Tải bản đầy đủ (.pdf) (539 trang)

Giáo trình luật tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.7 MB, 539 trang )

1


1390-2019/CXBIPH/21-14/CAND
2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Giáo trình
(Tái bản lần thứ 19)

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2019

3


Chủ biên
TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

Tập thể tác giả
1. TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH

Chƣơng I, III, IV,
V, VI, X

2. TS. NGUYỄN TRIỀU DƢƠNG

Chƣơng XIV


3. TS. LÊ THU HÀ

Chƣơng VIII

4. PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

Chƣơng IX

5. PGS.TS. BÙI THỊ HUYỀN

Chƣơng XI

6. TS. TRẦN PHƢƠNG THẢO

Chƣơng XII

7. TS. HOÀNG NGỌC THỈNH

Chƣơng VII

8. PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN

Chƣơng II

9. PGS.TS. BÙI THỊ HUYỀN
& PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN

Chƣơng XIII

4



LỜI GIỚI THIỆU
Luật tố tụng dân sự là ngành luật có vị trí quan trọng
trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trong chương trình đào tạo đại học của Trường
Đại học Luật Hà Nội, môn học luật tố tụng dân sự Việt Nam
được xác định là một môn học chuyên ngành cơ bản. Để đáp
ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu luật tố tụng dân sự của cán
bộ, giảng viên, học viên và các đối tượng khác, Trường Đại
học Luật Hà Nội đã tổ chức biên soạn "Giáo trình luật tố tụng
dân sự Việt Nam".
Nội dung giáo trình gồm có hai phần: Phần những vấn đề
chung về luật tố tụng dân sự và phần thủ tục giải quyết các vụ
việc dân sự. Trong đó, tập thể tác giả đã cố gắng trình bày, lý
giải những vấn đề lý luận cơ bản về luật tố tụng dân sự kết hợp
với việc giới thiệu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam. Giáo trình này đã được các nhà khoa học như
GS.TS. Lê Minh Tâm, PGS.TS. Đinh Văn Thanh, TS. Đinh Trung
Tụng và PGS.TS. Phan Hữu Thư đọc và cho ý kiến. Tuy vậy,
do được biên soạn và sửa đổi trong điều kiện hệ thống pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam đang được hoàn thiện, nhiều vấn
đề về tố tụng dân sự vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ và
5


chờ sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền nên Giáo trình này
không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong nhận
được sự góp ý của bạn đọc.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

6


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
BLLĐ
BLTTDS
BPKCTT
HĐTPTANDTC
LHN&GĐ
LLS
LSĐBSBLTTDS
LTM
LTTTM
LTCTAND
LTCVKSND
PLAPLPTA
PLKSVVKSND
PLTP&HTTAND
PLTTGQCVADS
PLTTGQCVAKT
PLTTGQCTCLĐ
TANDTC
VKSNDTC

Bộ luật dân sự
Bộ luật lao động
Bộ luật tố tụng dân sự

Biện pháp khẩn cấp tạm thời
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Luật hôn nhân và gia đình
Luật luật sƣ
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
tố tụng dân sự
Luật thƣơng mại
Luật trọng tài thƣơng mại
Luật tổ chức toà án nhân dân
Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án
Pháp lệnh kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân
Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm toà án nhân dân
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động
Toà án nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7


8


PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

CHƢƠNG I
KHÁI NIỆM VÀ NGUYÊN TẮC
CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU
CHỈNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm luật tố tụng dân sự Việt Nam
Quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động
lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy ở những
mức độ khác nhau nhƣng pháp luật của các quốc gia trên thế giới
đều công nhận và bảo hộ quyền, lợi ích chính đáng của các chủ
thể. Quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể không trái pháp luật
đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ đƣợc gọi là quyền, lợi ích hợp pháp.
Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Khi tham
gia vào các quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền,
nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền,
lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Để duy trì
trật tự xã hội, Nhà nƣớc thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức
9


