Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bài tập học kỳ Luật Hiến pháp Phân tích hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.54 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN HỌC: LUẬT HIẾN PHÁP

Đề 2: Phân tích hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
theo pháp luật hiện hành. Quan điểm của anh/chị về việc thực
hiện hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân ở Việt Nam
hiện nay.

TỪ VIẾT TẮT
HĐND:

Hội đồng nhân dân

QH:

Quốc hội

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm soát nhân dân

TAND:



Tòa án nhân dân
2


MỞ ĐẦU
Trải qua hơn bảy mươi năm kể từ khi ra đời, vị trí của Hội đồng nhân dân
các cấp trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được khẳng định.
Trong bộ máy Nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, vừa là đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân
ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương
đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
HĐND có ba chức năng đó là: quyết định những vấn đề quan trọng ở địa
phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà
nước cấp trên và trung ương ở địa phương; chức năng giám sát việc tuân theo
pháp luật ở địa phương. Trong ba chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò rất
quan trọng đảm bảo cho HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân.
Từ Hiến pháp năm 2013 đến luật tổ chức chính quyền địa phương năm
2015, luật giám sát hoạt động của QH và HĐND năm 2015 đã quy định xuyên
suốt chức năng giám sát của HĐND theo đơn vị hành chính từ cấp tỉnh đến cấp
huyện, xã. Từ khi các văn bản trên có hiệu lực pháp luật, hoạt động giám sát của
HĐND có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, xây dựng được chương trình kế
hoạch giám sát, tổ chức các Đoàn giám sát khi cần thiết, trong thực hiện giám
sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành… Do đó, đã đem lại nhiều kết quả khả
quan, bước đầu khắc phục được những hạn chế trong hoạt động của HĐND nói
chung và hoạt động giám sát nói riêng.

3



NỘI DUNG
Phần I: Phân tích hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo
pháp luật hiện hành
1. Cơ sở lí luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Vị trí, chức năng của HĐND được quy định tại Điều 113, Điều 115, Điều
116 Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Điều 6 Luật tổ chức chính quyền
địa phương do QH nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp
thứ 9 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2015: “HĐND là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương có quyền quyết định
các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương xây
dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh,
không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương,
làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước, HĐND là cơ quan bầu ra
UBND, Thường trực HĐND. HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà
nước ở địa phương, giám sát việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Nghị quyết
của HĐND phải được quá nửa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành;
riêng nghị quyết về bãi nhiệm đại biểu HĐND được thông qua khi có ít nhất hai
phần ba tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. HĐND thực hiện ý chí,
nguyện vọng của nhân dân địa phương trên địa bàn lãnh thổ, đồng thời thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, HĐND là tổ chức chính quyền
gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân,
nắm vững đặc điểm của địa phương, do đó có cơ sở quyết định mọi công việc
sát hợp với nguyện vọng của nhân dân địa phương. Như vậy, HĐND là một tổ
chức vừa có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường

học quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương.
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình ở từng địa phương
và trên phạm vi cả nước. Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân
4


dân địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. HĐND
một mặt cần chăm lo xây dựng địa phương, đảm bảo sự phát triển về kinh tế văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.
Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm
2015 thì HĐND có ba chức năng cơ bản như sau:
- Thứ nhất: Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát
huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả
nước.
- Thứ hai: Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan
nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương .
- Thứ ba: Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
HĐND, UBND, TAND,VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị
quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương.
Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi trong
mọi hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội thì “giám sát” là hoạt động không thể
thiếu. Nếu thiếu hoặc yếu trong hoạt động giám sát thì rất dễ trở thành quan liêu,
không thực quyền. Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông
qua QH và HĐND các cấp. Vì vậy, hoạt động giám sát của QH và HĐND có ý
nghĩa đặc biệt trong đời sống chính trị - xã hội. Quyền lực Nhà nước trực tiếp từ

nhân dân nên hoạt động giám sát của QH và HĐND các cấp là sự giám sát ủy
quyền của nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát của QH và HĐND các cấp,
nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ quan
Nhà nước để đảm bảo cho hoạt động đó phục vụ cho lợi ích, ý chí nguyện vọng
của nhân dân.

