1
Đại học quốc gia hà nội
khoa luật
vũ thu hiền
xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với
yêu cầu cải cách t- pháp ở việt nam hiện nay
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà n-ớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01
Luận văn thạc sỹ luật học
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: pgs. TS. Hoàng thị kim quế
Hà Nội - 2008
2
Đại học quốc gia hà nội
khoa luật
vũ thu hiền
xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với
yêu cầu cải cách t- pháp ở việt nam hiện nay
Luận văn thạc sỹ luật học
Hà Nội - 2008
1
Mục lục
Trang
Mở đầu
01
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về Toà án và đội ngũ
thẩm phán
07
1.1. Một số vấn đề lý luận về Toà án
07
1.1.1. Khái niệm Toà án
07
1.1.2. Vị trí, vai trò của Toà án
10
1.2. Một số vấn đề lý luận về Thẩm phán
15
1.2.1. Khái niệm Thẩm phán
15
1.2.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán
16
1.2.3. Điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán
20
1.2.4. Phân loại thẩm phán
29
1.2.5. Khái quát tiến trình phát triển các quy định của
pháp luật về thẩm phán ở Việt Nam
32
Chương 2. thực trạng công tác xây dựng Đội ngũ
2
thẩm phán trong thời gian qua và yêu cầu cải
cách tư pháp ở việt nam trong giai đoạn hiện nay 37
2. 1. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Việt
nam trong thời gian qua
37
2.1.1. Thực trạng về số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm
phán và tình hình xét xử trong thời gian qua
37
2.1.2. Công tác quy hoạch, tuyển dụng và bổ nhiệm thẩm phán
42
2.1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán
52
2.1.4. Cơ chế kiểm tra giám sát đội ngũ Thẩm phán
63
2.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay
70
2.2.1. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp
trong giai đoạn hiện nay
70
2.2.2. Một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành Toà án trong xây dựng
đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
75
Chương 3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và một số
giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán HIệN NAY 77
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng đội ngũ
thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay
77
3.2. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng
3
yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay
82
3.2.1. Đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán
82
3.2.2. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán
85
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
87
kết luận 93
Tài liệu tham khảo 96
4
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Nhờ có sự đổi mới về kinh tế và
quyết tâm thực hiện công cuộc cải cách hành chính mà Việt Nam đang là
nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới; cơ sở
vật chất được tăng cường, đời sống chính trị - xã hội ổn định, quan hệ quốc tế
được mở rộng. Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển mạnh sang cơ chế thị
trường cùng với các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế thì ngày càng có
nhiều vụ việc phức tạp, các loại án hình sự ngày càng tinh vi, mức độ nguy
hiểm cho xã hội ngày càng lớn, các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
tế, thương mại, lao động ngày càng gia tăng về cả số lượng và sự phức tạp,
đặc biệt khi nó xuất hiện yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều, giá trị lợi ích vật
chất trong các vụ án ngày càng lớn. Do đó, để đưa ra được phán quyết thấu
tình đạt lý, phù hợp với thông lệ, tập quán pháp luật quốc tế đòi hỏi thẩm
phán phải tâm huyết với nghề, không ngừng học tập nâng cao trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ xét xử của mình.
Nghề thẩm phán là nghề xét xử, mục đích là đưa lại sự công bằng cho
xã hội, đảm bảo sự ổn định, phát triển và mang ý nghĩa xã hội to lớn. Chính vì
thế người thẩm phán được Visanhsky, một trong những người xây dựng
ngành Tư pháp Nga sau cách mạng tháng Mười khẳng định “thẩm phán người
thầy của cuộc sống”. Gần 100 năm nay, điều Ông nói vẫn đúng, lời nói đó
vượt qua mọi ranh giới quốc gia và khoảng cách về thời gian.
Thẩm phán với nghề nghiệp xét xử đã và đang thực sự là biểu tượng
cho khát vọng của nhân loại về một sự công bằng cho đới sống xã hội. Vinh
quang của nghề thẩm phán trước hết phải nói đến là nghề nghiệp mang tính
xã hội cao, bởi lẽ công việc của thẩm phán luôn liên quan đến nhiều cá nhân,
5
tổ chức trong xã hội. Nghề nghiệp xét xử của thẩm phán liên quan đến số
phận, danh dự, uy tín. tài sản, thậm chí nó quyết định cả tính mạng của con
người. Toà án, cụ thể hơn là thẩm phán là người đại diện cho quyền lực nhà
nước để đưa ra các phán quyết và khi các phán quyết đó có hiệu lực pháp luật
thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân liên quan đều
phải tuân thủ chấp hành.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và lãnh
đạo ngành toà án, đội ngũ thẩm phán nước ta không ngừng được nâng cao cả
về số lượng và chất lượng, kết quả xét xử của họ đã góp phần quan trọng vào
việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, so với yêu cầu
của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, đặc biệt là đứng trước các yêu
cầu, thách thức của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì đội ngũ thẩm
phán của chúng ta còn nhiều hạn chế, bất cập, tình trạng “thiếu” về số lượng
và “yếu” về chất lượng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi, nhiều lúc. Một bộ phận
không nhỏ thẩm phán suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, yếu
kém về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đã làm sai lệch vụ án, làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, xây dựng đội
ngũ thẩm phán trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp và năng lực công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay là rất quan trọng, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và ngành toà án
phải tăng cường chỉ đạo và thực hiện quyết liệt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng
này để thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội
chủ nghĩa .
