Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÂY DỪA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.06 KB, 6 trang )

ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÂY DỪA
I. RỄ
Dừa có rễ bất định sinh ra liên tục ở phần đáy gốc thân, không có rễ cọc.
Lúc mới mọc có màu trắng sau chuyển sang màu đỏ nâu. Rễ không có
rễ lông hút mà chỉ có những rễ nhỏ là rễ dinh dưỡng. Những rễ nầy hình
thành trên rễ chính và có hoạt động như rễ hô hấp, giúp cho cây trao đổi
khí. Trong điều kiện ngập nước liên tục sẽ ảnh hưởng đến khả năng hô
hấp của bộ rễ, làm cho cây dừa giảm sức tăng trưởng do cây dừa là cây
chịu nước nhưng không chịu ngập. Rễ già sẽ chết và rễ mới phát triển
liên tục.

Tuần đầu tiên sau khi nảy mầm, cây dừa con sẽ mọc ra một rễ cấp 1 có
chiều dài trung bình 5cm, mười ngày sau sẽ mọc ra rễ thứ hai, sau sáu
tuần sẽ có trung bình 3 rễ cấp 1, với chiều dài rễ dài nhất khoảng 20cm.
Khi cây dừa 5 năm tuổi sẽ có khoảng 548 rễ cấp 1 và đạt số lượng 5.200
rễ cấp 1 khi cây 13 năm tuổi. Số lượng rễ cấp 1 ở cây dừa trưởng thành
biến động từ 2.000 đến 16.500 rễ. Hệ thống rễ dừa phần lớn tập trung ở
xung quanh gốc trong vòng bán kính 1,5-2m. Rễ có thể ăn sâu đến 4m,
trong đó 50% rễ tập trung ở 50cm lớp đất mặt.

II. THÂN
Thân dừa mọc thẳng, không phân nhánh, chiều cao trung bình từ 15-
20m. Trong giai đoạn đầu sau khi trồng thân dừa ngắn, phát triển chậm,
cho đến khi chiều ngang phát triển đầy đủ thì thân mới bắt đầu cao lên.
Giai đoạn nầy kéo dài khoảng 4 năm tùy theo giống. Do đặc điểm nầy
mà thân dừa cao chỉ phát triển mạnh sau 4-5 năm. Gốc dừa là một trong
những đặc điểm để phân biệt nhóm giống dừa cao và dừa lùn. Ở nhóm
giống dừa lùn thường có gốc nhỏ, ngược lại ở nhóm giống dừa cao và
dừa lai giữa giống lùn và giống cao thường có gốc phình to đến rất to.
Số sẹo lá trên thân trên 1m chiều cao thân là một trong những đặc điểm
để đánh giá điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây, dựa trên đặc


điểm này làm tiêu chuẩn để chọn giống theo phương pháp truyền thống.
Do cấu tạo của thân không có tầng sinh mô thứ cấp nên những tổn
thương trên thân dừa không thể phục hồi được và đường kính thân cũng
không phát triển theo thời gian nên quan sát một đoạn thân ta có thể
đánh giá tình hình sinh trưởng của cây trong thời gian đó. Đồng thời thân
phát triển từ đỉnh sinh trưởng (củ hủ) nên khi bị đuông tấn công cây sẽ bị
chết.
Tóm lại, thân dừa là đặc điểm dùng để đánh giá sự sinh trưởng của cây.
Thân dừa to, không bị tổn thương, sẹo to, khít là cây dừa sinh trưởng
mạnh, cho năng suất cao.

III. LÁ
Một cây dừa có khoảng 30-35 tàu lá. Mỗi tàu lá dài 5-6m vào thời kỳ
trưởng thành. Ở cây trưởng thành, 1 tàu lá dừa gồm 2 phần. Phần
cuống lá không mang lá chét, lồi ở mặt dưới, phẳng hay hơi lõm ở mặt
trên, đáy phồng to, bám chặt vào thân và khi rụng sẽ để lại một vết sẹo
trên thân. Phần mang lá chét mang trung bình 90-120 lá chét mỗi bên,
không đối xứng hẳn qua sống lá mà một bên này sẽ có nhiều hơn bên
kia khoảng 5-10 lá chét.
Đỉnh sinh trưởng sản xuất lá liên tục, cứ một lá xuất hiện trên tán thì có
thêm một chồi lá xuất hiện và một lá già rụng đi. Một cây dừa tốt, mỗi
năm ra ít nhất 14-16 lá (24-26 ngày/lá) đối với nhóm dừa cao và 16-18 lá
(20-22 ngày/lá) đối với nhóm dừa lùn. Mùa khô dừa ra lá nhanh hơn so
với mùa mưa. Một tàu lá dừa luôn luôn có đời sống 5 năm, từ khi tượng
đến khi xuất hiện 2,5 năm và từ khi xuất hiện đến khi khô, rụng là 2,5
năm. Nếu điều kiện tự nhiên bất lợi lá sẽ ra chậm hơn, số lá ít đi chứ
không rút ngắn đời sống của lá. Điều kiện dinh dưỡng và nước đầy đủ
cây ra nhiều lá sẽ làm cho số lá trên tán cây nhiều hơn (35-40 tàu). Nếu
gặp điều kiện bất lợi thời gian ra lá kéo dài, số lá trên tán cây sẽ ít. Ở
vùng khô hạn, trên tán lá có một số lá khô nhưng không rụng, đó là điều