hay chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có
quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ
quyền, lợi ích đó nhƣ yêu cầu ngƣời có hành vi trái pháp luật chấm
dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu toà án hoặc cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Căn cứ vào Điều 2 Luật tổ chức toà án nhân dân (LTCTAND)
năm 2014 thì toà án là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. Toà án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động
của mình, toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ
quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc
của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các
vi phạm pháp luật khác. Do vậy, khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trƣờng hợp có vi phạm hoặc
có tranh chấp thì toà án phải xem xét thụ lí giải quyết để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại và
lao động do toà án giải quyết đƣợc gọi là vụ việc dân sự. Trong đó,
đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các
bên đƣợc gọi là vụ án dân sự; đối với những việc không có tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đƣợc gọi là việc dân sự.
Quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự là
quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của toà án,
viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, đƣơng sự, ngƣời đại
diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch,
ngƣời định giá tài sản, ngƣời thẩm định giá tài sản (sau đây gọi
chung là ngƣời định giá tài sản) và những ngƣời có liên quan đến
việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhƣ cá nhân, cơ
quan, tổ chức lƣu giữ các chứng cứ tài liệu của vụ việc dân sự
10


v.v..(1) Các chủ thể này tham gia vào quá trình này với những mục
đích, động cơ, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau và giữa họ nảy sinh

các quan hệ khác nhau nhƣ quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ
quan thi hành án dân sự với đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự,
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm
chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch và ngƣời liên quan; quan
hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với nhau
và quan hệ giữa các đƣơng sự với ngƣời liên quan. Để bảo đảm việc
giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đƣợc nhanh
chóng, đúng đắn; bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nƣớc, pháp luật quy định cụ thể
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ đó.
Trong khoa học pháp lý, trình tự do pháp luật quy định cho việc giải
quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đƣợc gọi là “tố tụng dân
sự”. Hoạt động của các chủ thể nêu trên tiến hành trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo quy định của
pháp luật đƣợc gọi là hoạt động tố tụng dân sự. Tuy vậy, hiện nay
vẫn có ý kiến cho rằng hoạt động thi hành án dân sự không phải là
hoạt động tố tụng dân sự vì công tác thi hành án dân sự do cơ quan
thi hành án dân sự tổ chức.(2) Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của
các bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) do Nhà nƣớc ta đã ban hành
thì tố tụng dân sự bao gồm khởi kiện, hoà giải, xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành bản án, quyết
định của toà án nên thi hành án dân sự phải đƣợc coi là một giai
đoạn của tố tụng dân sự. Từ đó, tập hợp các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự thành
ngành luật đƣợc gọi là luật tố tụng dân sự. Từ đó, có thể định
nghĩa luật tố tụng dân sự nhƣ sau:
(1). Sau đây gọi tắt là ngƣời liên quan.
(2).Xem: Viện nghiên cứu khoa học pháp lí, Bộ tƣ pháp, Luận cứ khoa học và thực
tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn
mới, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nƣớc, 2003, tr. 13; Viện nhà nƣớc và pháp

luật, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Những quan điểm cơ bản về
Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 2001, tr. 63.

11


Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống
pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm
hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và
thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.
2. Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam
Quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự phát
sinh nhiều quan hệ khác nhau giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan
thi hành án dân sự, đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng,
ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch, ngƣời định giá tài sản và
ngƣời liên quan. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ của mình, luật tố
tụng dân sự Việt Nam đã điều chỉnh các quan hệ này bằng việc
quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể khi
tham gia quan hệ, buộc các chủ thể phải thực hiện các hành vi tố
tụng của mình phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc. Từ đó, có thể rút
ra kết luận sau:
Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam là các
quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự,
đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch, người định giá tài sản và người liên quan phát
sinh trong tố tụng dân sự.

Các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự
Việt Nam bao gồm nhiều loại:
- Các quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án
dân sự với đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng,
ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch, ngƣời định giá tài sản và
ngƣời liên quan;
12


- Các quan hệ giữa toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án
dân sự với nhau;
- Các quan hệ giữa các đƣơng sự với những ngƣời liên quan.
Các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân
sự có đặc điểm chỉ phát sinh trong tố tụng, việc thực hiện mục
đích của tố tụng là động lực thiết lập các quan hệ. Ngoài ra, các
quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự đa
dạng, hình thành giữa các chủ thể có địa vị pháp lý khác nhau.
Trong đó, toà án, cơ quan thi hành án dân sự là các chủ thể có vai
trò mang tính quyết định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân
sự và tổ chức thi hành án dân sự.
Trong số các quan hệ thuộc đối tƣợng điều chỉnh của luật tố
tụng dân sự thì các quan hệ giữa toà án và các đƣơng sự chiếm đa
số bởi toà án và các đƣơng sự là hai chủ thể tố tụng dân sự cơ bản
của vụ việc dân sự, ở bất kỳ vụ việc dân sự nào cũng đều phát sinh
các quan hệ này.
3. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự Việt Nam
Luật tố tụng dân sự là ngành luật cụ thể của hệ thống pháp luật
Việt Nam, luật tố tụng dân sự khác các ngành luật khác không chỉ
ở đối tƣợng điều chỉnh mà còn ở cả phƣơng pháp điều chỉnh của