Từ thực tiễn đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sỹ của mình là “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, với mong muốn thông qua việc phân
tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay để góp phần
phát hiện những bất cập, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở
6
nước ta, tìm ra những nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế đó. Từ đó, đề xuất
một số giải pháp xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư
pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tăng cường
hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc xây dựng đội ngũ thẩm phán có phẩm chất
đạo đức và đủ năng lực chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển của
đất nước trong thời kỳ mới là rất cần thiết. Đây là lĩnh vực được Đảng, Nhà
nước đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua ở nước ta đã có một số công trình
nghiên cứu quan trọng liên quan đến lĩnh vực này như: Sổ tay Thẩm phán; Các
phẩm chất cơ bản của thẩm phán của tác giả Đặng Thị Thanh Nga (Tạp chí
Luật học số 5/2002); Kỹ năng giao tiếp của thẩm phán khi giải quyết vụ án dân
sự; ThS. Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Luật học số 2/2005); Một số suy nghĩ về
những việc thẩm phán không được làm quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002, Nguyễn Thị Hồng Tươi (Tạp chí Toà án
nhân dân số 1/2003); Một số vấn đề về mô hình nhân cách thẩm phán, ThS,
Bùi Thị Kim Chi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 3/2005); Những phẩm chất,
nhân cách của thẩm phán trong giai đoạn hiện nay, ThS. Đặng Thanh Nga (Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003); Suy
nghĩ về những điều thẩm phán phải làm, thẩm phán được làm, chính sách chế
độ đối với thẩm phán, Nguyễn Hồng Tươi (Tạp chí Dân chủ và pháp luật số
5/2002).
Nhìn chung, các bài viết trên của các tác giả được thể hiện ở nhiều cấp độ
nghiên cứu khác nhau, góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng chủ yếu dưới dạng các
bài nghiên cứu trên các tạp chí chưa có đề cập một cách có hệ thống về xây dựng
đội ngũ thẩm phán để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu
7
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu, tìm ra những luận cứ khoa
học và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp
luật về thẩm phán và công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thẩm phán và xây dựng đội ngũ
thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn diện một số quy định của Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm toà án nhân dân năm 2002 và các quy định của pháp
luật thực định về tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán.
Đánh giá thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta
hiện nay để làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ
thẩm phán và những yêu cầu, đòi hỏi đối với thẩm phán; chỉ ra được những
bất cập, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán; làm rõ hơn những
yếu tố tích cực, tiêu cực ảnh hưởng đến chất lượng của thẩm phán cũng như
việc tuyển chọn, đào tạo và bổ nhiệm đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
“Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp
ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng, nội dung
phong phú, đa dạng, phức tạp và tương đối “nhạy cảm”. Vì vậy, trong phạm
vi nghiên cứu của một luận văn thạc sỹ luật học, dựa trên nền tảng các chức
năng, nhiệm vụ của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung
để nghiên cứu và tiếp cận các nội dung xây dựng đội ngũ thẩm phán. Tác giả
tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản, trọng tâm sau:
Khái niệm, vị trí vai trò quan trọng của thẩm phán ở Việt Nam và một
số nước trên thế giới;
Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ thẩm phán và công tác xây dựng
đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay, qua đó chỉ ra những bất cập, hạn chế
8
về chất lượng, số lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như những bất cập trong
công tác tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán ở nước ta hiện nay;
Những yêu cầu, đòi hỏi trong công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán
đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Từ đó đề xuất được một số
giải pháp quan trọng để xây dựng và phát triển đội ngũ thẩm phán đáp ứng
yêu cầu xây dựng một nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác xây
dựng đội ngũ thẩm phán ở nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta
hiện nay.
Nội dung quan điểm chỉ đạo công cuộc cải cách tư pháp hiện nay và
công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán, cán bộ tư pháp trong Nghị quyết
08/NQ-TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về thẩm phán, điều kiện, tiêu
chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán và văn bản chính sách của Nhà
nước về xây dựng đội ngũ thẩm phán trong giai đoạn hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng đó là phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp lý
luận kết hợp với thực tiễn.
6. ý nghĩa và những điểm mới của đề tài
Đề tài “Xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng với yêu cầu cách tư pháp
ở Việt Nam” được nghiên cứu để đạt được kết quả sau:
9
Đây là luận văn được nghiên cứu ở bậc cao học có tính hệ thống, toàn
diện về công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay.
Đề tài có tính hệ thống hoá một cách toàn diện những quy định của
pháp luật nước ta về thẩm phán từ năm 1945 đến nay.
Xác định được hiệu quả sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về
tiêu chuẩn, điều kiện tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán, qua đó chỉ ra các
điểm hạn chế của pháp luật thực định về nội dung này, giúp các nhà lập pháp
hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giúp cho
ngành Toà án thấy được vị trí, vai trò quan trọng của công tác xây dựng chiến
lược đào tạo thẩm phán cũng như đội ngũ “nguồn” để tuyển chọn, bổ nhiệm
thẩm phán.