5


Xuất phát từ ý nghĩa và đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, QH khóa XIII đã ban
hành “Luật hoạt động giám sát của QH và HDND” (20/11/2015) và “Luật tổ
chức chính quyền địa phương” (19/6/2015).
2. Khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm giám sát:
Theo từ điển Tiếng Việt “giám sát” được hiểu là: “sự theo dõi, xem xét làm
đúng hoặc sai những điều đã quy định hoặc dùng để chỉ “một chức quan đảm
nhận việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó”.
Theo từ điển Luật học: “giám sát” là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang
tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp
tích cực để buộc và hướng các hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng
quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả từ trước đảm bảo cho pháp
luật được tuân theo nghiêm chỉnh”.
Theo Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND, khái niệm giám sát được
giải thích: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo
thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Chủ thể
giám sát bao gồm QH, Ủy ban thường vụ QH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
QH, Đoàn đại biểu QH, đại biểu QH và HĐND, Thường trực HĐND, các Ban
của HĐND, Tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND.

Luật tổ chức chính quyền địa phương tại các điều 4, 7, 10 và 11 không định
nghĩa trực tiếp giám sát là gì. Tuy nhiên, có thể hiểu, trước tiên, giám sát là một
chức năng luật định, tức là gắn với quyền hạn và là trách nhiệm của HĐND.
Chức năng được bảo đảm bởi một số hình thức hoạt động và công cụ đặc thù,
cách làm đặc thù của HĐND.
Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập tới nội dung cơ bản: giám sát là việc
theo dõi, xem xét, đánh giá một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực hiện về
tính tuân thủ các quy định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với

6


việc làm sai, nhằm đạt được hiệu quả trong hoạt động tương ứng với mục tiêu
được xác định từ trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và đầy đủ.
3. Mục đích của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Bất cứ hoạt động có ý chí nào cũng đều mang tính mục đích rõ rệt và việc
xác định một cách chính xác những mục đích cần đạt được của hoạt động là điều
quan trọng nhất. Đó cũng là điều kiện và cơ sở để định hướng hoạt động giám
sát. Mục đích của hoạt động giám sát của HĐND bao gồm:
- Nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát
phải thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật, nghị
quyết của HĐND. Mọi hoạt động vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều phải được
xử lý nghiêm minh.
- Nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa hợp lý trong tổ chức và hoạt
động quản lý của các cơ quan chịu sự giám sát và kiến nghị những biện pháp
khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó.
- Nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa phù hợp với thực tiễn đời sống
xã hội trong những quy định của pháp luật và kiến nghị những biện pháp khắc
phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó.

Như vậy, giám sát không chỉ nhằm một mục đích duy nhất là theo dõi, xem
xét đánh giá tính hợp Hiến, hợp pháp trong hoạt động của các đối tượng chịu sự
giám sát mà hoạt động giám sát cùng một lúc có thể đem lại nhiều kết quả phục
vụ cho công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật, phục vụ cho việc
không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước.
4. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành
4.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân
Qua quá trình phát triển về tổ chức bộ máy Nhà nước, vai trò, chức năng
giám sát của HĐND ngày càng được hoàn thiện. Sắc lệnh số 63/SL ngày
23/11/1945 về tổ chức chính quyền địa phương tuy không trực tiếp sử dụng khái
niệm “giám sát” trong hoạt động của HĐND, nhưng các quy định về thẩm quyền
của HĐND trong Sắc lệnh có thể thấy chức năng giám sát của HĐND đã được
7


xác nhận, thể hiện rõ nét ở các quy định về quyền của HĐND bỏ phiếu tín
nhiệm đối với Ủy ban hành chính. Tuy nhiên, với quy định của văn bản này,
mức độ giám sát của HĐND với Ủy ban hành chính nhìn chung còn hạn chế. Từ
Luật tổ chức HĐND và UBND 1983 đã chính thức sử dụng khái niệm “giám
sát” để xác nhận chức năng giám sát của HĐND. Đến Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1994, 2003 chức năng giám sát của HĐND một lần nữa được quy
định đầy đủ và cụ thể hơn. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật tổ chức chính quyền
địa phương và Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND cùng năm 2015, đã
đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát của HĐND về cả mặt
lý luận và thực tiễn hoạt động, nâng cao được vị thế và vai trò của HĐND trong
giai đoạn hiện nay.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ra đời với khá nhiều điểm mới so
với các năm trước đây. Tuy nhiên, phải đến năm 2015 với sự ra đời của Luật tổ