nó. Phƣơng pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là tổng hợp
những cách thức mà luật tố tụng dân sự tác động lên các quan hệ
thuộc đối tƣợng điều chỉnh của nó.
Phƣơng pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự cũng phụ thuộc
vào tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tƣợng
điều chỉnh của nó nhƣ phƣơng pháp điều chỉnh của các ngành luật
khác. Do đối tƣợng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự cơ bản là
quan hệ giữa các cơ quan nhà nƣớc có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật
nhƣ toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với những
ngƣời tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành
án dân sự nhƣ đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời
13


giám định, ngƣời phiên dịch nên luật tố tụng dân sự điều chỉnh các
quan hệ này bằng hai phƣơng pháp mệnh lệnh và định đoạt.
Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố
tụng bằng phƣơng pháp mệnh lệnh thể hiện ở chỗ quy định địa vị
của toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự và các chủ thể
khác trong tố tụng không giống nhau; các chủ thể khác đều phải
phục tùng toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự. Các
quyết định của toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự
có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác phải thực hiện, nếu
không sẽ bị cƣỡng chế thực hiện. Sở dĩ pháp luật tố tụng dân sự quy
định nhƣ vậy là xuất phát ở chỗ toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi
hành án dân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, giải quyết vụ việc dân
sự, tổ chức thi hành án dân sự và kiểm sát các hoạt động tố tụng. Để
thực hiện đƣợc chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan này
phải có những quyền lực pháp lý nhất định đối với các chủ thể tố

tụng khác. Do đó, ở các quan hệ do luật tố tụng dân sự điều chỉnh
không có sự bình đẳng giữa toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi
hành án dân sự với các chủ thể khác.
Tuy vậy, ngoài phƣơng pháp mệnh lệnh, luật tố tụng dân sự
còn điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng bằng phƣơng
pháp định đoạt vì các quan hệ pháp luật nội dung toà án có nhiệm
vụ giải quyết trong các vụ việc dân sự là các quan hệ dân sự, kinh
doanh, thƣơng mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể
của các quan hệ này có quyền tự quyết định quyền lợi của mình
khi tham gia vào các quan hệ đó. Trong vụ việc dân sự, các chủ
thể đó là đƣơng sự. Do vậy, để bảo đảm quyền tự quyết định
quyền lợi của các đƣơng sự trong tố tụng, luật tố tụng dân sự điều
chỉnh các quan hệ giữa toà án với các đƣơng sự phát sinh trong
quá trình tố tụng bằng phƣơng pháp định đoạt. Theo đó, các đƣơng
sự đƣợc tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ
trƣớc toà án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh
chấp các đƣơng sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án giải
quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành
14


án dân sự, các đƣơng sự vẫn có thể thƣơng lƣợng, dàn xếp, thoả
thuận giải quyết những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi
kiện, tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa.
Như vậy, luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong quá trình tố tụng bằng hai phƣơng pháp mệnh lệnh và định
đoạt. Trong đó, phƣơng pháp điều chỉnh chủ yếu nhất là phƣơng
pháp mệnh lệnh.
II. NHIỆM VỤ VÀ NGUỒN CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN
SỰ VIỆT NAM

1. Nhiệm vụ của luật tố tụng dân sự Việt Nam
Pháp luật là công cụ pháp lý để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát
triển. Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc đƣợc đƣa vào
cuộc sống một phần là nhờ các quy định của pháp luật. Đảng và
Nhà nƣớc ta chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển kinh tế, phát huy dân
chủ, tăng cƣờng kỷ cƣơng, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa làm cho dân giàu, nƣớc mạnh thì pháp luật càng có vai
quan trọng. Là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
với chức năng là điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng
dân sự, luật tố tụng dân sự Việt Nam có nhiệm vụ bảo đảm thực
hiện những nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nƣớc ta đã đề ra.
Hiện tại, nhiệm vụ của luật tố tụng dân sự Việt Nam đã đƣợc quy
định trong nhiều văn bản pháp luật tố tụng dân sự. Tại Điều 1
BLTTDS năm 2015 quy định: “Bộ luật tố tụng dân sự quy định
những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục
khởi kiện để toà án nhân dân (sau đây gọi là toà án) giải quyết
các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự)
và trình tự, thủ tục yêu cầu để toà án giải quyết các việc về yêu
cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải
15


quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân
sự) tại toà án... nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Bộ
luật tố tụng dân sự bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật”. Theo quy định này thì luật tố tụng dân sự Việt Nam có
những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thể chế hoá quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà
nƣớc ta về cải cách hành chính, cải cách tƣ pháp. Để không ngừng
nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự, đáp ứng đƣợc
những yêu cầu mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
trong giai đoạn hiện nay luật tố tụng dân sự Việt Nam phải thể chế
hoá đƣợc quan điểm, đƣờng lối của Đảng trong Nghị quyết của Bộ
chính trị số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020; Kết luận của Bộ chính trị số 92-KL/TW ngày
12/3/2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW,
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp
đến năm 2020 v.v.. Bên cạnh đó, luật tố tụng dân sự Việt Nam
cũng phải thể chế hoá đƣợc quan điểm, đƣờng lối của Đảng trong
các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
Thứ hai, quy định quy trình tố tụng dân sự thật sự khoa học
làm cho các hoạt động giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân
sự và tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể tố tụng có nhiều
thuận lợi. Bên cạnh đó, cũng tạo ra đƣợc cơ chế kiểm sát, giám sát
hoạt động tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng dân sự có
hiệu quả, bảo đảm các hoạt động tố tụng dân sự tiến hành đƣợc
đúng đắn. Qua đó, bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự và
thi hành án dân sự đƣợc nhanh chóng, chính xác, công minh, đúng
pháp luật và bảo đảm đƣợc quyền bảo vệ của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự.
16



Thứ ba, bảo đảm cho toà án xử lý đƣợc nghiêm minh các hành
vi trái pháp luật; bảo đảm việc thi hành đƣợc các bản án, quyết
định dân sự của toà án. Trên cơ sở đó, ngăn chặn và khắc phục kịp
thời hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ đƣợc lợi ích của Nhà nƣớc, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đồng thời giáo
dục đƣợc mọi ngƣời nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Ngoài các nhiệm vụ cơ bản trên, luật tố tụng dân sự Việt Nam
còn có nhiệm vụ bảo đảm phát huy dân chủ trong tố tụng dân sự;
tạo điều kiện cho mọi ngƣời đóng góp đƣợc nhiều sức lực và trí
tuệ vào các công việc của Nhà nƣớc và xã hội. Trong đó, có cả
việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
2. Nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam
Trong tiếng Việt, thuật ngữ “nguồn” đƣợc hiểu là nơi bắt đầu,
nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều
gì.(1) Nguồn luật đƣợc hiểu là nơi rút ra các quy tắc xử sự của các
chủ thể trong xã hội do Nhà nƣớc quy định. Các văn bản pháp
luật là một trong những hình thức thể hiện ý chí của Nhà nƣớc
trong quản lý xã hội nên đƣợc coi là nguồn luật cơ bản. Nguồn
của luật tố tụng dân sự Việt Nam bao gồm các văn bản pháp luật
do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành có chứa đựng các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa toà án,
viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự, ngƣời tham gia tố tụng
và ngƣời liên quan phát sinh trong tố tụng dân sự. Các văn bản
pháp luật là nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay bao
gồm nhiều loại nhƣ Hiến pháp, BLTTDS, LTCTAND, Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân (LTCVKSND) và các văn bản pháp
luật khác.
- Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nƣớc, quy định về chế
(1).Xem: Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr. 692.