Mặt khác, thông qua việc so sánh, tìm hiểu các quy định của pháp luật
một số nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới như Hàn Quốc, Pháp,
Malayxia về điều kiện, tiêu chuẩn tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán cũng
như kinh nghiệm xây dựng đội ngũ thẩm phán, đội ngũ “nguồn” để tuyển
chọn bổ nhiệm thẩm phán của họ. Từ đó, luận văn đề xuất một số giải pháp
quan trọng nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán
đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Đặc biệt là các quy định liên
quan đến trách nhiệm của ngành Toà án trong việc xây dựng kế hoạch chiến
lược đào tạo thẩm phán và đội ngũ “nguồn” để bổ nhiệm thẩm phán đáp ứng
được những yêu cầu nhiệm vụ của công tác cải cách tư pháp nhằm xây dựng
nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm 3 chương, 6 mục.
10
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về Toà án
và đội ngũ thẩm phán
1.1. Một số vấn đề lý luận về Toà án
1.1.1. Khái niệm Toà án
Cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, để đảm bảo cho sự thực
thi của pháp luật, nhà nước thiết lập một hệ thống cơ quan chuyên xét xử các
hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời
sống xã hội nhằm đảm bảo trật tự xã hội, quyền và lợi ích của nhà nước và xã
hội được duy trì, hệ thống cơ quan đó chính là toà án.
Dưới chế độ phong kiến, nhà vua là người đứng đầu nhà nước nắm
trong tay tất cả các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chính vì thế những
quan lại cai trị cấp dưới vừa là người thi hành pháp luật đồng thời là người
xét xử. Đến khi nhà nước tư bản ra đời với nhiều học thuyết phân chia quyền
lực nhà nước khác nhau thì các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được
phân chia rõ ràng hơn. Đặc biệt khi học thuyết “Tam quyền phân lập” của
Môngtexkiơ ra đời, ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tách biệt và đối
trọng với nhau và ba quyền này được trao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau
tương ứng là cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong
hệ thống các cơ quan tư pháp thì việc thực thi quyền xét xử do một hệ thống
cơ quan chức năng riêng biệt đảm nhiệm đó là toà án với các thẩm phán là
công chức nhà nước thực hiện nhiệm vụ xét xử.
Theo cuốn Từ điển Luật học thì Toà án được hiểu là “cơ quan thuộc hệ
thống bộ máy nhà nước, đảm nhiệm chức năng xét xử”. Đây cũng là khái
niệm được sự thống nhất cao của các quốc gia trên thế giới và các nhà nghiên
cứu luật học. Trong đó, tuỳ từng quốc gia khác nhau Toà án - hệ thống cơ
11
quan xét xử có những đặc thù riêng và được phân chia theo các loại hình, cấp
xét xử khác nhau.
Trong hệ thống toà án một số nước phương Tây, ngoài hệ thống các
cấp toà án xét xử vụ án hình sự, dân sự, thương mại, lao động, hành chính, họ
còn thành lập Toà án hiến pháp để thực hiện chức năng bảo vệ các nguyên tắc
của hiến pháp, kiểm tra tính hợp hiến của các luật hay các văn bản quản lý
khác. Ví dụ:
ở Pháp, Toà án hiến pháp được gọi là Hội đồng bảo hiến. Nhiệm vụ
của Hội đồng này là: phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật, sắc luật và
quy tắc hành chính; Tham gia ý kiến về các đề nghị sửa đổi Hiến pháp do Uỷ
ban Quốc hội chuyển giao; Hội đồng bảo hiến giải quyết các tranh chấp liên
quan đến việc bầu cử Quốc hội và tổng thống cũng như các cuộc trưng cầu
dân ý, kiểm tra tính hợp pháp của sự kiêm nhiệm chức vụ của các nghị sỹ [49,
tr 498] .
ở Đức, Toà án hiến pháp liên bang có thẩm quyền giải thích hiến pháp
khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của liên bang và các địa phương.
Trong lịch sử phát triển, thì toà án còn được thành lập bởi các tổ chức
quốc tế để giải quyết các tranh chấp mang tính quốc tế như Toà án quốc tế là
tổ chức của Liên hợp quốc gồm 15 thẩm phán do Đại Hội đồng và Hội đồng
bảo an bầu ra cùng một lúc, với nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại.
Trong đó thẩm phán được bầu hoàn toàn mang tư cách cá nhân, không đại
diện cho quốc gia và quyền lực nhà nước và thẩm phán là công dân của 15
quốc gia khác nhau. Trong các thẩm phán phải có đủ đại diện của các nền văn
hoá và các hệ thống pháp luật. Toà án này quyết nghị theo hình thức biểu
quyết đa số nhưng tối thiểu phải có 9 thẩm phán tham dự xét xử. Trong
trường hợp có ngang phiếu thì phiếu của chánh án có vai trò quyết định. Toà
án này có hai chức năng, thứ nhất là: giải quyết các tranh chấp giữa các quốc
gia khi có sự đồng ý của các bên. Quyết định của Toà án quốc tế có tính chất
12
sơ thẩm đồng thời là chung thẩm. Trường hợp một bên không đồng ý thì bên
kia có quyền nhờ Hội đồng bảo an can thiệp, theo đó Hội đồng bảo an sẽ ra
kiến nghị hoặc quyết định áp dụng những biện pháp bắt buộc thi hành. Chức
năng thứ hai của toà án này là làm tư vấn pháp luật cho Đại hội đồng, cho các
cơ quan của Liên hiệp quốc và các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc.