kiện rất đặc trưng chứng tỏ cây bị thiếu nước.
Tóm lại, quan sát tán lá của cây dừa ta có thể đánh giá được khả năng
sinh trưởng và cho năng suất của cây. Đây là một trong những chỉ tiêu
dùng để tuyển chọn cây làm giống. Tán lá phân phối đều chứng tỏ cây
mạnh và có khả năng cho nhiều trái.

IV. HOA
Thời gian từ khi tượng đến khi nở trung bình từ 30-40 tháng. Thông
thường mỗi nách lá mang một phát hoa, do đó có bao nhiêu lá mới là có
khả năng có bấy nhiêu phát hoa được sinh ra mỗi năm. Tuy nhiên, giai
đoạn 15-16 tháng trước khi hoa nở (giai đoạn phân hóa nhánh gié) phát
hoa dừa có thể bị thui do cây dừa bị thiếu dinh dưỡng, khô hạn hay ngập
úng. Đây là một trong những nguyên nhân góp phần gây ra hiện tượng
“mùa treo” ở dừa.

Hoa dừa thuộc loại đơn tính, đồng chu nghĩa là hoa đực và hoa cái riêng
rẻ nhưng ở trên cùng một gié hoa. Số lượng hoa cái trung bình biến
động từ 20-40 cái trên mỗi phát hoa tùy theo giống. Số hoa cái trên
buồng ít có thể do thiếu chất đạm. Nhóm dừa lùn có số lượng hoa cái
nhiều hơn nhóm dừa cao.

Mỗi phát hoa có thể mang trung bình từ 5-10g phấn hoa. Mỗi hoa đực
chứa khoảng 272 triệu hạt phấn có kích thước rất nhỏ. Chỉ khoảng 40%
hạt phấn có khả năng thụ phấn trong mỗi phát hoa. Thời gian để hoa cái
đầu tiên nở đến hoa cái cuối cùng thụ phấn xong trên cùng phát hoa gọi
là pha cái, kéo dài từ 5-7 ngày ở giống dừa cao và từ 10-14 ngày đối với
giống dừa lùn.
Thời gian để hoa đực đầu tiên mở đến hoa đực cuối cùng mở gọi là pha
đực, kéo dài khoảng 18-22 ngày. Thời gian xuất hiện của pha đực và
pha cái hình thành nên kiểu thụ phấn khác nhau và là một trong những

đặc tính quan trọng để phân biệt giữa các giống. Trên giống dừa cao pha
đực thuờng xuất hiện trước rồi mới đến pha cái nên có sự lệch pha và
sự thụ phấn chéo là phổ biến.Trên giống dừa lùn, pha cái thường trùng
với pha đực nên dừa lùn thường tự thụ phấn. Đối với nhóm dừa lai, giữa
pha đực và pha cái có sự trùng pha một phần nên có thể xảy ra hiện
tượng tự thụ trên cùng một phát hoa. Do nhóm dừa cao có đặc tính thụ
phấn chéo nên khi nhân giống bằng phương pháp hữu tính cần có kỹ
thuật riêng biệt và nghiêm ngặt hơn so với giống dừa lùn.

Hoa dừa được thụ phấn chủ yếu nhờ gió và côn trùng, trong đó ong mật
có vai trò quan trọng nhất. Việc nuôi ong trong vườn dừa làm tăng năng
suất dừa đáng kể. Hiện tượng rụng trái non thường xuất hiện ở giai
đoạn ba tuần sau khi đậu trái và có thể kéo dài đến tháng thứ sáu. Sự
rụng trái non có thể gây ra bởi các nguyên nhân sau:
- Thiếu dinh dưỡng: Do thiếu đạm và kali
- Điều kiện môi trường: do gặp điều kiện khắc nghiệt của môi trường
như khô hạn, ngập úng hay đất có nhiều sét, thoát nước kém.
- Do sâu bệnh tấn công như các loại nấm Colletotrichum sp.,
Phytophthora sp. Botriodiplodia sp. hay côn trùng gây hại như
Amblypelta cocophaga, bọ cánh cứng Brontispa longissima.
- Nguyên nhân sinh lý do sự thành lập tầng rời
V. TRÁI
Trái dừa thuộc loại quả hạch, nhân cứng. Trái gồm có ba phần là ngoại
quả bì (phần vỏ bên ngoài được phủ cutin), trung quả bì (xơ dừa) và nội
quả bì bao gồm gáo, nước và cơm dừa.
Vỏ dừa dày từ 1-5cm tùy theo giống, phần cuống có thể dày đến 10cm.
Vỏ dừa bao gồm 30% là xơ dừa và 70% là bụi xơ dừa. Bụi xơ dừa có
đặc tính hút và giữ ẩm cao từ 400-600% so với thể tích của chính nó.