17


độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc, thể chế hoá mối quan hệ giữa
Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và nhà nƣớc quản lý. Các văn
bản pháp luật khác đƣợc nhà nƣớc ban hành nhằm cụ thể hoá các
quy định của Hiến pháp. Hiến pháp là một nguồn quan trọng của
luật tố tụng dân sự. Trong Hiến pháp có nhiều quy định về
nguyên tắc của hoạt động tố tụng dân sự nhƣ quy định về hoạt
động xét xử của toà án có hội thẩm nhân dân tham gia; thẩm
phán, hội thẩm nhân dân khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; toà án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa
số (Điều 103) v.v.. Trên cơ sở những quy định này của Hiến
pháp, các văn bản pháp luật tố tụng dân sự quy định cụ thể trình
tự, thủ tục tố tụng dân sự.
- BLTTDS là nguồn chủ yếu nhất và quan trọng nhất của luật
tố tụng dân sự. Trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự thì
BLTTDS là văn bản pháp luật tố tụng dân sự có hiệu lực cao nhất,
có phạm vi điều chỉnh rộng nhất, quy định trực tiếp và có hệ thống
về tất cả các vấn đề của tố tụng dân sự.
- LTCTAND và LTCVKSND chủ yếu quy định về tổ chức của
toà án, viện kiểm sát. Tuy vậy, trong LTCTAND, LTCVKSND
cũng có nhiều quy định về nguyên tắc hoạt động của toà án, viện
kiểm sát trong tố tụng dân sự nên các văn bản pháp luật này cũng
là một trong các nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam.
- Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án (PLAPLPTA) quy định về các
loại án phí, lệ phí, nguyên tắc thu nộp án phí lệ phí v.v..

- Các văn bản pháp luật khác nhƣ Bộ luật dân sự (BLDS), Bộ
luật lao động (BLLĐ), Luật hôn nhân và gia đình (LHN&GĐ),
Luật thƣơng mại (LTM), Luật trọng tài thƣơng mại (LTTTM) v.v.
tuy không phải là các văn bản tố tụng dân sự nhƣng vẫn có những
quy định về tố tụng dân sự. Ngoài ra, Nghị quyết của Quốc hội số
18


103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 về việc thi hành BLTTDS, Nghị
quyết của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí toà án, Nghị quyết của HĐTP
TANDTC số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 hƣớng dẫn thi
hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày
25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS và Nghị quyết
số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành
Luật tố tụng hành chính; Thông tƣ liên tich số 02/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC ngày 31/8/2016 của TANDTC và
VKSNDTC quy định việc phối hợp giữa VKSND và TAND trong
việc thi hành một số quy định của BLTTDS v.v.. cũng là một
trong các nguồn của luật tố tụng dân sự Việt Nam.
III. SƠ LƢỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1. Giai đoạn trước năm 1945
Trƣớc thời Pháp thuộc, do nền kinh tế phong kiến lạc hậu, kém
phát triển nên pháp luật cũng chƣa phát triển. Trong các văn bản
pháp luật đƣợc ban hành chƣa có sự phân biệt rõ các lĩnh vực về
hành chính, dân sự, hình sự và tố tụng. Qua các văn bản pháp luật
còn lƣu giữ đến ngày nay cho thấy các quy định về tố tụng dân sự
của nhà nƣớc phong kiến chịu ảnh hƣởng rất lớn của quan điểm
nho giáo, ghi nhận cả những hủ tục, tập quán lạc hậu nhƣ hạn chế

quyền đi kiện của con cháu đối với ông, bà, cha, mẹ; vợ đối với
chồng (từ Điều 504 đến Điều 511 Quốc triều hình luật); không
cho mƣợn ngƣời đi kiện thay, nếu ai tự tiện mƣợn ngƣời đi kiện
thay thì ngƣời mƣợn và ngƣời đi kiện thay phải chịu hình phạt
nhƣ nhau, bị xử đánh roi, xích sắt khoá lại bắt làm phu phục dịch
một tháng.(1)
(1).Xem: Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp
thuộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 164, 168.

19


Dƣới thời kỳ Pháp thuộc, tổ chức tƣ pháp ở nƣớc ta rất phức
tạp. Sau bản Hoà ƣớc Giáp Thân ngày 06/6/1884 đƣợc ký kết,
nƣớc Việt Nam về phƣơng diện pháp lý đã trở thành thuộc địa của
Pháp. Bên cạnh các toà án của Việt Nam còn có các toà án của
Pháp đƣợc thiết lập ở Nam Kỳ và các thành phố khác nhƣ Hà Nội,
Hải Phòng, Vinh, Nam Định. Toà án của Pháp có thẩm quyền xét
xử tất cả các việc có liên quan đến ngƣời Pháp, hoặc ngƣời nƣớc
ngoài đƣợc ƣu đãi nhƣ ngƣời Pháp. Toà án của Việt Nam chỉ có
thẩm quyền giải quyết những việc xảy ra giữa ngƣời Việt Nam với
nhau. Tuy vậy, trong thời kỳ này pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam bƣớc đầu đã có sự phát triển. Những năm đầu thế kỷ XX,
chính quyền phong kiến Việt Nam đã ban hành đƣợc hàng loạt các
văn bản pháp luật có quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc
dân sự nhƣ Bộ Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân
sự, thƣơng sự tố tụng Bắc kỳ năm 1921, Bộ Trung kỳ pháp viện
biên chế năm 1935, Bộ luật dân sự, thƣơng sự tố tụng Trung kỳ
năm 1935 v.v.. Nhìn chung, các văn bản pháp luật này đã quy định
tƣơng đối đầy đủ, cụ thể đƣợc các vấn đề về tố tụng dân sự, có tính