Ngoài Toà án quốc tế trên còn có các toà án quốc tế khác như: Toà án quân sự
quốc tế là Toà án Nuyrămbe và Toà án Tôkyô; Toà án quốc tế về Luật biển.
Khái niệm “Toà án nhân dân” hiện nay chỉ được sử dụng ở các quốc
gia theo chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba. Trong quá
khứ việc sử dụng thuật ngữ “Toà án nhân dân” đã từng tồn tại ở Đức với tên
gọi là Toà án Nhân dân Đức, là toà án do Đảng Công nhân Đức Quốc gia
XHCN thành lập từ năm 1934 như một toà án đặc biệt để xét xử những người
chống đối chế độ với các tội danh “phản quốc” và “tiết lộ bí mật quốc gia”
(theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
ở Việt Nam, ngay từ khi cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 thiết lập Toà án
quân sự để “xét xử tất cả những người nào phạm vào một việc gì đó có
phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trừ khi
phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật”. Trải qua
nhiều giai đoạn phát triển lịch sử, đến nay theo Điều 127 Hiến pháp năm 1992
quy định và Điều 1 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 tiếp tục khẳng
định: “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án
quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, căn cứ vào cách phân chia
khác nhau chúng ta có thể phân toà án thành các loại sau:
Căn cứ vào nguyên tắc cấp và phạm vi xét xử, hệ thống các toà án của
nước ta bao gồm: TANDTC, TAND cấp tỉnh thành phố trực thuộc trung
13
ương, các TAND cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và các toà án
quân sự.
Căn cứ vào tính chất các vụ án do toà án xét xử, toà án nhân được phân
thành các toà tư pháp và toà án hành chính trong đó toà án hành chính để xét
xử các tranh chấp về hành chính. Còn toà tư pháp gồm: Toà hình sự xét xử
các vụ án hình sự; Toà dân sự để xét xử các vụ án tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình; Toà án kinh tế để xét xử các vụ án tranh chấp về kinh tế,
thương mại; Toà án lao động để xét xử các vụ tranh chấp về lao động. Trong
thời gian tới với tinh thần của công cuộc cải cách tư pháp chúng ta sẽ thành
lập Toà hôn nhân và gia đình, Toà án dành cho trẻ vị thành niên nhằm đáp
ứng được những đặc thù của các loại vụ án này, đảm bảo cho quyền và lợi ích
của nhà nước, xã hội và các cá nhân liên quan được thực thi tốt hơn, nâng cao
tính chuyên nghiệp của các thẩm phán trong từng loại hình toà án này.
Hệ thống Toà án quân sự là một hệ thống toà án có đặc thù riêng, nó
chỉ thực hiện chức năng xét xử những vụ án mà bị cáo là những quân nhân tại
ngũ và những vụ án khác theo quy định của pháp luật (chủ yếu là xét xử
người có hành vi phạm tội làm thiệt hại đến quân đội), vì thế nó không chia
thành các toà chuyên trách về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Toà án
quân sự bao gồm: Toà án quân sự trung ương, các Toà án quân sự quân khu
và tương đương, các Toà án quân sự khu vực.
Tóm lại, với nghĩa rộng Toà án được hiểu là cơ quan đảm nhiệm chức
năng xét xử và giải quyết các tranh chấp về các hành vi vi phạm pháp luật,
quốc gia và quốc tế; vi phạm các thông lệ và tập quán quốc tế được hầu hết
các quốc gia thừa nhận.
Theo nghĩa hẹp, với tư cách là một trong những cơ quan tư pháp thuộc
bộ máy của một nhà nước thì khái nhiệm Toà án được hiểu là: Toà án là một
cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan tư pháp trong tổ chức bộ máy nhà nước
14
chuyên đảm nhận chức năng xét xử các vụ án: hình sự, dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh tế, thương mại, lao động và hành chính.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Toà án
Chúng ta biết rằng, để bảo vệ, duy trì sự ổn định và phát triển của
mình, Nhà nước thường sử dụng quyền lực của mình thông qua hệ thống
chính trị và đặc biệt là hệ thống các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước
để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong hệ thống các cơ quan
này, có thể nói cơ quan tư pháp mà đại diện tiêu biểu là Toà án có vị trí, vai
trò hết sức quan trọng, đặc biệt là các nước xây dựng và thực hiện triệt để
thuyết “tam quyền phân lập” để tạo dựng sự “cân bằng”, “đối trọng” về
quyền lực giữa hệ thống ba cơ quan và để duy trì sự ổn định và phát triển
quyền lực nhà nước trong đời sống kinh tế - xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, quốc gia nào
cũng cần có hệ thống các cơ quan tư pháp đủ mạnh để bảo vệ sự tôn trọng và
tuân thủ pháp luật của cá nhân, tổ chức và ngay cả các cơ quan trong bộ máy
nhà nước. Bởi lẽ, với chức năng, nhiệm vụ xét xử và thực hành quyền công
tố, Toà án và Viện kiểm sát đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp
luật và đưa pháp luật vào thực thi trong đời sống xã hội. Khi mà đời sống xã
hội có nhiều mối quan hệ đa chiều, đan sen cộng với các yếu tố nước ngoài
xuất nhiện ngày càng nhiều dẫn đến các tranh chấp, các hành vi vi phạm pháp
luật ngày càng phức tạp, các bên trong quan hệ xã hội không thể tự mình điều
chỉnh các mối quan hệ về lợi ích được nữa mà nó đòi hỏi sự cần thiết phải
điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, đồng thời nó cũng đòi hỏi sự can
thiệp, giúp đỡ của cơ quan tư pháp, các tổ chức trọng tài (người thứ ba trung
lập để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn). Chính vì thế, việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả công việc để xứng tầm với chức năng, nhiệm vụ được giao,
khẳng định vị trí, vai trò của mình trong thiết chế “tam quyền phân lập” đang
đè nặng trên vai các cơ quan tư pháp nói chung và Toà án nói riêng.