chức chính quyền địa phương và Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND từ
đó đã có bước ngoặt về tính minh bạch cũng như thống nhất, rõ ràng về việc
giám sát như: Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có một điều riêng
quy định về hoạt động giám sát của HĐND (Điều 87), lấy phiếu tín nhiệm (Điều
88) và bỏ phiếu tín nhiệm (Điều 89). Điều 87, Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 quy định:
“1. HĐND thực hiện quyền giám sát của mình tại kỳ họp HĐND và trên cơ
sở hoạt động giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, các Tổ đại
biểu HĐND và đại biểu HĐND;
2. HĐND quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của Thường trực
HĐND trình trên cơ sở các kiến nghị của Ban của HĐND, Tổ đại biểu HĐND,
đại biểu HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và ý kiến, kiến
nghị của cử tri địa phương;
3. HĐND thực hiện quyền giám sát thông qua các hoạt động sau đây: a)
Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND
cùng cấp; b) Xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành Hiến
pháp, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết
của HĐND cùng cấp; c) Xem xét văn bản của UBND cùng cấp có dấu hiệu trái
8


với Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên
và nghị quyết của HĐND cùng cấp; d) Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch
UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng
VKSND cùng cấp; đ) Thành lập Đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét
thấy cần thiết và xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát.
4. Căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND có các quyền sau đây: a) Yêu cầu
UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản để thi hành Hiến pháp,
pháp luật và nghị quyết của HĐND; b) Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
của UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp trái với Hiến pháp, văn bản quy phạm

pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND; c) Ra nghị
quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm của người trả lời chất vấn khi xét thấy
cần thiết; d) Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND,
Trưởng ban, Phó Trưởng ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND
và Ủy viên UBND.”
Trên thực tế Thường trực HĐND ở các địa phương trong những năm trước
đây chỉ có một người hoạt động chuyên trách (thông thường Chủ tịch HĐND là
Bí thư cấp ủy tương ứng hoạt động kiêm nhiệm). Vì vậy, Thường trực không thể
bao quát hết công việc càng không thể đa năng và không có đủ thời gian để giám
sát nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Hoạt động giám sát thường xuyên của HĐND
thông qua Thường trực cũng vì thế mà bị hạn chế rất nhiều.
Luật tổ chức chính quyền địa phương xuất phát từ yêu cầu thực tế đó đã
quy định rõ ràng cơ cấu của Thường trực HĐND các cấp (Điều 18, 25, 32, 39,
46, 53, 60 và 67).
Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (Điều 109) thì
HĐND còn thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động giám sát
của các ban chuyên môn. Giữa hai kỳ họp HĐND, các ban chuyên môn có
nhiệm vụ giúp HĐND và Thường trực HĐND giám sát thường xuyên hoạt động
của UBND, TAND, VKSND cùng cấp cũng như hoạt động của các cơ quan Nhà
nước khác, các tổ chức… ở địa phương trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
Như vậy, từ đây hoạt động giám sát của HĐND ngoài hình thức giám sát qua

9


Thường trực HĐND còn có thêm hình thức giám sát thường xuyên thông qua
các Ban chuyên môn.
4.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 thì hoạt động giám sát của HĐND được đảm bảo thực hiện

thông qua hoạt động giám sát của HĐND tại các kỳ họp, hoạt động giám sát của
Thường trực HĐND, hoạt động giám sát của các Ban của HĐND và hoạt động
giám sát của đại biểu HĐND.
a. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp
HĐND chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước,
có vai trò quyết định đối với sự phát triển của chính quyền địa phương. Bởi vậy
hiệu quả hoạt động của HĐND luôn là vấn đề được quan tâm, chú trọng. Điều
10 Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015 ghi nhận “Hiệu quả
hoạt động giám sát của HĐND được bảo đảm bằng hiệu quả giám sát tại kỳ họp
HĐND, giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Tổ đại biểu
HĐND và các đại biểu HĐND”. Xuất phát từ vị trí, tính chất, chức năng của
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân
dân ở địa phương, từ bản chất dân chủ trong cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà
nước, nên dù ở bất kỳ giai đoạn nào kỳ họp HĐND vẫn luôn được xác định là
một hình thức hoạt động quan trọng nhất của HĐND. HĐND làm việc tập trung
và có hiệu quả nhất trong các kỳ họp của mình thông qua kỳ họp ý chí, nguyện
vọng của nhân dân địa phương được chuyển thành quyết định của cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương.
Theo Điều 78 Luật tổ chức chính quyền địa phương, HĐND họp thường lệ
mỗi năm ít nhất 2 kỳ. Ngoài kỳ hợp thường lệ, HĐND còn tổ chức các kỳ họp
chuyên đề hoặc bất thường theo đề nghị của thường trực HĐND, Chủ tịch
UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu
cầu.
Tại kỳ họp theo quy định tại Điều 59, 60, 63, 64 Luật giám sát hoạt động
của QH và HĐND năm 2015, HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau:
10


