. Tuy nhiên các cao tăng của
Trung Hoa khi truyền Phật giáo vào Việt Nam thì tính chất Phật giáo Ấn Độ
cũng rõ rệt hơn. Mặt khác, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường
dân gian nên sự xung đột giữa nó và tín ngưỡng bản địa ít quyết liệt. Có thể
nói, nó được du nhập một cách tương đối hòa bình.
Thứ hai: Phật giáo du nhập vào Nhật Bản trong bối cảnh người Nhật đã
có một truyền thống tín ngưỡng khá vững chắc: tín ngưỡng về Thần (Kami).
Kami là đối tượng của sự thờ cúng trong Shinto đã tồn tại từ thời cổ đại. "Đây
là những thực thể mờ ảo, tồn tại không hình dạng, thiếu hẳn tính người và
giống với sự biểu hiện quyền lực lạnh lùng. Tất cả được coi như là cao hơn ở
bên trên con người bằng kiến thức và quyền lực, giữa những quyền lực đời sống
và nằm ngoài sự kiểm soát của con người" [2; 183]. Kami có nhiều loại
nhưng tựu trung có 4 đặc điểm chung:
- Kami không có hình dạng riêng nhưng có thể được mời gọi đến với
những hình thức mời thích hợp.

Nguyễn Thị Minh

12

K34B – CN Lịch sử



Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Kami là thực thể trừu tượng, có thể mang phúc hay chuốc họa cho con
người tùy thuộc vào thái độ đối xử của con người đối với Kami.
- Kami có thế giới riêng nhưng vẫn có thể viếng thăm thế giới loài
người và sử dụng vào những mục đích của họ.
- Kami là thế lực ban phát cho con người những lợi ích vật chất mà
không đại diện cho một thứ chân lý tối hậu.
Nhìn chung những đặc trưng của Kami về thực chất, Shinto có những
khác biệt căn bản với Phật đạo. Điểm căn bản nhất là ở chỗ, Kami là trừu
tượng trong khi Phật là cụ thể. Tôn sùng, thờ cúng Kami sẽ được đền đáp
trong khi Phật chủ trương chính con người tự chịu trách nhiệm về kết quả của
hành động của bản thân mà không trông chờ bất kỳ một sự ban phát nào nhất
là trong quan niệm của Phật giáo nguyên thủy. Kami là thế lực ban phát trong
khi Phật đại diện cho chân lý tối hậu, Shinto không đủ và được một hệ thống
các giá trị đạo đức được xem là chân lý. Vì những lẽ trên nên ở buổi đầu du
nhập, Shinto và Phật giáo luôn chứng tỏ những sự xung khắc và sự xung khắc
đó kéo dài cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, mặc dù
xung khắc nhưng Phật giáo đã góp phần bổ sung, bù đắp cho những lỗ hổng
về nhận thức mà Shinto không thể có, do đó xuất hiện xu hướng hỗn dung,
vay mượn lẫn nhau giữa Thần và Phật là một thực tế trong đời sống tín
ngưỡng của người Nhật Bản. Bách khoa toàn thư Nhật Bản khẳng định: "Đạo
Phật đã cung cấp cho người Nhật toàn bộ khái niệm về đạo đức... Đạo Phật đã
đưa đến cho văn hóa Nhật Bản những từ về lòng thương xót, anh minh, lòng từ
bi, lòng nhân ái..." [2; 191]. So sánh vấn đề này với bối cảnh Phật giáo du
nhập vào Việt Nam, ta thấy cả hai cuộc du nhập đó có những tương đồng
nhưng cũng có nhiều dị biệt. Sự tương đồng thể hiện ở chỗ, Phật giáo là một
tôn giáo ngoại lai nên tất yếu phải có những phản ứng từ phía bản địa. Thêm