15
Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào thì Toà án cũng có một vị
trí, vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật và đưa pháp luật vào thực
thi trong đời sống xã hội. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử, thay
mặt, nhân danh và sử dụng quyền lực của nhà nước để giải quyết các tranh
chấp trong đời sống xã hội và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì
thế, để bảo đảm sự nghiêm minh của nhà nước, giai cấp cầm quyền nào cũng
làm mọi cách để thiết lập vị trí và nâng cao vai trò của toà án, lấy giá trị bảo
vệ pháp luật của nó làm biểu tượng cho công bằng xã hội.
Mặt khác, để thấy được vị trí, vai trò của Toà án chúng ta có thể so sánh
việc giải quyết các tranh chấp trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại qua
con đường tố tụng tại Toà án và tố tụng tại Trọng tài hoặc tổ chức hoà giải cơ sở.
Chúng ta biết rằng, ở các nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển thì
các quan hệ kinh tế, thương mại ngày càng phát triển nhanh cả về số lượng và
sự phức tạp của quan hệ do yếu tố nước ngoài xuất hiện và tác động đến các
mối quan hệ đó, cộng với mặt trái của nền kinh tế thị trường là chạy theo lợi
nhuận, đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu nên đã và đang sảy ra nhiều tranh
chấp rất phức tạp mà tự các bên trong mối quan hệ đó không thể tự giải quyết
được, họ cần có một “người thứ ba” đứng ra với tư cách là người trung lập để
giúp họ giải quyết tranh chấp một cách công bằng và nhanh nhất đảm bảo lợi
ích của các bên được tôn trọng và được bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất
có thể. “Người thứ ba” mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn đó là toà án
hoặc trọng tài, nói cách khác để giải quyết các tranh chấp trong đời sống dân
sự, kinh tế, thương mại các bên tranh chấp có thể lựa chọn hình thức giải
quyết tranh chấp không qua tố tụng tại toà án mà thông qua tổ chức hoà giải
cơ sở hoặc trọng tài.
Tố tụng toà án và tố tụng trọng tài đều là những hình thức giải quyết
tranh chấp trong dân sự, kinh tế và thương mại, trong đó toà án và trọng tài
đóng vai trò người trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp. Hoạt động
16
giải quyết tranh chấp của toà án và trọng tài có đặc điểm chung là dựa trên
những quy định của pháp luật, nội dung hợp đồng hoặc sự thoả thuận của các
bên, từ đó đưa ra các phán quyết độc lập để giải quyết các tranh chấp và các
bên có trách nhiệm thực hiện các phán quyết của toà án hoặc trọng tài vì thế
tố tụng toà án và tố tụng trọng tài đều được pháp luật quy định rất chặt chẽ.
Tuy nhiên, hậu quả pháp lý của việc thực thi các phán quyết của toà án
và trọng tài có sự khác biệt quan trọng. Trong quá trình tố tụng, toà án nhân
danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự cộng
đồng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Trong khi đó các
trung tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là tổ chức phi chính phủ, một tổ
chức mang tính chất xã hội - nghề nghiệp. Do đó, trong tố tụng toà án, khi
bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật mà các bên không tự
nguyện thi hành thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết bởi một
cơ quan thi hành án có thẩm quyền để luôn bảo đảm đảm rằng các bản án,
quyết định của toà án phải được tuân thủ một cách tuyệt đối. Trong khi đó ở
nhiều quốc gia và ở Việt Nam trong thời gian trước khi có Pháp lệnh Trọng
tài thương mại năm 2003 thì hầu hết các phán quyết của trọng tài thường
không được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì
bên kia có quyền đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại toà án.
Mặt khác, ta thấy rằng các phán quyết của trọng tài, hay tổ hoà giải cơ
sở luôn có tính chất sơ, chung thẩm không thể kháng cáo trước bất cứ cơ
quan, tổ chức nào. Hơn nữa một trong những nguyên tắc của tố tụng trọng tài
là không công khai (điều này thường xuất phát từ yêu cầu của các bên nhằm
bảo vệ những lợi ích nhất định của họ như uy tín, thương hiệu, bí mật kinh
doanh ) do đó ngoài nguyên đơn và bị đơn thường trọng tài chỉ triệu tập các
đương sự khác khi cần thiết. Xuất phát từ một số điểm hạn chế trên, trong
thời gian qua ở Việt Nam khi các trung tâm trọng tài, các tổ chức hoà giải cơ
17
sở chưa phát triển mạnh, chưa tạo được uy tín cao, chưa khẳng định được
“chỗ đứng” trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại thì toà án và tố tụng
toà án vẫn đang có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng mà các bên tranh
chấp trong đời sống dân sự nói chung thường xuyên sử dụng để bảo vệ quyền
và lợi ích của mình khi bị xâm phạm.