Gáo dừa có hình dạng rất khác biệt tùy theo giống, độ dày của gáo từ 3-

6mm. Bốn tháng tuổi sau khi thụ phấn gáo dừa bắt đầu hình thành và
chuyển sang màu nâu và cứng hơn khi trái được 8 tháng tuổi.

Nước dừa xuất hiện từ tháng thứ ba sau khi thụ phấn và đạt được thể
tích lớn nhất ở tám tháng tuổi. Thể tích sẽ giảm dần khi trái khô. Thành
phần hóa học chủ yếu của nước dừa là đường và muối khoáng.

Cơm dừa bắt đầu hình thành 5 tháng sau khi thụ phấn, có thể thu hoạch
để uống nước vào tháng thứ 7-8. Thời gian để hoa cái thụ phấn, phát
triển thành trái và đến khi trái khô kéo dài 12 tháng. Thu hoạch trái ở giai
đoạn 10 tháng sau khi đậu trái có thể giảm năng suất do trái chưa phát
triển đầy đủ nhưng ở giai đoạn từ 11 tháng trở đi thì trái có thể dùng làm
giống. Trọng lượng cơm dừa khô của một trái dừa dao động từ 100-350
g/trái và chứa khoảng 65-74% dầu dừa tùy theo giống. Kích thước, hình
dạng trái rất đa dạng, tùy theo giống.
VI. NHU CẦU SINH THÁI
1. Khí hậu
Sự tăng trưởng phát triển của cây dừa tùy thuộc vào 2 yếu tố khí hậu và
đất đai. Sự hiểu biết về môi trường và những ảnh hưởng của chúng trên
đời sống cây dừa giúp chọn đúng nơi có thể phát triển trồng dừa. Sự xác
định những yếu tố giới hạn trên năng suất dừa giúp ta có biện pháp kỹ
thuật để cải thiện tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, gia
tăng thu nhập.

Cây dừa được trồng trong hầu hết các vùng nhiệt đới ẩm, hơn 90%
vườn dừa trên thế giới được tìm thấy giữa Bắc và Nam vĩ tuyến thứ 20,
với độ cao trung bình dưới 500m so với mặt nước biển. Nhiệt độ thích
hợp cho cây dừa là 27
o
C và dao động từ 20-34

o
C. Nhiệt độ thấp dưới
15
o
C gây ra hiện tượng rối loạn sinh lý của cây. Do tác động của nhiệt độ
nên khi trồng dừa ở những vùng có độ cao trên 500m thường cho năng
suất không cao. Cây dừa có thể trồng trên các vùng có lượng mưa trung
bình hàng năm từ 1.000-4.000mm. Lượng mưa lý tưởng từ 1.500-
2.300mm và phân bố tương đối đều trong năm. Ẩm độ thích hợp là 80-
90%, ẩm độ dưới 60% có thể gây ra hiện tượng rụng trái non. Dừa là
cây ưa sáng, cần tối thiểu 2.000 giờ chiếu sáng mỗi năm, 120 giờ chiếu
sáng mỗi tháng thích hợp cho cây dừa (4 giờ/ngày). Gió nhẹ giúp tăng
khả năng thụ phấn và đậu trái, đồng thời tăng khả năng thoát hơi nước
dẫn đến tăng khả năng hút nước và dinh dưỡng của cây.

Nhìn chung, ở ĐBSCL điều kiện nhiệt độ, ẩm độ và ánh sáng rất thích
hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây dừa. Nhiệt độ bình quân ở
ĐBSCL là 27
o
C, thấp nhất khoảng 19-20
o
C, chênh lệch nhiệt độ giữa
ngày và đêm và giữa hai mùa không cao. Ẩm độ biến động từ 70-85%,
rất thích hợp cho cây dừa. Ánh sáng trong mùa khô từ 8-9 giờ/ngày và
trong mùa mưa là 4,7-4,9 giờ/ngày. Đối với lượng mưa hàng năm biến
động từ 1.000-2.300mm rất thích hợp cho nhu cầu của cây dừa nhưng
do sự phân bố không đều, mùa khô kéo dài 4-5 tháng với lượng mưa rất
thấp gây ra sự thiếu nước nhưng mùa mưa với lượng mưa tập trung trên
90% lượng mưa cả năm kết hợp với mùa nước nổi gây ra sự ngập úng,
có thể ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất dừa. Ngoài ra, trong

mùa mùa khô còn có hiện tượng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển.
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến năng suất dừa. Do đó, để đạt
được năng suất cao cây dừa cần tưới nước trong mùa khô và thoát
nước trong mùa mưa.

2. Đất đai

×