- HĐND xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND,
TAND, VKSND, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và các báo cáo khác theo

quy định.
- Đại biểu tiến hành chất vấn và nghe trả lời chất vấn tại kỳ họp.
- Lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND,
Trưởng Ban của HĐND; Chánh Văn phòng HĐND đối với HĐND cấp tỉnh; Chủ
tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND.
- Thảo luận để quyết định việc giải tán đối với HĐND cấp dưới trực tiếp
(nếu cần thiết).
Như vậy theo quy định của pháp luật, HĐND đã có thể ban hành nghị
quyết và tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức vụ do HĐND bầu.
Còn lại chỉ cần Thường trực HĐND thống nhất với các Ban HĐND, UBND đưa
vào dự thảo nghị quyết chương trình giám sát hàng năm có nội dung bỏ phiếu tín
nhiệm tất cả các chức vụ do HĐND bầu.
b. Hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân
Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND các cấp đã được quy định một cách cụ
thể với hướng mở rộng. Thường trực HĐND tỉnh không chỉ có nhiệm vụ đôn
đốc, kiểm tra điều hòa, phối hợp hoạt động của các Ban mà còn là một chủ thể
giám sát của HĐND. Trên cơ sở quy định đó, Thường trực HĐND ở các địa
phương đã góp phần tích cực vào hoạt động giám sát, thể hiện trước hết ở việc
chuẩn bị nội dung phục vụ kỳ họp, triệu tập, điều hành các kỳ họp. Chính hoạt
động này góp phần đảm bảo việc giám sát tại kỳ họp đi vào trọng tâm, dành thời
gian cần thiết để giải quyết những vấn đề nổi cộm của tình hình kinh tế xã hội
cũng như ý kiến thắc mắc, khiếu nại của cử tri đặt ra. từ đó nâng cao chất lượng
giám sát, tránh được tràn lan thiếu hiệu lực, hiệu quả.
Không chỉ làm công tác điều hành phối hợp mà Thường trực HĐND còn
chủ động tổ chức các cuộc giám sát. Qua giám sát Thường trực HĐND phát hiện
bất cập tồn tại, yếu kém của các đơn vị, các ngành, các cấp. Qua đó Thường trực
HĐND đã có những kiến nghị yêu cầu các ngành chức năng nghiên cứu đưa ra
các giải pháp khắc phục, hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra. Công tác giải quyết
11



khiếu nại tố cáo của công dân cũng được quy định chi tiết trong việc giám sát
(Điều 73 luật giám sát hoạt động của QH và HĐND).
c. Hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đại biểu
HĐND thực hiện hoạt động giám sát thông qua các hoạt động chủ yếu sau:
- Tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND, tham gia thảo luận và
biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ quyền hạn của HĐND;
- Thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc với cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý
kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử
tri, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND.
Tóm lại, hoạt động giám sát của HĐND dần đã có nhiều tiến bộ thông qua
các quy định và hoạt động cụ thể góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế
- xã hội tại địa phương, tuy nhiên cũng cần khắc phục những khó khăn, tồn tại
qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động bảo đảm cho HĐND xứng
đáng với vai trò là “người đại biểu của nhân dân”.

12


Phần II: Quan điểm về việc thực hiện hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm
quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Hoạt động giám sát
là một trong ba chức năng cơ bản, quan trọng của HĐND các cấp với vai trò là
cơ quan cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng là quyền làm chủ của Nhân dân ở địa phương. HĐND thực hiện giám sát

việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của HĐND cấp mình. