Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

SỰ BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 170 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƢƠNG THỊ PHƢƠNG THẢO

SỰ BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC DƢỚI TÁC ĐỘNG
CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRƢƠNG THỊ PHƢƠNG THẢO

SỰ BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC DƢỚI TÁC ĐỘNG
CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

: 92 29002

Người hướng dẫn khoa học:


1. PGS,TS TRẦN SỸ PHÁN
2. PGS,TS TRẦN VIẾT QUANG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được ai công bố trong bất cứ cơng trình nào.
Tác giả

Trƣơng Thị Phƣơng Thảo


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công vụ, đạo đức công vụ
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến kinh tế thị trường và thực trạng
biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức dưới tác động
của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
1.3. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp ngăn ngừa
sự biến đổi tiêu cực đạo đức công vụ của công chức nước ta dưới

tác động của kinh tế thị trường
1.4. Khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và
những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Chƣơng 2: SỰ BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG
CHỨC DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Khái quát về công chức, công vụ, đạo đức công vụ
2.2. Kinh tế thị trường và sự biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ
công chức Việt Nam dưới tác động của kinh tế thị trường
Chƣơng 3: SỰ BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG
CHỨC DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng biến đổi đạo đức công vụ của công chức dưới tác động
của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
3.2. Một số vấn đề đặt ra từ sự biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công
chức dưới tác động của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NGĂN NGỪA SỰ BIẾN ĐỔI
TIÊU CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC DƢỚI
TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
4.2. Chống chủ nghĩa cá nhân và lối sống thực dụng
4.3. Chống quan liêu, tham nhũng
4.4. Tăng cường kiểm sốt quyền lực
4.5. Tăng cường cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
cho đội ngũ cơng chức nước ta hiện nay
4.6. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người cán bộ, công
chức trong khắc phục sự biến đổi tiêu cực đạo đức công vụ của

đội ngũ công chức dưới tác động của kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4

5
5
13
21
24
27
27
52
78
78
105
115
115
119
126
131
139

146
154



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH

Cơng nghiệp hóa

CNH, HĐH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

KTTT

Kinh tế thị trường

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

5



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề công chức, công vụ, đạo đức công
vụ hay kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Nhiều cơng trình khoa học đã
công bố, nhiều cuộc hội thảo liên quan đến các vấn đề trên đã được tổ chức.
Khơng ít các văn bản của Đảng, của Nhà nước liên quan đến các chủ đề trên
đã được ban hành và đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một
cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống sự biến đổi đạo đức
công vụ của đội ngũ công chức dưới tác động của kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay.
Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ tập trung quan liêu, bao
cấp sang cơ chế thị trường ở Việt Nam đã tác động đến nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, trong đó có đạo đức xã hội nói chung, đạo đức cơng
vụ của người cơng chức nói riêng. Sự tác động này tuân theo quy luật tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, quy luật kế thừa trong sự phát triển đạo đức.v.v..
Nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là nền kinh tế vận hành theo
các quy luật của mơ hình kinh tế thị trường như: quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.v.v., vừa được dẫn dắt và
chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Trên thực tế, nền kinh tế thị trường của chúng ta vẫn đang trong q
trình hồn thiện, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách; trình độ phát
triển của các loại thị trường còn thấp; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm.v.v. Tất cả những điều này đang
có sự tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung, sự biến đổi
đạo đức công vụ của một bộ phận công chức nói riêng.


1


Đứng trước thực tế đó, nghiên cứu thực trạng biến đổi đạo đức công vụ
của độ ngũ công chức nước ta hiện nay, tìm giải pháp cơ bản để hạn chế sự
biến đổi tiêu cực hướng tới xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiện đại,
chuyên nghiệp, năng động phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
với đội ngũ cơng chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức
trong sáng, có trình độ năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu giai
đoạn mới...là công việc hết sức cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề "Sự biến đổi đạo đức
công vụ của đội ngũ công chức dưới tác động của kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sỹ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn biến đổi đạo
đức công vụ của công chức nước ta hiện nay, luận án đề xuất các giải pháp cơ
bản nhằm ngăn ngừa sự biến đổi tiêu cực của đạo đức công vụ ở một bộ phận
công chức dưới tác động của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, tổng quan những nghiên cứu có liên quan đến đạo đức công
vụ, kinh tế thị trường, sự biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức
dưới tác động của kinh tế thị trường, giải pháp ngăn ngừa sự biến đổi tiêu cực
của đạo đức công vụ ở đội ngũ công chức dưới tác động của kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công chức, công vụ, đạo
đức công vụ, kinh tế thị trường, sự biến đổi của đạo đức công vụ dưới sự tác
động của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, phân tích thực trạng biến đổi đạo đức cơng vụ của công chức

dưới tác động của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa sự biến đổi
tiêu cực của đạo đức công vụ của công chức dưới tác động của kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.

2


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự biến đổi đạo đức công vụ
của đội ngũ công chức dưới tác động của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về không gian: trên phạm vi cả nước.
Giới hạn về thời gian: từ năm 1986 đến nay, tức là từ khi đất nước ta
tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
đạo đức, đạo đức công vụ, giáo dục đạo đức công vụ trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Nguồn tài liệu
Các tác phẩm kinh điển Mác - Lênin và Hồ Chí Minh, các văn kiện,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam.
Đồng thời, luận án cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu đã cơng bố có liên
quan đến đề tài.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng

để thực hiện luận án là: phương pháp lịch sử và logic; thống kê, tổng hợp và
phân tích đánh giá; so sánh đối chiếu; khái quát hóa
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về công chức,
công vụ, đạo đức công vụ, kinh tế thị trường định hướng XHCN; phân tích,
làm rõ thực trạng biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức dưới tác

3


động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, luận án đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa sự
biến đổi tiêu cực đạo đức công vụ của đội ngũ công chức dưới tác động của
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về đạo đức công vụ, sự
biến đổi đạo đức công vụ dưới tác động của kinh tế thị trường. Đồng thời, chỉ
ra thực trạng biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ cơng chức nước ta hiện
nay. Trên cơ sở đó, tìm giải pháp ngăn ngừa sự biến đổi tiêu cực đạo đức
công vụ ở một bộ phận không nhỏ công chức nước ta hiện nay.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để tiếp tục đi sâu nghiên
cứu sự biển đổi của đạo đức cơng vụ nói riêng và đạo đức xã hội nói chung
dưới tác động của kinh tế thị trường.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong việc giáo dục đạo đức công vụ cho đội ngũ cơng chức trong q trình
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy các các môn Triết học, Đạo đức học, Văn hóa học… và các ngành

học có liên quan trong các trung tâm, trường chính trị, các trường đại học, học
viện ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình khoa học đã
cơng bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4
chương, 14 tiết.

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG VỤ, ĐẠO ĐỨC
CƠNG VỤ

Trong những năm gần đây, vấn đề cơng chức, cơng vụ, đạo đức cơng
vụ khơng chỉ có sự quan tâm của Đảng, Nhà nước mà còn thu hút sự chú ý
của xã hội, nhất là các nhà nghiên cứu. Khơng ít tài liệu, văn bản có liên quan
đã được ban hành. Khơng ít các cơng trình khoa học đã được công bố. Tất cả
đều hướng tới mục tiêu xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, một
đội ngũ công chức thực sự là "công bộc" của dân, đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến công vụ, công chức
Trong những năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đã dành
nhiều quan tâm đến vấn đề công chức, công vụ; trong số rất nhiều các tài liệu
đã được công bố, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau đây:
Trong cuốn "Từ điển Hành chính cơng"[120], các tác giả quan niệm
"Công vụ bao gồm các cơ quan khác nhau của Chính phủ, như các bộ, ngành,
các tổ chức doanh nghiệp, các tập đoàn và doanh nghiệp của Chính phủ là các
cơ quan chịu trách nhiệm về việc tạo điều kiện và thực thi pháp luật, chính

sách cơng và các quyết định của Chính phủ" [tr.20]. Với cách hiểu này, công
vụ nghiêng về bộ máy các cơ quan, tổ chức của ngành hành pháp, trong đó có
tính đến các doanh nghiệp nhà nước mà chưa đề cập đến công vụ như một
chức năng phải thực thi của bộ máy đó để đảm bảo vai trị quản lý và phục vụ
nhân dân.
Trong cuốn "Mấy vấn đề công vụ và cơng chức Cộng hồ Pháp" [110],
cho rằng:
Cơng vụ bao gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc
cộng đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào một công

5


việc thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản,
kể cả các bệnh viện và được thực thụ vào một trong những ngạch
của nền hành chính cơng. Những người thuộc hệ thống công vụ
này mang đầy đủ tư cách của một công chức [tr.4].
Cách diễn đạt này xác định rõ những người thực hiện công vụ là những
người được nhà nước hay cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc
thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản; những người này
được bổ nhiệm vào một trong những ngạch của nền hành chính cơng; họ là
cơng chức và chỉ có họ mới là người thực thi cơng vụ.
Trong cuốn "Thuật ngữ Hành chính"[118] các tác giả xác định:
"Công vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh
nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo
quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội [tr.72].
Theo đó, cơng vụ và công chức thể hiện sức mạnh quyền lực của hệ
thống chính trị, trong đó có nhà nước và giai cấp cầm quyền.

Công vụ, công chức là những khái niệm vừa mang tính học thuật, vừa
là vấn đề thực tiễn của q trình vận hành bộ máy hành chính ở mỗi quốc gia.
Với những quan niệm trên, các tác giả đã phần nào chỉ ra những đặc trưng cơ
bản của của hoạt động cơng vụ và vai trị của cơng chức trong bộ máy nhà
nước nói chung. Những quan niệm này, tuy chưa đưa ra nội hàm đầy đủ về
công chức, cơng vụ, nhưng cũng là những tài liệu có tính chất định hướng cho
việc tiếp cận sâu hơn khái niệm cơng vụ, cơng chức trong luận án của mình.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến đạo đức công vụ
Trong những năm gần đây, cùng với công cuộc đổi mới và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, vấn đề tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của công
chức cũng được luận giải một cách khá sâu sắc cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Cuốn Giáo trình "Đạo đức công vụ"do Nguyễn Đăng Thành chủ biên