nữa cả Việt Nam và Nhật Bản đều là những quốc gia nông nghiệp và tín

Nguyễn Thị Minh

13

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

ngưỡng bản địa đều có những khiếm khuyết cần phải được bổ sung. Ngoài
những tương đồng trên những dị biệt sau đây là căn bản:
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam trong bối cảnh đất nước bị đô hộ còn
ở Nhật Bản thì nội chiến lại liên tục.
- Ở Việt Nam, Phật giáo vào sớm hơn nhưng phải 1000 năm sau kể từ
thời Đinh - Lê nó mới được phát huy tác dụng, còn ở Nhật Bản tuy được du
nhập muộn hơn nhưng nó lại có quá trình phát triển liên tục.
- Các tôn giáo ngoại nhập muốn bắt rễ vào một khu vực nào đó không
thể không dựa vào tôn giáo truyền thống nhưng vì trong giai đoạn đó, Shinto
đã là một tôn giáo phổ biến của người dân lại có nhiều dị biệt với Phật giáo
nên sự du nhập diễn ra khó khăn hơn.
Chính những dị biệt đó làm cho sự du nhập của Phật giáo vào Nhật
Bản có phần khó khăn và sự đụng độ của nó với Shinto thêm phần quyết liệt.
Thứ ba: Trong bối cảnh về văn hóa, tín ngưỡng của Nhật Bản, Phật
giáo muốn bắt rễ phải tự biến đổi mà nhiều biến đổi đã trở nên khác lạ so với
Phật giáo chính gốc.
Trước hết, muốn bắt rễ, Phật giáo không thể du nhập bằng hệ thống lý

luận trừu tượng mà phải là dưới hình thức nào đó của ma thuật, về những lời
hứa sẽ bảo vệ toàn bộ xứ sở, về sự sẵn sàng cứu giúp của các Bồ tát. Do đó
một điều tự nhiên là trong hai thế kỷ tôn giáo mới này được hiểu một cách
đơn thuần như một phương tiện có hiệu quả giúp tạo ra những ân huệ trần tục
mà chúng sinh luôn luôn tìm kiếm, mong đợi từ những vị thần trong Shinto.
Cũng vì tính chất đó mà triều đình nhanh chóng chấp nhận Phật giáo vì nó
mang lại mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh sôi và khuyến khích cho sự giàu có
của đất nước. Để đi vào lòng người thuộc mọi đối tượng, Phật giáo ở Nhật
Bản luôn chủ trương hai khuynh hướng: Khuynh hướng thứ nhất, đối với dân
chúng chiếm số đông, nó thường xuyên cung cấp những dịch vụ thiết thân

Nguyễn Thị Minh

14

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

như chữa bệnh hay là tìm ra đôi lứa hợp nhau... hoặc chăm sóc người chết, vỗ
về người sống bằng các nghi lễ cầu hồn nhằm tạo sự an tâm về sự quấy rối
của linh hồn khi có người chết. Khuynh hướng thứ hai, phục vụ những người
coi thế giới này là ảo và chất đầy sự đau khổ. Với loại người này Phật giáo
cung cấp cho họ phương tiện để làm thay đổi nhận thức - tập Thiền. Có thể
nói, vì tập tục thờ thần cũ, cho nên Phật giáo Nhật Bản thời kỳ đầu đặc biệt
coi trọng việc cầu mong công đức. Các sử gia gọi đây là: Phật giáo cầu mong;
họ không tha thiết tìm hiểu kinh nghĩa mà chỉ mong mượn chú nguyện để kéo

dài tuổi thọ, trừ tai, chữa bệnh, cầu mưa, giữ nước. Họ vẫn lễ Phật với tâm lý
cầu thần, cầu xin đời sống hiện thực được bình yên như ý.
Qua đây có thể thấy rằng Phật giáo ở Nhật Bản rất đậm tính thực dụng
và có màu sắc nhập thế khá gần gũi với tính chất của Phật giáo ở Việt Nam.
Thứ tư: Phật giáo vào Nhật Bản trong điều kiện xã hội đang ở giai đoạn
xã hội thị tộc, mỗi thị tộc chỉ thờ thần của thị tộc mình. Bởi vậy đối với thờ
cúng của Shinto hết sức đa dạng. Có những thần ngự trong các đối tượng tự
nhiên như cây cối, núi non, mặt trời, nhưng cũng có những vị thần phụ trách
một số nghề thủ công chuyên ban phát năng lực cho những ngư dân hay
những thợ săn... có những vị thần còn sống như những chuyên gia về tôn giáo
hay những người bằng sự rèn luyện khổ hạnh đã đạt đến khả năng hòa nhập
và hóa thân thành các Kami. Có những vị thần bảo hộ cho cá nhân, gia đình,
dòng tộc nhưng cũng có những Kami có khả năng sáng tạo ra các hòn đảo hay
bảo hộ cho Hoàng gia. Lại nữa. có những Kami khi được thờ cúng có khả
năng thay đổi tính chất, từ thần phá phách trở thành thần có ích sẵn sàng giúp
đỡ nhân loại...
Rõ ràng, sự đa dạng của các Kami là sự biểu hiện của lối tư duy phong
phú khá phổ biến của người phương Đông. Cố nhiên khi đối tượng thờ cúng
đa dạng, hỗn tạp thì niềm tin cũng đa dạng và hỗn tạp. Tình hình này là sự