Vị trí, vai trò của toà án còn được thể hiện trong mối quan hệ với các
cơ quan tư pháp khác như: Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành
án. Trong các mối quan hệ này Toà án luôn giữ ở vị trí trung tâm và có sự ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động cuối cùng của hệ thống các cơ quan tư
pháp. Ví dụ như: Để giải quyết một vụ án hình sự nếu Cơ quan điều ta, Viện
kiểm sát đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình mà Toà án không
thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử sẽ dẫn đến kết quả vụ án xử không đúng người,
đúng tội, hình phạt không công bằng và nghiêm minh, không có tính phòng
ngừa chung và phòng ngừa riêng. Mặt khác trong quá trình thụ lý hồ sơ, trước
khi đưa ra xét xử nếu Toà án thấy, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra thực hiện
chưa đủ bằng chứng, chứng cứ để luận tội thì Toà án trả lại hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung , Đặc biệt khi pháp luật tố tụng đang đặc biệt quan tâm, đề
cao tố tụng tranh tụng thì vị trí, vai trò của Toà án càng được khẳng định rõ
hơn trách nhiệm của mình để đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng trong
việc xét xử một vụ án.
Do vị trí, vai trò quan trọng của Toà án nên ngay khi Cách mạng tháng
Tám thành công vào ngày 19/8/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời với Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại
quảng trường Ba Đình thì 11 ngày sau, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ban hành Sắc lệnh số 33 thiết lập Toà án quân sự để “xét xử tất cả những
người nào phạm vào một việc gì đó có phương hại đến nền độc lập của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà
18
binh tự xử lấy theo quân luật”. Từ đó, ngày 13/9/1945 trở thành mốc son lịch
sử quan trọng, đánh dấu sự ra đời của ngành Toà án Việt Nam.
Tuy nhiên, xét về mặt lịch sử hình thành Toà án với đúng nghĩa của nó
như hiện nay thì “Toà án xuất hiện ở Việt Nam lần đầu tiên từ thời Pháp
thuộc, do ảnh hưởng của nền tư pháp chính quốc” [48, tr.547]. Loại hình toà
án ở thời kỳ này rất phức tạp về hình thức vì khi đó ở nước ta tồn tại đồng
thời hai hệ thống chính quyền: chính quyền đô hộ của thực dân Pháp và chính
quyền phong kiến bản xứ. Trải qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất
nước nói chung và của ngành Toà án nói riêng, các quy định về ngành Toà án
nhân dân đã nhiều lần được cải cách, sửa đổi và ngày càng khẳng định rõ hơn
vị trí, vai trò quan trọng của ngành trong hệ thống các cơ quan tư pháp cũng
như trong đời sống xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN.
Tóm lại, Toà án là cơ quan xét xử của nhà nước, nó có vai trò và vị trí
hết sức quan trọng trong việc duy trì, bảo vệ sự tôn trọng và thực thi pháp luật
trong đời sống xã hội. Bằng hoạt động xét xử của mình, Toà án đảm bảo
không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội và là “trung gian” để giải
quyết các tranh chấp khác trong đời sống dân sự, kinh tế, thương mại và các
tranh chấp khác thuộc thẩm quyền. Đồng thời, toà án còn có vị trí, vai trò
quan trọng trong kết quả hoạt động của cả hệ thống các cơ quan tư pháp nói
chung, chính vì thế trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “Toà
án là trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, hoạt động xét xử là
trọng tâm của hoạt động tư pháp” [2]
1.2. Một số vấn đề lý luận về Thẩm phán
19
1.2.1. Khái niệm Thẩm phán
Điều 1 Pháp lệnh TP&HTTAND năm 2002 quy định : “Thẩm phán là
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử
những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án”.
Như vậy, Thẩm phán là những công chức nhà nước được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án hình sự, dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại, hành chính, lao động và giải
quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án.
Thẩm phán là những người thay mặt cho Nhà nước sử dụng quyền lực
nhà nước để đưa ra các phán quyết nhằm giải quyết sự tranh chấp giữa các
bên hoặc phán quyết việc áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật trong các vụ án thuộc thẩm quyền, đảm bảo sự tôn trọng và
thực thi pháp luật trong đời sống xã hội, đảm bảo bất kỳ hành vi vi phạm
pháp luật nào cũng bị xử lý: “không để lọt tội phạm” và “không xử oan người
vô tội”. Chính vì thế, trong xã hội người ta đã tôn vinh “thẩm phán là người
thầy của cuộc sống”.