6


[102], gồm 7 chương, trong đó chương 4 bàn về đạo đức thực thi công vụ của
công chức. Các tác giả trong cuốn giáo trình này quan niệm: Đạo đức cơng vụ
trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân của cơng chức; đạo đức cơng vụ
được hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội của cơng chức; đạo đức công vụ
là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - công vụ của công chức; đạo đức thực thi
công vụ là sự hài hịa của các giá trị. Có thể coi đây là cuốn giáo trình đầu tiên
viết về đạo đức công vụ ở nước ta trong thời gian qua, là một tài liệu tham
khảo bổ ích cho những ai quan tâm đến đạo đức công vụ.
Trong bài viết: "Đạo đức cơng chức trong q trình chuyển đổi" củatác
giả Võ Kim Sơn [97] đã đề cập trực tiếp đến sự biến đổi của đạo đức cơng
chức trong q trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta. Theo tác giả, chính q
trình chuyển đổi kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến đổi đó và cho
rằng sự biến đổi này vừa theo chiều hướng tích cực, vừa theo chiều hướng
tiêu cực. Vấn đề đặt ra là phải hướng làm sao để sự biến đổi theo chiều hướng

tích cực trở thành xu thế chủ đạo.
Bàn đến vấn đề này, tác giả Phạm Văn Đức trong bài: "Mối quan hệ
giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay" [35] đã nhấn mạnh đến lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị
trường đã tác động đến đạo đức theo hai chiều hướng trái ngược nhau. Hướng
tích cực là lợi ích cá nhân góp phần tạo nên các giá trị và các chuẩn mực đạo
đức mới. Ngược lại, hướng tiêu cực là vì lợi ích cá nhân, con người, trong đó
có đội ngũ hoạt động cơng vụ có nguy cơ làm băng hoại các giá trị của đạo
đức truyền thống dân tộc.
Liên quan đến sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến đạo đức
xã hội, các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc trong: "Mấy vấn
đề đạo đức trong nền kinh tế thị trường"[16] đã chỉ rõ: sự phát triển của kinh
tế thị trường có thể làm cho con người chủ động, tích cực, ý thức trách nhiệm
cơng dân được nâng lên nhưng chính nền kinh tế thị trường ấy làm cho con
người sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, vì lợi ích cá nhân mà dẫm đạp lên

7


các giá trị đạo đức truyền thống. Theo các tác giả, cả hai xu hướng trên đều
song song tồn tại trong nền kinh tế thị trường một cách khách quan. Trong
cơng trình khoa học này, các tác giả chủ yếu tập trung chỉ ra tác động của
kinh tế thị trường tới biến đổi đạo đức xã hội nói chung, chưa đi sâu vào sự
biến đổi đạo đức của đội ngũ công chức, nhưng với chúng tôi đây là những tài
liệu tham khảo có giá trị, liên quan trực tiếp đến hướng nghiên cứu mà chúng
tôi lựa chọn trong luận án của mình.
Bàn đến các nguyên tắc xây dựng đạo đức cơng chức, nhóm tác giả Tơ
Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo đã có những phân tích sâu sắc
trong cuốn sách: "Đạo đức trong nền công vụ"[40]. Với tư cách là những
người hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ của Việt Nam,

các tác giả đã biên soạn cuốn sách trên cơ sở các bài viết và tham luận của các
đại biểu từ các nước ASEAN tham dự Hội thảo quốc tế "Đạo đức trong nền
công vụ" tại Hà Nội vào ngày 31 tháng 5 năm 2001. Trong cuốn sách này, sau
khi phân tích vấn đề đạo đức trong nền công vụ của một số quốc gia Đông Nam
Á: Brunei Darussalam, Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippin,
Singapore,Thái Lan, các tác giả đã chỉ ra thực trạng và nêu một số sáng kiến
nhằm nâng cao đạo đức công chức ở Việt Nam. Các tác giả đã nhấn mạnh đến
những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đạo đức cơng chức, trong đó, nhấn
mạnh rõ đặc điểm dân tộc và tính giai cấp của vấn đề đạo đức. Đặc biệt, trong tài
liệu này, nhóm tác giả đã cố gắng đưa ra những quy định về chuẩn mực đạo đức
người công chức trong nền công vụ với năm nguyên tắc cơ bản: về phẩm chất
chính trị, về năng lực quản lý, trình độ và khả năng chun mơn, về hiệu quả
công tác. Những thông tin mà cuốn sách đưa lại là tài liệu tham khảo bổ ích cho
những ai quan tâm đến vấn đề đạo đức công vụ, trong đó có chúng tơi.
Quan tâm tới vấn đề đạo đức công vụ, tác giả Nguyễn Hữu Khiển trong
bài: "Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán
bộ công chức ở nước ta hiện nay"[56] đã đưa ra một số nhận định có giá trị.
Trong bài viết này, tác giả đã làm sáng tỏ nội hàm khái niệm đạo đức công

8


vụ, chỉ ra sự cần thiết phải nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ công
chức ở nước ta hiện nay. Sự cần thiết đó được cắt nghĩa bởi mấy lý do chính
sau đây: 1). Xuất phát từ vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ, công chức trong sự
nghiệp cách mạng; 2) xuất phát từ thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ,
công chức nước ta hiện nay và 3) xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ mới của cách
mạng. Đây cũng được coi là một trong những nghiên cứu có liên quan trực
tiếp đến đề tài mà chúng tôi lựa chọn.
Cũng bàn về đạo đức cơng vụ, nhưng tác giả Trần Văn Phịng trong bài

"Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" [81] lại đề
cập đến đạo đức công vụ của đội ngũ công chức lãnh đạo. Theo tác giả, cán
bộ lãnh đạo chính trị phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu về đạo
đức, có kiến thức khoa học về lãnh đạo quản lý, có lối sống lành mạnh, phong
cách cơng tác dân chủ... và trên hết là phải có đạo đức cách mạng. Tác giả đã
chỉ rõ mối liên hệ có tính quyết định giữa đạo đức của người công chức lãnh
đạo với sự ổn định của nền chính trị - hành chính, thậm chí là với sinh mệnh
của Đảng. Chúng tơi xem đây là một gợi ý có tính định hướng khi nghiên cứu
về đặc trưng, vai trị của đạo đức cơng vụ hiện nay.
Ở một khía cạnh khác, khi bàn đến đạo đức công vụ trong ngành tư
pháp, tác giả Trần Văn Quảng trong bài viết: "Chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp cán bộ, công chức, viên chức ngành tư pháp và yêu cầu đẩy mạnh cải
cách chế độ công vụ, công chức"[89] cũng đã có những luận giải thấu đáo.
Theo đó, tác giả đưa ra một số chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cán bộ, công
chức, viên chức ngành tư pháp nước ta hiện nay, như: cần, kiệm, liêm, chính
v.v...Tác giả bài viết cũng lý giải vì sao trong bối cảnh hiện nay cần phải nâng
cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức hoạt động trong ngành tư pháp.
Tuy chỉ giới hạn trong phạm vi ngành tư pháp, nhưng những phân tích, luận
giải của tác giả Trần Văn Quảng trong bài viết này cũng có ý nghĩa tham khảo
nhất định khi thực hiện đề tài luận án của mình.
Tác giả Lê Thị Hằng trong bài viết:"Vấn đề nâng cao đạo đức công

9


chức trong cải cách hành chính ở nước ta hiện nay"[43] cho rằng "đạo đức
công chức là một dạng của đạo đức nghề nghiệp, bao gồm những quan điểm,
nguyên tắc và chuẩn mực đánh giá, điều chỉnh tư tưởng, hành vi và quan hệ
đạo đức công chức". Theo tác giả, một trong những nội dung quan trọng của
quá trình cải cách hành chính là phải nâng cao đạo đức cơng chức, phải làm

cho công chức thực sự trở thành "công bộc" của dân, có như vậy một phần
mục tiêu cải cách hành chính mới hồn thành và lúc đó nền hành chính mới
trở nên trong sạch, hoạt động có hiệu quả.
Cuốn: "Nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức công vụ của một số
quốc gia và Việt Nam"[61] cũng đề cập nhiều nội dung quan trọng về đạo đức
công vụ. Đây là kết quả nghiên cứu của tập thể tác giả do Đỗ Thị Ngọc Lan
làm chủ biên. Cuốn sách gồm 3 chương. Trong đó chương 1 bàn về "Một số
vấn đề chung về đạo đức công vụ". Ở đây, các tác giả đã tổng hợp các quan
niệm khác nhau về đạo đức công vụ ở một số nước, như: Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Niu Dilân, Singapore,v.v... Những tổng kết này là tài liệu tham khảo bổ ích
khi chúng tơi đề cập đến khái niệm đạo đức công vụ. Đặc biệt chương 3 "Một
số khuyến nghị cho hệ thống quản lý đạo đức cơng vụ của Việt Nam", có ý
nghĩa tham khảo nhất định khi đề xuất các giải pháp ngăn ngừa sự biến đổi
tiêu cực của đạo đức công vụ trong một bộ phận công chức nước ta hiện nay.
Bài viết:"Từ lời dạy của Bác đến chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp" của
tác giả Hồng Chí Bảo [10] đã có sự luận giải hết sức thuyết phục về quan hệ
giữa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công
chức nước ta hiện nay. Theo tác giả mỗi một nghề nghiệp, ngoài những giá
trị, chuẩn mực đạo đức phổ quát mang tính xã hội ra thì cũng có đạo đức
riêng của mình, địi hỏi người cán bộ công chức vừa tuân thủ chuẩn mực đạo
đức xã hội nói chung, vừa phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp mà mình đang
hoạt động và lấy tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh làm hệ quy chiếu.
Tác giả Trần Sỹ Phán trong bài viết: "Nâng cao đạo đức công vụ của
đội ngũ công chức hiện nay"[79]đã đi sâu phân tích khái niệm "đạo đức cơng

10


vụ" và vấn đề "nâng cao đạo đức công vụ" cho đội ngũ công chức nước ta
hiện nay. Theo tác giả trong bối cảnh đổi mới của đất nước, cần khơng ngừng

nâng cao vai trị đạo đức cơng vụ của đội ngũ cơng chức đối với hoạt động
hành chính nhà nước, cũng như sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói
chung. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản để nâng cao đạo đức
công vụ của đội ngũ công chức hiện nay, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công
chức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Trong luận án tiến sỹ với đề tài: "Giáo dục đạo đức công vụ cho học
viên các trường chính trị khu vực miền núi phía Bắc"tác giả Hứa Thị Kiều
Hoa [49] cho rằng quá trình hình thành đạo đức cơng vụ là q trình tự nhận
thức, ý thức đến tư duy hành động và cuối cùng được chuẩn hóa thành quy
tắc, quy chế và pháp luật của nhà nước - đó là q trình đi từ giai đoạn tự phát
đến giai đoạn tự giác. Về mặt bản chất, tác giả nhấn mạnh đạo đức công vụ
nước ta được quan niệm trên nền tảng triết lý Nhà nước là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, giá trị đạo đức cao nhất của đạo đức cơng vụ
là phục vụ nhân dân. Từ đó, tác giả quan niệm đạo đức công vụ là hệ thống
những quy tắc, quy định nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử của cán bộ, công
chức trong thi hành nhiệm vụ nhằm xây dựng một nền hành chính chính quy,
hiện đại...
So với hướng nghiên cứu mà chúng tôi đặt ra, cách tiếp cận đạo đức
công vụ của tác giả Hứa Thị Kiều Hoa mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra cơ sở
hình thành của đạo đức cơng vụ từ các giá trị đạo đức và văn hóa truyền
thống, chưa thấy được sự tác động của bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa,
đạo đức tác động đến sự hình thành những nét đặc điểm khác biệt của đạo đức
công vụ hiện nay, đặc biệt là sự tác động của nền kinh tế thị trường. Đây cũng
là nhiệm vụ đặt ra cho chúng tơi trong q trình thực hiện cơng trình nghiên
cứu của mình.
Bàn đến các yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức cơng vụ, nhóm tác giả Hồ
Trọng Hồi trong đề tài: "Đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ công chức Việt

11



Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp" [50] đã phân tích, chỉ ra điều kiện
khách quan lẫn chủ quan đã ảnh hưởng đến đạo đức công vụ của cán bộ công
chức nước ta hiện nay như thế nào. Theo đó, về mặt khách quan, các tác giả
chỉ ra sự du nhập của lối sống thực dụng đã ảnh hưởng trực tiếp đến đạo đức
và lối sống xã hội nói chung và một bộ phận cơng chức nói riêng. Nền kinh tế
thị trường đã kích thích cái tơi thái quá và là tác nhân làm méo mó sự phát
triển nhân cách. Mặt trái nền kinh tế thị trường tiềm ẩn nguy cơ hình thành
những lợi ích nhóm khơng đồng thuận với với lợi ích chung của tồn xã hội.
Điều này dẫn tới nguy cơ làm biến dạng chính sách, pháp luật, làm tha hóa
nghề nghiệp, suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của nhiều cán bộ
cơng chức theo đó chi phối, tác động mạnh mẽ đến đạo đức công chức trong
đạo đức công vụ.
Về mặt chủ quan, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức bị quy định
bởi thể chế quốc gia, công tác quản lý cán bộ công chức của các cơ quan nhà
nước, sức mạnh của nền hành chính, mà đặc biệt là tính kỷ luật của cán bộ
cơng chức khi thực thi cơng vụ. Theo nhóm tác giả, các yếu tố trên tác động
đến đạo đức công vụ ở những mức độ khác nhau nhưng đều dẫn tới sự biến
đổi đạo đức công vụ. Chúng tôi coi những nhận định này là tài liệu có ý nghĩa
nhất định trong việc khái quát bức tranh tổng quát, đa dạng về đạo đức công
vụ của đội ngũ công chức Việt Nam hiện nay.
Như vậy, các cơng trình trên đã nghiên cứu về cơng vụ, đạo đức cơng
vụ ở những khía cạnh khác nhau nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp
thiết của thực tiễn đó là vấn đề đạo đức cơng chức trong hoạt động cơng vụ ở
Việt Nam; góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của đạo
đức công chức ở nước ta hiện nay. Những công trình này đã gợi mở cho
chúng tơi nhiều ý tưởng quan trọng, đồng thời cũng là nguồn tư liệu quý giá
trong q trình chúng tơi thực hiện đề tài của mình. Tuy vậy, do khn khổ và
mục đích riêng, các cơng trình kể trên chưa đề cập đến cấu trúc của đạo đức


12


cơng vụ, cũng như chưa hệ thống hóa được những chuẩn mực và nguyên tắc
đạo đức công chức trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VÀ
THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
DƢỚI TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY

1.2.1 Những nghiên cứu liên quan đến kinh tế thị trƣờng, kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta luôn xác định đổi
mới kinh tế là trọng tâm và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là chủ trương lâu dài, nhất quán. Thực tiễn phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa sơi động thời gian qua đã nhanh chóng
thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước.
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã được công bố nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ này.
Tác giả Vũ Văn Phúc, trong cuốn: "Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"[84] đã đề cập đến tính tất yếu của
xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong cuốn sách này, tác giả cho rằng thực tiễn của công cuộc đổi mới đất
nước đã chứng minh quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN là một tất yếu, là sự lựa chọn phù hợp, khách quan. Đặc biệt, tác giả
đã tập trung làm rõ nhiều vấn đề quan trọng như: thực chất kinh tế thị trường
là gì? đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; vai
trò sở hữu nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
thị trường nước ta hay quan niệm, thực trạng và giải pháp cho kinh tế tư nhân
trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay....Với chúng

tôi, đây là những gợi mở có ý nghĩa nhất định khi tiếp cận và nghiên cứu bản
chất và tác động của kinh tế thị trường tới đạo đức công vụ của cán bộ công
chức ở nước ta hiện nay.