Nguyễn Thị Minh

15

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2


phản ánh thực tế phân biệt giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản, nó không tạo
cơ sở tinh thần cho sự thống nhất của quốc gia. Trong bối cảnh đó, Phật giáo du
nhập nhanh chóng được Hoàng gia và người dân chấp nhận. Sự kiện vĩ đại này
đã tạo ra cơ sở cho sự thống nhất về đức tin và từ sự thống nhất về đức tin đã
tạo điều kiện cho sự thống nhất về quốc gia. Vì lẽ ấy, các Tenno của Nhật
Bản không chỉ là lãnh tụ về chính trị mà còn là lãnh tụ về tôn giáo. Nơi ở của
Tenno cũng là nơi ở của thần linh và chỉ sau năm 1945 khi nước Nhật bại trận
thì Tenno mới trở lại tư cách như con người.
Đề cập đến một vài đặc điểm của Phật giáo ở Nhật Bản buổi đầu du
nhập như trên, chúng tôi muốn so sánh với quá trình du nhập của Phật giáo
vào Việt Nam. Điều dễ nhận thấy là, cũng xuất phát từ Phật giáo, song khi
vào Nhật Bản, vào Việt Nam... thì đã có những khác biệt. Nếu như ở Nhật
Bản, Phật giáo được tiếp nhận để phục vụ cho lợi ích thực dụng của người
dân, phục vụ cho sự thống nhất quốc gia và được chấp nhận từ phía thế lực
cầm quyền thì ở Việt Nam Phật giáo chủ yếu được tiếp nhận bằng con đường
dân gian. Vì lẽ ấy, tính nhập thế của Phật giáo ở Nhật Bản rõ hơn tính nhập
thế của Phật giáo ở Việt Nam. Người Nhật Bản tiếp nhận Phật giáo không chỉ
nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần mà còn tìm được sự thỏa mãn những nhu
cầu thực tế như chữa bệnh, học hành hay chí ít cũng là tìm được sự phù hợp
cho hạnh phúc đôi lứa...
Phật giáo ở Nhật Bản được tiếp nhận trên nền tảng Shinto - một tín
ngưỡng không chỉ có tính thực dụng cho người dân mà còn có tính thực dụng
cho giới cầm quyền nên có sự hỗn dung Thần - Phật, trong đó yếu tố trội là
Thần.
Người Việt Nam chấp nhận Phật giáo trên nền tảng tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên (tất nhiên có cả thờ thần tự nhiên), do đó tính quyền lực ở phương
diện chính trị có phần ít đậm đặc. Vì vậy, người Nhật cũng trọng chữ "trung"

Nguyễn Thị Minh


16

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nhưng là trung với thủ lĩnh còn Việt Nam cũng trọng chữ "trung" nhưng là
trung với vua, với tổ quốc. Từ suy nghĩ như vậy, chúng tôi đồng tình với tác
giả bài Nghĩ về cấu trúc văn hóa Nhật Bản, đã viết:
Quá trình nhập ngoại của người Nhật bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn:
sau một thời kỳ làm thợ (bắt chước) là thời kỳ làm thầy (cải tiến). Sự phát triển
rực rỡ của Shinto Nhật Bản là một minh chứng. Bởi vậy, càng tiếp thu những
yếu tố ngoại sinh, thì bản sắc văn hóa Nhật càng óng chuốt và nổi thêm sâu sắc
[43; 506-507].
1.3.QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN TRƢỚC
THỜI KỲ KAMAKURA
Kể từ khi du nhập đến trước thời kỳ Kamakura, Phật giáo ở Nhật Bản
đã trải qua 3 thời kỳ:
1.3.1. Phật giáo thời kỳ Asuka (300 - 710)
Phật giáo bắt đầu được truyền vào Nhật Bản dưới thời Kế Thể Thiên
Hoàng (507 - 531) nhưng mãi đến thời Thái Tử Shotoku (thế kỷ VI) mới được
truyền bá công khai nên có thể xét Phật giáo sơ kỳ bắt đầu từ thời kỳ này. Nhiều
học giả thống nhất năm Phật giáo truyền vào Nhật Bản là 538 [58; 3].
Khoảng hai đến ba tông phái được truyền vào Nhật thời kỳ này:
- Tông Sanron (Tam luận tông)
Đây là tông phái do vị sa môn nước Triều Tiên tên là Huệ Quan du