Hiện nay, theo quy định của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam thì việc nhiệm kỳ của một thẩm phán thường được quy định trong một
khoảng thời gian nhất định. ở Việt Nam nhiệm kỳ của thẩm phán là 5 năm,
Hàn Quốc nhiệm kỳ của thẩm phán là 10 năm. Tuy nhiên, cũng có nhiều nước
nhiệm kỳ của thẩm phán là không thời hạn họ chỉ bị miễn nhiệm khi vi phạm
các quy định của pháp luật ví dụ ở úc thẩm phán toà án liên bang được bổ
nhiệm cho tới khi họ 70 tuổi (đến khi nghỉ hưu).
1.2.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán
“Thẩm phán, người thầy cuộc sống” đó là câu nói nổi tiếng của
Visanhsky, một trong những người xây ngành Tư pháp Nga sau cách mạng
Tháng Mười. Gần 100 năm nay, điều Ông nói vẫn đúng, lời nói đó vượt qua
mọi ranh giới quốc gia và khoảng cách về thời gian.
20
Theo quan điểm của Visanhsky, giữa người với người có bao nhiêu
mối quan hệ thì có bấy nhiêu điều luật, do vậy hiểu luật hoàn toàn khác với
thuộc luật. Vì thế, một thẩm phán với tư duy tốt, với sự cần mẫn tìm hiểu,
nghiên cứu nghiền ngẫm luật pháp, sự việc và con người, luôn luôn suy luận
về con người và các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với tổ chức, tập thể và giữa con người trong cộng đồng xã hội; đắm
mình vào việc tìm ra phải trái, đúng sai, tốt xấu trong đời sống xã hội đó
chính là sự tu dưỡng thường xuyên để ngày càng hoàn thiện mình, và như vậy
họ luôn phải tâm niệm ngành Toà án là ngành tổng hợp thì người Thẩm phán
mới hiểu sâu sắc về luật và việc áp dụng luật mới đúng đắn và chặt chẽ.
Trong quá trình xét xử Thẩm phán vừa có trách nhiệm tìm hiểu vụ việc, từng
con người với những mối quan hệ liên quan đến vụ án để đưa ra phán quyết,
bản án thực hiện trách nhiệm và quyền xét xử của mình nhưng đồng thời họ
cần phải làm sao cho phán quyết, bản án của mình được mọi người “tâm
phục, khẩu phục” để không những mang tính phòng ngừa riêng mà nó còn có
tác dụng phòng ngừa chung, giáo dục mọi người ý thức trách nhiệm sống tôn
trọng và tuân thủ theo pháp luật .
Người Thẩm phán nếu ý thức được trách nhiệm, quyền hạn của mình
và có lòng yêu nghề nghiệp, lao tâm, khổ tứ, trải nghiệm nhiều trong thực tế
xét xử, không ngừng tu dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để nhận ra vị
trí, vai trò của mình trong xã hội, được xã hội tôn vinh khi đó họ đang dần
tiến đến cái bục “Người thầy cuộc sống”.
Xã hội ngày càng phát triển, các mối quan hệ xã hội ngày càng nhiều
và diễn ra ngày càng phức tạp thì khi xảy ra tranh chấp hay có sự vi phạm
pháp luật càng đòi hỏi ngành tư pháp phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động của mình. Với quan niệm “án tại hồ sơ” vụ án, đặc biệt là vụ án hình sự
được đưa ra xét xử là kết quả công tác của các ngành điều tra, tuy tố, do đó
một trong các khâu này mà yếu, hạn chế hoặc làm sai lệch vụ án thì việc xét
21
xử gần như thất bại. Chính vì thế trong pháp luật tố tụng hiện nay, tranh tụng
và kết quả tranh tụng tại toà án đang là vấn đề được xã hội hết sức quan tâm
và đòi hỏi ngành tư pháp đặc biệt là các Thẩm phán phải thực hiện tốt hơn
nữa các quy định về thủ tục tranh tụng và sử dụng kết quả tranh tụng tại toà.
Điều này đang đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng và hơn hết là thẩm phán, chủ toạ phiên toà phải làm gì, sẽ tổ chức tranh
tụng tại toà như thế nào; việc xem xét chứng cứ, bằng chứng, luận cứ để lý
giải chứng minh cho các tình tiết của vụ án để làm sáng tỏ vụ án mà các bên
tham gia tranh tụng đưa ra sẽ được thẩm phán xử lý như thế nào là vấn đề hết
sức quan trọng để trên cơ sở đó đưa ra phán quyết cuối cùng của Toà án để
giải quyết vụ án.
Trong một vụ án, việc xét xử thành công hay thất bại phụ thuộc vào rất
nhiều giai đoạn của quá tình tố tụng, nhưng quan trọng nhất là hai giai đoạn:
Một là, việc dựng lại toàn bộ sự việc trên cơ sở các chứng cứ trong hồ sơ
được đưa ra xem xét, tranh luận công khai tại phiên toà được người tham gia
tố tụng thừa nhận, được nhân dân tán thành, ủng hộ như thế là thành công.