đến điều kiện lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ. Tuy vậy, chúng vẫn
còn mang tƣ tƣởng phong kiến lạc hậu và nhiều dấu ấn của Bộ luật
tố tụng dân sự năm 1806 của Pháp.
2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra trang
sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, lập ra nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Từ ngày đầu đƣợc thành lập, Nhà nƣớc ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật mới. Trong đó có nhiều văn bản
có chứa đựng các quy phạm tố tụng dân sự nhƣ Sắc lệnh số 34/SL
ngày 13/4/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tƣ pháp;
Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 quy định tổ chức các đoàn thể luật
sƣ; Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho giữ tạm các luật lệ
hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ
luật pháp duy nhất cho toàn quốc, nếu những quy định trong luật lệ
20


cũ không trái với nguyên tắc độc lập của nƣớc Việt Nam và chính
thể dân chủ cộng hoà; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 ấn định
thẩm quyền các toà án; Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 mở
rộng quyền bào chữa cho các đƣơng sự; Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng v.v.. Tuy
những vấn đề về tố tụng dân sự còn đƣợc các văn bản đó quy định
tản mạn nhƣng đây là những quy định mang tính nguyên tắc đặt
nền móng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật tố tụng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta kết
thúc thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhƣng miền Nam
vẫn bị đặt dƣới sự thống trị của đế quốc Mỹ và chính quyền bù
nhìn Sài Gòn cho tới năm 1975. Thời gian đầu chính quyền Sài

Gòn vẫn áp dụng những văn bản pháp luật tố tụng đƣợc ban hành
dƣới thời Pháp thuộc nhƣ Nghị định ngày 16/3/1910, Dụ số 4 ngày
02/4/1953 về Luật nhà phố nhƣng có sử dụng các quy định của Bộ
dân sự tố tụng Pháp 1806 để giải thích những thiếu sót. Từ năm
1960 trở đi, chính quyền Sài Gòn đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật tố tụng dân sự mới. Ngày 8/01/1962, ban hành Luật số I/62 về
quy chế luật sƣ và tổ chức luật sƣ đoàn; ngày 5/6/1970, ban hành
Sắc lệnh số 72/SL/CCDD/PTNNN quy định về thủ tục tố tụng của
những vụ kiện điền địa; ngày 20/12/1972, ban hành Bộ luật dân
sự, thƣơng sự tố tụng. Nhìn chung các quy định pháp luật tố tụng
dân sự của chính quyền Sài Gòn khá cụ thể, đã có những tiến bộ so
với pháp luật tố tụng dân sự của chính quyền phong kiến Việt Nam
trƣớc đó. Tuy vậy, chúng cũng chỉ tập trung bảo vệ lợi ích của
chính quyền tay sai, phản động.
Ở miền Bắc, từ những năm đầu hoà bình lập lại Nhà nƣớc ta đã
ban hành hàng loạt văn bản pháp luật tố tụng dân sự mới nhƣ
Thông tƣ của Bộ tài chính và Bộ tƣ pháp số 03/VHC ngày
02/4/1955 sửa đổi tạm thời lệ phí về việc hộ; Nghị định của Bộ lao
động và Bộ tƣ pháp về hoà giải xích mích giữa chủ và ngƣời làm
21