nhập vào Nhật Bản năm 33 đời Suiko Tenno (Suy Cổ Thiên Hoàng). Huệ
Quan trụ trì ở chùa Nguyên Hương. Dưới trướng của Huệ Quan có nhiều đệ
tử tài giỏi như Phúc Long, Trí Tạng, Đạo Tử...
Giáo lý chủ yếu của Tông Sanron nằm trong ba bộ luận của Bồ tát
Long Thọ (những âm Hán - Việt chưa tra cứu chính xác xin được giữ nguyên
phiên âm trong luận văn) mà nổi tiếng nhất là Trung quán luận. Trung quán
luận là bộ sách luận về tương quan giữa các bề ngăn và thực tướng vạn vật mà

Nguyễn Thị Minh

17

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

kết luận được rút ra là mọi hiện tượng (vạn pháp) là hư, huyền và không tồn
tại biệt lập. Ngược lại, chúng tồn tại trong mối "tương quan", "tương duyên" với
nhau.
Vì tập tục thờ thần cũ, nên Phật giáo thời kỳ này đặc biệt coi trọng việc
cầu mong công đức với hình thức lễ Phật nhưng cầu thần. Tư tưởng Jodo (Tịnh
độ) của Phật giáo được người Nhật chấp nhận thay đổi cho tư tưởng huyệt mộ.
Đối với người Nhật Bản, Jodo tức là sự thăng hoa của thế giới huyệt mộ, do đó
người ta cầu minh phúc bằng cách xây chùa Phật thay cho xây mộ.
Năm 645 sau khi chiếu thư đầu tiên về phát triển Phật giáo được ban
bố, Phật giáo nhanh chóng phát triển. Đến cuối thế kỷ VII cả nước đã có trên
540 ngôi chùa.

- Tông Hosso (Pháp Tướng tông)
Phái này truyền vào Nhật Bản do công của Dosho (Đạo Chiêu) khoảng
năm 650. Theo cuốn Lịch sử Phật giáo thế giới thì dưới trướng của Dosho có
đến 3.000 đệ tử, 70 hiền sĩ. Ngoài việc đạo, sự nghiệp của Dosho còn được
ghi nhận như là người tích cực tham gia công ích xã hội, giúp dân đào giếng,
đặt thuyền, bắc cầu...
Giáo lý chủ yếu của Hosso tông dựa trên bộ luận gọi là "Thành dung
thức luận" của Bồ Tát Thế Thân. Hosso tông chủ trương duy chỉ có các
"Thức", các tư tưởng trong tâm là thật. Nó chứa tất cả vào trong nó. Vạn vật
mà ta nhận thấy đều là sự phát luận của nó, cho nên đều là mộng ảo. Tóm lại,
vạn vật do thức biểu hiện mà thành. Do đó khi tâm thức tịnh tĩnh, vắng lặng
thì đồng nghĩa với chân lý.
1.3.2. Phật giáo thời kỳ Nara (Nại Lƣơng) (710 - 794)
Sau những cuộc đấu tranh quyết liệt giữa Shinto và Phật giáo, được sự
hậu thuẫn của tập đoàn do Soganoiname (Tô Ngũ Đạo Mục) và sau đó là Thái
tử Thánh Đức (Shotoku Taishi), Phật giáo bắt đầu thắng thế.