13


Trong cuốn: "Đặc trưng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam"của Vũ Đình Bách và Trần Minh Đạo [6], các tác giả đã đề cập
tới nhiều nội dung liên quan trực tiếp đến kinh tế thị trường. Chẳng hạn: quá
trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường thế giới, các mơ hình chủ yếu,
đặc trưng và xu hướng vận động của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, bản
chất và đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, các điều
kiện đảm bảo cho sự vận hành và phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.v.v.
Tiếp tục làm rõ các vấn đề của KTTT và KTTT định hướng XHCN, tác
giả Vũ Đình Bách cùng nhóm cộng sự cho xuất bản cuốn: "Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam"[7]. Đây là kết quả nghiên cứu đề tài
thuộc Chương trình khoa học cấp nhà nước KX.01 "Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa". Trong cuốn sách này, các tác giả đã đi sâu đánh giá
mức độ nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta hiện nay. Từ
đó đi đến phân tích vai trị của thể chế và quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, từng bước luận giải về thị trường và động lực phát
triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc.
Mặc dù những nhận định và phân tích về kinh tế thị trường và kinh tế
thị trường định hướng XHCN trong hai cuốn sách này mới chỉ ở giai đoạn
đầu của quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta, nhưng với chúng tôi
đây là những tài liệu tham khảo quan trọng định hướng cho việc tiếp cận bản
chất kinh tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường định hướng XHCN nói

riêng một cách đầy đủ hơn.
Trong cuốn: "Tính phổ biến và tính đặc thù trong phát triển kinh tế thị
trường"do Phạm Văn Dũng làm chủ biên [22] đã đưa ra quan điểm có tính
nhận thức đột phá trong việc nhìn nhận, đánh giá những vấn đề liên quan giữa
kinh tế thị trường thế giới và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam. Theo tác giả xây dựng nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan của
14


quá trình phát triển kinh tế. Giữa kinh tế thị trường thế giới và kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam có mối quan hệ tác động, quy định lẫn
nhau. Theo đó, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đã và đang hiện thực
hóa những quy luật bản chất vốn có của nền KTTT thế giới. Trong cuốn sách
này, nhóm tác giả cũng đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
nghiên cứu, đánh giá về vai trò và bản chất của kinh tế thị trường đối với quá
trình phát triển kinh tế, xã hội hiện nay của thế giới và Việt Nam. Đối với việc
nghiên cứu sự biến đổi đạo đức công vụ dưới tác động kinh tế thị trường,
chúng tôi coi cuốn sách này là một tài liệu tham khảo bổ ích.
Trong cuốn: "Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp"tác giả Phạm Văn Dũng [23] lại
bàn nhiều hơn đến sự cần thiết của việc định hướng XHCN trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay. Theo đó, tác giả tập trung luận giải vì sao trong
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam cần có những quan
điểm, chính sách, cơ chế rõ ràng, cụ thể nhằm định hướng XHCN trong phát
triển kinh tế. Với mục đích đó, tác giả đã khái qt q trình phát triển tư duy
lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị trường ở nước ta, về
vai trò của sở hữu trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong các cơng trình nghiên cứu trên, mặc dù còn nhiều quan điểm và
ý kiến khác nhau, nhưng các tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng

XHCN. Các khái niệm, bản chất, đặc trưng cũng như các mơ hình kinh tế thị
trường trên thế giới được các tác giả giới thiệu và phân tích khá kỹ lưỡng.
Cùng với đó, những vấn đề riêng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta cũng được các tác giả luận giải cụ thể như: bản chất, đặc trưng, thể
chế quản lý, các thành phần kinh tế...Vì vậy, với chúng tơi, đây là những cơng
trình nghiên cứu bổ ích, giúp chúng tơi chủ động hơn trong việc khái quát bức
tranh chung về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN.

15


1.2.2. Những nghiên cứu liên quan đến sự biến đổi đạo đức công vụ
của công chức dƣới tác động của kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay
Quan tâm tới vấn đề này, nhóm tác giả trong cuốn: "Sự biến đổi thang
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới
cho cán bộ quản lý nước ta hiện nay"do Nguyễn Chí Mỳ làm chủ biên [75] đã
chỉ ra rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội do các quan hệ kinh tế - xã
hội quy định, sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức xã hội
theo cả hai hướng tích cực lẫn tiêu cực. Theo nhóm tác giả, đứng về phương
diện đạo đức xã hội, sự ảnh hưởng tích cực của nền kinh tế thị trường là từng
bước hình thành nhân cách tự chủ, tự lập trong con người, rèn luyện con
người có ý thức lao động và sáng tạo, đó là những phẩm chất về nghĩa vụ, ý
chí, lịng dũng cảm, tính nguyên tắc và tính khiêm tốn ở mỗi con người trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên, theo nhóm tác giả, kinh tế thị trường bên cạnh
những tác động tích cực cịn có các tác động tiêu cực tới sự hình thành, phát
triển nhân cách, cá tính con người như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực
dụng vô đạo đức, sự tha hóa về nhân cách, lối sống, coi đồng tiền là giá trị
chân thực duy nhất để đo giá trị của bản thân và người khác.
Từ những nhận định đó, nhóm tác giả cũng đã phân tích tìm ra những
ngun nhân của sự biến đổi đạo đức, trong đó nhấn mạnh: quá trình chuyển