công; Thông tƣ của Bộ tƣ pháp số 1828/VHC ngày 18/10/1955 về
quyền chống án và thời hạn chống án; Thông tƣ của Bộ tƣ pháp số
69/TC ngày 31/12/1958 sửa đổi thẩm quyền của toà án nhân dân
và thủ tục ly hôn v.v.. Sau khi Hiến pháp năm 1959, LTCTAND
năm 1960 và LTCVKSND năm 1960 đƣợc ban hành, Toà án nhân
dân tối cao (TANDTC) đã ban hành nhiều thông tƣ hƣớng dẫn về
công tác xét xử dân sự nhƣ Thông tƣ số 614/DS1 ngày 24/4/1963
hƣớng dẫn một số thủ tục tố tụng cho toà án địa phƣơng, Thông tƣ

số 594/NCPL ngày 27/8/1968 hƣớng dẫn đƣờng lối xét xử các
việc tranh chấp về thừa kế, Thông tƣ số 01/UB ngày 03/3/1969
hƣớng dẫn việc viết bản án sơ thẩm, phúc thẩm hình sự, dân sự;
Thông tƣ số 39/NCPL ngày 21/01/1972 hƣớng dẫn việc thụ lý, di
lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và
tranh chấp về dân sự, Thông tƣ số 06/TATC ngày 25/02/1974
hƣớng dẫn về công tác điều tra trong tố tụng dân sự, Thông tƣ số
25/TATC ngày 30/11/1974 hƣớng dẫn về công tác hoà giải trong
tố tụng dân sự, Thông tƣ số 96/NCPL ngày 8/02/1977 ban hành
Bản hƣớng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự v.v.. Đến năm
1980, sau khi Hiến pháp đƣợc ban hành, nhằm cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật quy định về tố tụng
dân sự cũng đƣợc ban hành nhƣ LTCTAND năm 1981;
LTCVKSND năm 1981; Thông tƣ liên ngành của TANDTC, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và Bộ tƣ pháp số
01/TTLN ngày 01/02/1982 hƣớng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm
hình sự, giám đốc thẩm dân sự ở toà án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ƣơng và tƣơng đƣơng, Thông tƣ liên ngành của
TANDTC, VKSNDTC và Bộ Tƣ pháp số 02/TTLN ngày
01/02/1982 hƣớng dẫn về thủ tục tái thẩm hình sự, tái thẩm dân sự
ở Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng và tƣơng
đƣơng; Thông tƣ của TANDTC số 82/TATC ngày 07/01/1982 tạm
thời quy định về thẩm quyền của toà án nhân dân, Thông tƣ của
TANDTC số 83/TATC ngày 02/8/1982 hƣớng dẫn thủ tục giám
đốc thẩm dân sự ở Toà án nhân dân tối cao; Thông tƣ liên ngành
22


của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tƣ pháp, Bộ lao động và Tổng cục
dạy nghề số 02/TTLN ngày 02/10/1985 hƣớng dẫn thực hiện thẩm

quyền xét xử của toà án nhân dân v.v.. Nhìn chung, các văn bản
pháp luật đƣợc Nhà nƣớc ta ban hành trong thời gian từ 1954 đến
1989 đã quy định đƣợc tƣơng đối đầy đủ, hợp lý các vấn đề về tố
tụng dân sự. Tuy vậy, các vấn đề về tố tụng dân sự vẫn còn đƣợc
quy định tản mạn, chủ yếu đƣợc quy định trong các thông tƣ do
Toà án nhân dân tối cao ban hành nên hiệu lực chƣa cao.
3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004
Năm 1989, Nhà nƣớc đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thi hành án dân sự
đã tạo bƣớc phát triển mới của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Đây là các văn bản pháp luật tố tụng dân sự đầu tiên đƣợc Nhà
nƣớc ta ban hành quy định các vấn đề về tố tụng dân sự có hiệu
lực cao. Tiếp theo đó, nhiều văn bản pháp luật khác cũng đƣợc ban
hành nhƣ LTCTAND năm 1992, LTCVKSND năm 1992, Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế năm 1994 (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động năm 1996 (PLTTGQCTCLĐ) v.v..
Để thể chế hoá đƣờng lối cải cách tƣ pháp của Đảng, sau khi sửa
đổi Hiến pháp năm 1992 Nhà nƣớc ta đã ban hành LTCTAND
năm 2002, LTCVKSND năm 2002, Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 2004. Nhƣ vậy, trong giai đoạn này nhiều văn bản pháp luật
có hiệu lực cao quy định về các vấn đề về tố tụng dân sự đã đƣợc
ban hành. Tuy vậy, các quy định này vẫn còn khá tản mạn nhƣ các
giai đoạn trƣớc. Đặc biệt, với sự ra đời của PLTTGQCVAKT năm
1994, PLTTGQCTCLĐ năm 1996 đã dẫn đến các quy định về tố
tụng dân sự bị xé lẻ, thiếu tập trung và có nhiều quy định chồng
chéo, mâu thuẫn.
4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, kinh tế-xã hội Việt
23



Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI đã không ngừng phát
triển. Tuy vậy, sự phát triển kinh tế-xã hội cũng đặt ra những yêu
cầu mới về giải quyết các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã
hội. Để góp phần thực hiện thắng lợi đƣờng lối phát triển kinh tếxã hội của Đảng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc giải các
quyết tranh chấp, ngày 15/6/2004, Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua BLTTDS đầu tiên của
nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 5 –
BLTTDS năm 2004. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2005.
BLTTDS năm 2004 của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam gồm 418 điều đƣợc cơ cấu thành chín phần, ba mƣơi sáu
chƣơng. Nội dung của nó đã quy định đƣợc khá đầy đủ các vấn đề
về tố tụng dân sự nhƣ các nguyên tắc cơ bản; thẩm quyền dân sự
của toà án; cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và
ngƣời tham gia tố tụng; chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân
sự; biện pháp khẩn cấp tạm thời; cấp, tống đạt và thông báo các
văn bản tố tụng; án phí, lệ phí và chi phí tố tụng; thời hạn tố tụng,
thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu; thủ tục giải quyết các vụ
việc dân sự; thủ tục thi hành bản án, quyết định của toà án; xử lý
các hành vi cản trở tố tụng; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự;
tƣơng trợ tƣ pháp trong tố tụng dân sự v.v..
Việc ban hành BLTTDS năm 2004 đã đánh dấu bƣớc phát
triển của hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, khắc phục
đƣợc tình trạng tản mạn, mâu thuẫn, khiếm khuyết của các quy
định tố tụng dân sự trƣớc đây đồng thời cũng thể chế hoá đƣợc
quan điểm, đƣờng lối của Đảng về xây dựng pháp luật, cải cách tƣ
pháp đƣợc ghi nhận trong các văn kiện của Đảng nhƣ Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết của
Bộ chính trị số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ƣơng Đảng khoá IX về
một số chủ trƣơng, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện
24


thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Từ
đó, tạo đƣợc những điều kiện thuận lợi cần thiết cho toà án giải
quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự; bảo đảm cho
các cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trƣớc toà án. Theo các quy định của BLTTDS
năm 2004, quy trình tố tụng dân sự tại các toà án có sự thay đổi
căn bản theo hƣớng dân chủ, công khai, minh bạch. Trong đó,
đƣơng sự đƣợc có vai trò quyết định và chủ động trong việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trƣớc toà án. Sau việc ban
hành BLTTDS năm 2004 Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản
hƣớng dẫn thi hành Bộ luật này nhƣ: Nghị quyết của Quốc hội số
32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 về việc thi hành BLTTDS; Nghị
quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội số 742/2004/NQ-UBTVQH11
ngày 24/12/2004 về việc giao thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự
quy định tại Điều 33 BLTTDS cho toà án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh; Pháp lệnh án phí, lệ phí toà án ngày
27/02/2009; Nghị quyết của HĐTPTANDTC số 01/2005/NQ-HĐTP
ngày 31/3/2005 hƣớng dẫn một số quy định trong Phần thứ nhất
“Những quy định chung” của BLTTDS; Nghị quyết của HĐTP
TANDTC số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 hƣớng dẫn thi hành
một số quy định của BLTTDS về “chứng minh và chứng cứ” v.v..
Sau một thời gian thi hành cho thấy nhiều quy định của
BLTTDS năm 2004 vẫn còn bất cập. Để khắc phục tình trạng này,
ngày 29/03/2011 Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khoá XII đã thông qua LSĐBSBLTTDS và có hiệu lực từ
ngày 01/01/2012. LSĐBSBLTTDS đã sửa đổi các quy định của
BLTTDS năm 2004 không còn phù hợp nhƣ về việc tham gia các
phiên toà của viện kiểm sát, thẩm quyền của toà án, quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự, thu thập chứng cứ, thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu v.v.; đã huỷ bỏ các quy định quyền yêu cầu
thi hành án dân sự, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong thi hành án dân sự v.v.. Ngoài ra, Luật này cũng đã bổ sung
25


×