Nguyễn Thị Minh

18

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Trong thời kỳ Nara, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và khá đa dạng. Lúc
này ở Nhật có 6 tông phái Phật giáo chủ yếu bao gồm (kể cả hai tông Hosso

và Sanron):
- Tông Jojitsu (Thánh đức tông).
- Tông Kusha (Câu xá tông).
- Tông Ritsu (Luật tông).
- Tông Kegon (Hoa Nghiêm tông).
- Tông Sanron
Trong thời kỳ Nara, Tông Sanron - một tông phái đã tồn tại từ trước - có
phần suy yếu, nhất là vào cuối thời Nara. Sự suy yếu này có lẽ, một là do
những luận lý trừu tượng, khó hiểu của nó và hai là, do tâm lý người Nhật ưa
thực dụng và ba là, do lý luận của nó khá khác biệt với tín ngưỡng bản địa
vốn rất coi trọng những điều thực tế.
- Tông Hosso
Trong thời Nara, Hosso tông là tông phái thịnh trị nhất. Nó góp phần
không chỉ tạo ra đông đảo những học giả hiền tài mà còn có ảnh hưởng mạnh
mẽ về giáo nghĩa đối với Phật giáo ở Nhật Bản.
- Tông Jojitsu
Là tông phái được du nhập vào Nhật Bản từ Triều Tiên tồn tại dưới thời
Nara. Tên của tông phái là lấy theo tên bộ kinh "Thành thực luận". Ở Nhật
Bản tông này không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào tông Sanron và số
lượng tín đồ quá ít ỏi.
Jojitsu tông được du nhập khoảng đầu thế kỷ thứ VII bởi nhà sư Triều
Tiên là: Kiếc Tạng (Ekwan) và Khuyếc Lặc (Kwanro Ku).
Giáo nghĩa của Jojitsu tông cho rằng, bản ngã và vạn pháp là hư vô.
Đời sống của con người là những chuỗi liên tiếp các hiện tượng luân chuyển
nhanh chóng đầy tính giả tạm. Nếu con người nhận ra tính giả tạm và hư vô

Nguyễn Thị Minh

19


K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đó (vạn vật đều giả dối như bọt nước trên dòng sông, đều trống rỗng như xác
con ve) thì sẽ dứt bỏ được phiền não và đạt đến sự tịch tĩnh.
- Tông Kusha
Cho đến nay, các nguồn tài liệu không cho phép đưa ra một kết luận về
thời điểm Kusha tông được du nhập vào Nhật Bản.
Giáo lý của Kusha tông (kho tàng của phép siêu hình) dựa trên một bộ
luận nổi tiếng của nhà sư Vanshubac dhu là bộ "Abidharma-kasa-sastra".
Giáo lý chủ yếu của Kusha tông chủ trương "Pháp thể hữu vô không
sinh diệt" (Pháp có mặc dù những sự vật cá thể là ảo ảnh).
- Tông Kegon
Kegon tông được truyền vào Nhật Bản vào năm 736 đời Thánh Vũ
Thiên Hoàng do vị tăng người Trung Quốc là Đạo Duệ mang vào và tăng
Roben (Lương Biện), Shinjo (Thẩm Tường) hoằng pháp lấy chùa Todaiji
(Đông Đại) trụ trì.
Giáo lý của Kegon tông dựa trên căn bản của bộ hình Hoa Nghiêm.
Kegon tông cho rằng, tư tưởng của Đức Phật và lời lành của ông rọi chiếu vạn
vật. Vạn vật ở thế đều liên hệ và tiếp ứng cho nhau, đồng soi sáng cho nhau. Phật
và chúng sinh đồng một tính - tính Phật và cõi Châu như Phật quyết đưa về cõi
Giác tất cả chúng sinh. Bao giờ còn một mạng phải vớt thì lòng Phật chưa
yên. Những bậc sáng suốt phải thấu rằng, cõi đời chẳng thật, song cái thật và
không thật cùng bản tính như nhau, cho nên đắc được cảnh tự nhiên ắt sẽ đắc
đạo. Vì vậy ở Nhật, Kegon tông có địa vị là tôn giáo của đế vương.
- Tông Ritsu

Ritsu tông là tông phái do nhà sư đời Đường là Gián Châu mang vào
Nhật Bản. Ông là người huyện Giang Dương đất Dương Châu. Năm 55 tuổi
có ý nguyện đi Nhật và sau 6 lần trải 11 năm mới toại nguyện.

Nguyễn Thị Minh

20

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Đến đất Nhật, Gián Châu được tất thảy mọi người trong thành ngoài
nội đặc biệt sùng ngưỡng và nghênh tiếp, được Thánh Vũ Thiên Hoàng tặng
Truyền Đăng đại pháp sư. Ông đã trực tiếp thọ giới cho Tenno, Hoàng hậu,
Hoàng Thái tử và 500 người khác.
Giáo lý của Ritsu tông thừa nhận, muốn giải thoát không cần học thuộc
kinh vài quyển mà chỉ giữ tròn giới luật. Nhờ giữ giới, "trì luật" nên sinh
"định". Nhờ có Định mà phát Huệ.
Qua sự du nhập và tồn tại của 6 tông phật giáo ở Nhật thời Nara, ta
thấy các tông đó không được truyền vào Nhật theo thứ tự như nơi chúng được
sinh ra mà tùy thuộc vào sự tiếp xúc của Nhật Bản với láng giềng Trung Hoa,
Triều Tiên.
Mặc dù có những dị biệt ở các tông phái đó đều phản ánh sự khao khát
hướng tìm bản chất của vũ trụ và để hướng đến nhận thức bản chất đó phải
giải phóng tư duy khỏi mê chướng bởi ảo ảnh của giác quan. Thêm vào đó
chúng đều hướng con người tới những hoàn thiện mà trước hết về đạo lý làm

người.
Trong thời Nara, có thể nói, Phật giáo có phần phát triển nhanh hơn ở
Trung Quốc và Triều Tiên cũng thời kỳ. Sự tồn tại của nó mang lại cho người
Nhật nhiều lợi ích nhất là lợi ích tinh thần. Tuy nhiên, cũng để lại những hậu
quả xấu (sẽ bàn ở phần kết)
1.3.3. Phật giáo thời kỳ Heian (Bình An) (794 - 1185)
Vào cuối thời kỳ Nara, Nhật Bản diễn ra tình trạng rối loạn về xã hội,
đồi bại về chính trị do sự tranh giành quyền lực trong tầng lớp cầm quyền.
Trong nội bộ Phật giáo, thói hư tật xấu ở tăng ni cũng tràn lan. Lý do
cơ bản là, sau thời kỳ phát triển mạnh nhờ sự nâng đỡ của chính quyền, nhiều
tăng ni đã biến chất trở thành những kẻ mượn cửa chùa để làm việc phàm

Nguyễn Thị Minh

21

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

phu, ăn chơi, hưởng lạc. Nhiều kẻ có dã tâm ngoài đời, vì chuộng sự nhàn tản
và sung sướng nên cũng khoác áo sa môn.
Trước tình hình đó vào năm thứ 13 niên hiệu Diên Lịch (794 theo Công
lịch) Hoàn Vũ Thiên Hoàng đã quyết định dời đô tới Heian (Kyoto ngày nay)
với mục đích chấn chỉnh kỷ cương, thống nhất dân tâm, đổi mới phong khí.
Ngoài những lý do trên, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, sở dĩ
Tenno phải thiên di kinh đô tới Heian còn vì để tránh những áp lực của các

dòng họ giàu có, cũng như áp lực ngày càng gia tăng của giới tăng lữ phật
giáo. Vì lẽ ấy, trước đây khi thiên di kinh đô, các chùa viện Phật giáo cũng
dời đi theo nhưng nay theo chỉ của Tenno, toàn bộ chùa viện vẫn ở chỗ cũ.
Duy chỉ có vài chùa viện được xây dựng nhằm tạo bộ mặt cho kinh đô mới.
Trong tình hình đó, Phật giáo xuất hiện thêm hai tông phái với hai gương mặt
đại diện. Đó là tông Tendai (Thiên Thai) với sư tổ Saicho (Tối Trừng) và
Shingon (Chân ngôn tông) với sư tổ Kukai (Không Hải).
- Tông Tendai
Là tông phái được thành lập ở Trung Hoa bởi Trì Khải Đại sư tại núi
tông Tendai vào thế kỷ thứ VI. Tông phái này tồn tại ở Nhật Bản gắn với tên
tuổi Saicho. Ông là người đã từng tu ở chùa Heian, Todaiji nhưng vì bất mãn
với hiện trạng Phật giáo chỉ chạy theo hư danh mà phát tâm kim cương thề
nguyền không thoái không hoại, lên núi Hiyei (Tỳ Duệ), vào rừng ở ẩn để tịnh
tâm, dứt tuyệt thị dục.
Thời đó, ở Nhật dù có kinh điển Thiên Thai do Gián Châu mang đến
nhưng không phát triển. Năm thứ 23 niên hiệu Diên Lịch (804 công lịch),
phụng chiếu Tenno, Saicho sang Trung Quốc học đạo.
Tháng 5 niên hiệu Diên Lịch thứ 24 (805 công lịch) Saicho về Nhật.
Năm sau xin lập tông Tendai. Từ lúc tông Tendai ra đời, lập tức chịu sự phản
bác mạnh mẽ của sáu tông phái đã tồn tại trước ở Nara. Theo Saicho, Phật