Hai là, tìm đúng điều luật để áp dụng nhằm giải quyết vụ án, xác định được
sự thật, đúng, sai, những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ, động cơ của các
hành vi trong vụ án là gì, yếu tố lỗi chủ quan của các bên trong vụ án như thế
nào, từ đó thẩm phán, hội đồng xét xử đưa ra phán quyết để mọi người “tâm
phục, khẩu phục” đó là thành công. Do vậy, việc xét xử trước “Công đường”,
tổ chức tranh tụng và sử dụng kết quả tranh tụng như thế nào phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng, vai trò của người thẩm phán, bởi lẽ họ phải biết điều
khiển dẫn dắt việc tranh tụng để tranh tụng diễn ra một cách có trật tự, đi
đúng trọng tâm những vấn đề mấu chốt, những điểm còn mâu thuẫn cần làm
rõ của vụ án. Thông qua kết quả tranh tụng, thẩm phán đánh giá khách quan
toàn diện và bản chất của vụ án, các chứng cứ, các lý lẽ, lập luận của các bên,
22
trên cơ sở đó căn cứ vào các quy định của pháp luật để đưa ra các phán quyết
đúng đắn.
Bởi thế vai trò của người Thẩm phán không chỉ dừng lại ở việc đưa vụ
án ra xét xử đúng thời gian luật định, đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng
được đưa ra chứng cứ, tài liệu và những luận cứ khoa học, pháp lý để bảo vệ
lẽ phải, bảo vệ chân lý, sự thật của vụ án mà xét xử tại toà án còn là môi
trường thực tế hữu hiệu nhất để giáo dục cá nhân, tổ chức sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật. Đối với xã hội ta hiện nay, khi chúng ta đang cố
gắng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN thì đây càng là vấn đề quan
trọng và cần thiết vì trình độ pháp luật, ý thức của người dân chưa cao, họ chỉ
lấy kết quả phán quyết của Toà và chuẩn mực đạo đức xã hội để so sánh để
làm mẫu mực cho mọi hành động của mình.
Với nhiệm vụ thực hiện cải cách tư pháp hiện nay thì việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng theo pháp luật tố tụng tiên tiến trên thế
giới đặc biệt là các quy định về tính “độc lập” và tố tụng tranh tụng tại Toà án
đang được Đảng, Nhà nước và ngành tư pháp hết sức quan tâm coi đây là
nhiệm vụ có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong công tác xét xử. Nghị
quyết 49-NQ/TW đã khẳng định: “nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ
quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Do đó, Thẩm phán hơn lúc nào hết phải
phát huy tối đa vị trí, vai trò của mình trong kết quả hoạt động của cơ quan tư
pháp. Trong xét xử Thẩm phán phải quyết định với đầu óc không thiên vị
đồng thời phải triệt để tuân thủ những nguyên tắc pháp lý đã được pháp luật
thiết lập, thẩm phán phải đưa ra các phán quyết độc lập và phải cho biết rõ lý
do của quyết định đó.
Như vậy, với việc đề cao tố tụng tranh tụng thì tính “độc lập chỉ tuân
theo pháp luật” và “niềm tin nội tâm” của thẩm phán ngày càng có vị trí, vai
trò quan trọng. Nói cách khác, trong quá trình xét xử các phán quyết của
23
Thẩm phán phải không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ áp lực nào, ngoại trừ trí tuệ,
và lương tâm để đánh giá trung thực, khách quan các bằng chứng, các tình tiết
của vụ án và việc áp dụng các quy định pháp luật để xét xử vụ án. Do đó,
trong xét xử và đặc biệt là việc tranh tụng tại Toà thì vai trò, tính “độc lập chỉ
tuân theo pháp luật” của Thẩm phán càng phải được phát huy hơn bao giờ hết,
khi đó Thẩm phán như là một trọng tài không thiên vị, một người phán xử
trung lập, Thẩm phán nghe và tạo điều kiện cho các bên cơ hội thích hợp để
trình bày chứng cứ, luận điểm để chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết của vụ
án tại phiên toà, trên cơ sở đó thẩm phán đưa ra các phán quyết cuối cùng một
cách công tâm nhất.
Kinh nghiệm các nước cho thấy để thẩm phán thực hiện, phát huy tính
“độc lập” không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan, tổ chức nào thì bao giờ cũng
được pháp luật quy định rất rõ chức năng, trách nhiệm và quyền hạn của thẩm
phán, cơ chế, điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện tính độc lập chỉ tuân theo
pháp luật của thẩm phán, ví dụ:
ở Hàn Quốc, để đảm bảo cho các thẩm phán không lệ thuộc vào bất cứ
cơ quan nào khác của Nhà nước, các thẩm phán được pháp luật quy định:
quyền bất khả bãi miễn thẩm phán, quyền tài phán, không thẩm phán nào có
thể bị sa thải khỏi cơ quan trừ khi bị buộc tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Các thẩm phán không bị đình chỉ công tác, hạ bậc lương hoặc bị kỷ
luật nếu chưa có Quyết định kỷ luật của Hội đồng kỷ luật tư pháp được thành
lập tại Toà án tối cao.
ở MaLayxia, các Thẩm phán đảm nhiệm công việc cho tới 65 tuổi, nếu
như không bị sa thải do những hành vi sai trái. Lương của Thẩm phán được
quy định bằng văn bản riêng do Nhà vua ban hành sau khi tham khảo ý kiến
của Chánh án Toà án tối cao. Chỉ có thẩm phán mới có quyền tài phán. Với
tính chất độc lập của mình, cơ qua tư pháp không phải chịu một sự kiểm sát
nào của cơ quan hành pháp, trừ cơ sở vật chất, nhân viên do Bộ Tư pháp quản