đổi cơ chế kinh tế cũ sang cơ chế kinh tế mới, tạo ra những yếu tố kích thích
cho sự biến đổi những quan niệm đạo đức, lối sống; nền kinh tế thị trường
tuân theo nguyên tắc trao đổi hàng hóa, tơn trọng hiệu quả của sản xuất kinh
doanh, do ảnh hưởng của tư tưởng coi trọng lợi ích vật chất trực tiếp của cá
nhân hơn nghĩa vụ và trách nhiệm đối với tập thể, với quốc gia cho nên xuất
hiện khuynh hướng coi nhẹ giáo dục đạo đức truyền thống, coi nhẹ giáo dục
và xây dựng đạo đức mới xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, việc mở rộng giao lưu
với thế giới, tiếp nhận những yếu tố tích cực của cuộc cách mạng khoa học
cơng nghệ hiện đại cũng là một điều kiện làm biến đổi thang giá trị đạo đức
xã hội. Có thể nói, ở cuốn sách này, các tác giả đã có sự phân tích khá kỹ về

16


những khuynh hướng biến đổi của thang giá trị đạo đức cũng như ngun
nhân của nó. Tuy khơng trực tiếp bàn về đạo đức công vụ nhưng những luận
giải khoa học này là tài liệu tham khảo quý giá cho chúng tôi khi nghiên cứu
sự biến đổi đạo đức công vụ của cơng chức nước ta hiện nay.
Năm 2003, nhóm các tác giả trong cuốn: "Mấy vấn đề đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" [116] cũng đã có sự phân tích
khá sâu những tác động của kinh tế thị trường tới đạo đức xã hội. Cuốn sách
được chia làm 3 phần, trong đó có Phần I "Những tác động của kinh tế thị
trường đối với đạo đức" và Phần III "Xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay". Ở phần I các tác giả đã chỉ ra những tác
động tích cực, tiêu cực của phát triển kinh tế thị trường đối với duy trì và gìn
giữ các giá trị đạo đức, đặc biệt là đạo đức truyền thống. Tới phần III, các tác
giả luận giải tương đối kỹ những biến đổi của đạo đức xã hội, từ đó làm cơ sở
cho việc đưa ra hệ thống giải pháp xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế
thị trường nước ta hiện nay. Chúng tôi coi đây là tư liệu tham khảo có liên
quan trực tiếp đến việc nghiên cứu những tác động của kinh tế thị trường đến

sự biến đổi đạo đức công vụ của công chức nước ta hiện nay.
Ở một nguồn tư liệu khác trực tiếp hơn, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn
trong bài viết:"Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức"[16] đã chỉ ra những khuynh
hướng biến đổi trong lĩnh vực đạo đức hiện nay. Trong bài viết này ngoài việc
khẳng định sự cần thiết phải chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta ra,
tác giả cịn đi sâu phân tích ngun nhân dẫn đến những biến động trong lĩnh
vực đạo đức ở nước ta hiện nay, trong đó tác động của kinh tế thị trường là
một trong những nguyên nhân chính.
Đề cập đến đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp trong bối cảnh kinh
tế thị trường, cịn có bài: "Vấn đề xây dựng đạo đức nghề nghiệp trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Văn Phúc [83].
Theo tác giả, không chỉ mỗi một giai cấp mà ngay cả mỗi một nghề nghiệp

17


cũng có những giá trị, phẩm chất đạo đức riêng. Mỗi một chủ thể đạo đức
ngoài việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức xã hội của mình cịn phải thực hiện
nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp mà mình là một thành viên. Bằng quan điểm
duy vật lịch sử, tác giả bài viết đã chỉ ra sự vận động, biến đổi của đạo đức xã
hội nói chung, đạo đức nghề nghiệp nói riêng. Theo lơgic đó, tác giả cho rằng,
khi chúng ta chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì đạo đức nghề nghiệp cũng có sự biến
đổi nhất định. Sự biến đổi đó diễn ra theo những xu hướng khác nhau, có cả
sự phù hợp với các quy luật khách quan, có cả những xu hướng trái ngược với
sự phát triển xã hội. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xây dựng đạo đức nghề
nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay một cách có hiệu quả,
để có được những cán bộ cơng chức suốt đời tận tụy vì dân, vì nước.
Bàn đến sự biến đổi của văn hóa nói chung, trong đó có văn hóa đạo

đức, nhóm tác giả trong cuốn: "Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh
xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay"[5]đã phân tích, chỉ rõ sự
biến đổi tất yếu của đời sống tinh thần, đặc biệt của văn hóa, đạo đức trước
tác động của kinh tế thị trường. Nhóm tác giả cũng đã chỉ ra thực trạng biến
đổi và những xu hướng vận động của văn hóa, đạo đức trước tác động đa
chiều của kinh tế thị trường nói chung. Mặc dù cuốn sách mới chỉ đề cập đến
sự biến đổi của văn hóa, đạo đức nói chung mà không đi sâu vào biến đổi của
đạo đức công vụ, thế nhưng đây cũng là một trong những gợi ý quan trọng để
tiếp cận sâu hơn đến vấn đề mà tác giả luận án nghiên cứu.
Tác giả Trịnh Duy Huy trong cuốn: "Xây dựng đạo đức mới trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [55] có đề cập đến kinh tế thị
trường và tác động của nó đối với đạo đức. Sau khi điểm qua các quan niệm
khác nhau về sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức, như "thuyết
trượt dốc"; "thuyết leo dốc"; "thuyết thúc đẩy" hay "Thuyết trả giá", tác giả
Trịnh Duy Huy cho rằng sự tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức chủ
yếu theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Theo tác giả, bên cạnh việc