Nguyễn Thị Minh

22

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

giáo thời đó chủ yếu là Phật giáo đô thị, sa vào lợi danh và Phật giáo Tendai
tông lại chủ trương xây dựng Phật giáo núi rừng, coi nhẹ lợi danh. Ông từng
nói: "Trong cơm áo không có đạo tâm, trong đạo tâm có cơm áo".
Giáo lý cơ bản của tông Tendai dựa căn bản trên bộ Diệu pháp liên hoa
kinh với chủ trương vạn vật đều có Phật tính, đều có thể thành Phật.
Khi Saicho vào học đạo ở Trung Hoa, ông đã tiếp nhận tư tưởng căn
bản trên của tông Tendai. Tuy nhiên, ông còn lĩnh hội nhiều tư tưởng khác
của Zen (Thiền tông), Ritsu tông và Mật tông. Điều đặc biệt đáng nói ở đây là
chỗ, ở Nhật Bản dường như tín ngưỡng Phật giáo ít nhiều được cộng sinh bởi
các yếu tố Mật tông. Có thể giải thích điều này bởi hai lý do, một là do sự chi
phối của tín ngưỡng Shinto, một thứ tín ngưỡng bản địa chủ trương thờ Kami
để được ban phúc, tránh họa; hai là do tâm lý người Nhật ưa chuộng thực
chất, ít quan tâm đến lễ siêu hình. Vì lẽ ấy, các tôn giáo muốn được người ta
tin theo phải tạo ra những công dụng thực tế. Phật giáo ở Nhật Bản cũng vậy,
ngoài việc tham gia các hoạt động từ thiện như nuôi dạy trẻ mồ côi, mở cơ sở
chữa bệnh... nó còn phải giúp con người tránh được ma tà và cao hơn nữa, chi
phối được sức mạnh siêu hình để phục vụ dân sinh nhất là trong điều kiện dân
trí còn thấp, khoa học kỹ thuật chưa phát triển. Hơn nữa, các thế lực cầm
quyền cũng rất muốn lợi dụng các yếu tố của mật giáo với mục đích làm tăng
tính thiêng liêng của quyền lực. Chẳng hạn Tenno có thể cùng sư tăng tham
gia cầu đảo để gọi mưa chống hạn hay trừ tiêu bệnh tật...
- Tông Shingon
Trong thời kỳ Heian, ngoài sự hưng thịnh của Tendai tông, ở Nhật Bản
còn tồn tại tông Shingon mà tên tuổi gắn liền với vị đại sư Kukai.
Kukai sinh vào năm thứ 5 niên hiệu Bảo Qui (năm 774 theo công lịch).
Lúc nhỏ theo học đạo Khổng nhưng không thỏa mãn. Sau đó phát tâm nguyện
Bồ Đề, qui y Tam bảo.


Nguyễn Thị Minh

23

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Sau khi học đạo ở Trung Hoa trở về vào năm thứ 13 niên hiệu Hoàng
Nhân (năm 822 theo công lịch) lập Viện Shingon ở chùa Todaiji. Ông đã từng
giảng kinh Nhật kinh sớ, làm lễ cầu khấn cho thánh thể Tenno yên ổn và quốc
gia đại thịnh. Vào năm 823 được ban cho chùa Todaiji làm đạo trưởng của
Shingon tông. Trong cuộc đời của mình, Kukai đã viết nhiều sách. Nổi tiếng
là sách Tam giáo chỉ quy bàn về lẽ hay dở của tam đạo: Nho, Phật, Lão. Sách
Thập tục tâm luận bàn về sở đắc của Shingon tông.
Nhìn chung Shingon tông của Kukai đưa vào Nhật Bản là dựa trên căn
bản của Shingon tông được sáng lập ở Trung Quốc vào năm 719 bởi Kim
Cang Trí (Vajraboddhi) một nhà sư Ấn Độ. Kinh nghĩa chủ yếu của Shingon
tông là Đại nhật kinh, Kim cang đỉnh kinh...
Giáo nghĩa chủ yếu của tông Shingon thừa nhận có những bí mật,
huyền diệu trong vũ trụ. Thông qua châm ngôn (những lời nói linh diệu - thần
chú, những hành vi huyền diệu - bất ấn, những nghi lễ linh thương - bùa
chú...) để tác động đến những huyền diệu.
Thời Heian, Shingon tông phát triển mạnh và được chia thành hai bộ:
giác tướng và sự tướng. Giác tướng thuộc về giáo lý, sự tướng là cách làm
(hành pháp). Mặc dù tông Tendai cùng tồn tại nhưng (như đã nói rõ ở trên)
Shingon tông có ưu thế hơn và Tendai tông cũng mang nặng các yếu tố Mật

tông (Thai Mật).
Trong thời kỳ này, bên cạnh đông đảo tín đồ sùng bái Phật giáo, trong
cung đình đã hình thành một thứ Phật giáo mà sử sách gọi là Phật giáo quý
tộc. Lý do là ở chỗ, Phật giáo có quan hệ mật thiết với Hoàng thất (có đến 15
Tenno trong tổng số 19 Tenno cắt tóc đi tu). Nhờ những quan hệ đặc biệt ấy,
Phật giáo được nâng đỡ, phát triển mạnh cả về tín đồ và chùa viện. Người
Hoàng thất coi đi tu là cao quý. Tăng lữ xuất gia có giá trị và được đãi ngộ
như tầng lớp quý tộc.

Nguyễn Thị Minh

24

K34B – CN Lịch sử


Khoá luận tốt nghiệp Đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Động cơ xuất gia của giới quý tộc lúc đầu cũng chỉ là vì tín ngưỡng
nhưng sau đó có sự thoái hóa. Họ được hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi, trở
nên giàu có và có quyền lực. Họ được bổ nhiệm những trọng trách trong giới
tôn giáo. Vì lẽ ấy cuộc sống của giới xuất gia càng ngày càng sa đọa. Đạo lúc
này chỉ là cái cớ để giới xuất gia hưởng lạc thú trần tục.
Sự sa sút phẩm hạnh của giới quý tộc và giới xuất gia vào nửa cuối thời
kỳ Heian đã làm xuất hiện một tầng lớp mới: Võ quan, sự xuất hiện của võ
quan đã đẩy Nhật vào thời kỳ đạo đời rối loạn, trị an thấp kém. Các chùa viện,
do những tác động của nhiều nhân tố, để tự vệ, đã tự vũ trang và diễn ra
những xung đột ác liệt giữa các chùa.

- Tông Jodo
Từ giữa thời kỳ Heian, trong cảnh xã hội rối loạn, cuộc đời lắm chướng
ngại nên dân gian xuất hiện nhu cầu muốn hướng tới một thế giới đẹp đẽ.
Trong tình hình đó, tín ngưỡng A Di Đà dần được coi trọng và được tín
ngưỡng hóa trong nhân gian sau khi tăng Không Dã xuất hiện.
Giáo lý Jodo tông cho rằng cái tâm là căn bản, sự học chỉ là phương
tiện. Vì vậy phải tin vào đức A Di Đà vì khi đã tin vào Ngài sẽ được an cư lạc
nghiệp và khi chết sẽ được vãng sanh ở chốn Tây phương cực lạc; Người tu
theo Jodo, bất phân sang hèn, bất phân trình độ, dòng dõi... đều bình đẳng
trước Phật A Di Đà. Họ chỉ cần dốc tâm niệm Phật, tâm niệm về nơi tịch thổ
thì khi chết không phải lặn ngụp trong cõi Ta Bà khổ não.
Có thể nói, trong thời Heian, Phật giáo ở Nhật Bản có sự phát triển
mạnh mẽ. Ngoài 6 tông phái đã có từ thời Nara nay xuất hiện thêm nhiều tông
phái khác. Sự phát triển của Phật giáo sở dĩ có được như thế bởi một mặt, có
sự nâng đỡ từ phía các tập đoàn cầm quyền do nó đã đáp ứng lợi ích cá nhân
của những kẻ quý tộc muốn tiến thân và mặt khác tạo dựng được chỗ tựa về
tư tưởng cho chính các Tenno. Cũng thông qua Phật giáo, những văn minh

Nguyễn Thị Minh

25

K34B – CN Lịch sử


×