18


thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng, cùng với đó là tạo ra
một thế hệ con người năng động, sáng tạo, tự quyết, tự chịu trách nhiệm; thì
mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đặt các giá trị đạo đức trước những
thách thức cam go. Đó là những nguy cơ tụt dốc về đạo đức, lối sống chạy
theo đồng tiền, chạy theo những ham muốn vật chất cá nhân. Có thể nói, những
luận giải của tác giả trong cuốn "Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa" là tài liệu tham khảo có ý nghĩa nhất định
khi thực hiện đề tài "Sự biến đổi đạo đức công vụ của đội ngũ công chức dưới
động của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" mà chúng tôi đã lựa chọn.
Liên quan đến sự biến đổi các giá trị đạo đức trước tác động của kinh tế

thị trường, tác giả Nguyễn Đình Tường trong bài viết: "Một số biểu hiện biến
đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải
pháp khắc phục"[113]đã chỉ ra nền kinh tế thị trường đang làm đảo lộn nhiều
giá trị tinh thần nói chung, giá trị đạo đức nói riêng. Cuộc đấu tranh giữa cái
tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống lành mạnh trung thực, có lý tưởng, có tinh
thần bảo vệ và xây dựng đất nước... với lối sống sa đọa, ích kỷ, thực dụng,
bạo lực; giữa cái thiện và cái ác vẫn đang không ngừng diễn ra với tốc độ
ngày càng gia tăng. Phát triển kinh tế thị trường mà khơng kiểm sốt được
mặt trái của nó sẽ dẫn tới sự trượt dốc của nền đạo đức xã hội, giáo dục gia
đình bị bng lỏng, ở trường học sinh viên có xu hướng quan tâm nhiều đến
lợi ích cá nhân, ngoài xã hội xuất hiện lối sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ
tục của dân tộc... Từ đó, tác giả bài viết cho rằng đạo đức trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện đang diễn biến phức tạp, các bậc thang giá trị bị đảo
lộn. Theo tác giả, vấn đề đặt ra là phải làm cho các giá trị đạo đức biến đổi
theo chiều hướng tích cực, góp phần xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tháng 12/2013, Học viện Hành chính tổ chức Hội thảo Khoa học với
chủ đề: "Đạo đức công chức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 40"[53].
Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Các bản tham luận

19


tập trung vào các vấn đề lý luận, như: đạo đức công vụ, những giá trị cốt lõi,
nguyên tắc trong các quy tắc đạo đức và ứng xử của công chức v.v.. Đặc biệt
trong Hội thảo khoa học này, nhiều nhà nghiên cứu đã trực tiếp đề cập tới sự
tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức công chức, đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao đạo đức công chức trong thực thi công vụ trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam.
Quan tâm tới sự thay đổi thang giá trị đạo đức, tác giả Trần Hoàng Hảo

trong bài viết: "Những suy nghĩ về sự thay đổi thang giá trị đạo đức trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay"[46] đã khẳng
định, phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhân tố làm
biến đổi thang giá trị đạo đức xã hội. Theo tác giả, có thể có nhiều ý kiến trái
ngược nhau khi trả lời câu hỏi: những biến đổi của các giá trị đạo đức là biểu
hiện của sự văn minh tiến bộ, hay là sự suy thoái đổ vỡ?. Theo tác giả bài viết
sự biến động chung của đạo đức hiện nay là: từ chỗ coi trọng những giá trị
chính trị - xã hội chuyển sang coi trọng các giá trị, lợi ích vật chất. Từ chỗ lấy
con người tập thể làm mẫu mực chuyển sang đề cao con người cá nhân. Từ
chỗ lấy đạo đức làm thước đo nhân cách trong quan hệ xã hội, chuyển sang
coi nhẹ đức dục, lấy đồng tiền làm vật chuẩn trong đối nhân xử thế. Từ chỗ
sống vì lý tưởng chuyển sang lối sống thực dụng, chạy theo sự cám dỗ vật
chất, nhiều giá trị truyền thống, thuần phong mỹ tục bị coi nhẹ. Mặc dù trong
bài viết của mình, tác giả chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những biểu hiện biến đổi
của thang giá trị đạo đức, mà chưa cắt nghĩa sâu hơn những khuynh hướng
biến đổi ấy nhưng với chúng tôi, đây cũng là những ý kiến đáng để tham khảo
khi tiến hành nghiên cứu cơng trình của mình.
Trong bài viết: "Vấn đề suy thối đạo đức của cán bộ, đảng viên từ Đại
hội VI đến Đại hội XII"của tác giả Trần Sỹ Dương [25] đã chỉ ra sự tác động
đồng thời của cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong nguyên nhân
khách quan, tác giả nhấn mạnh tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị
trường. Theo đó, cơ chế thị trường đã thúc đẩy sự phát triển tích cực của đời

20


×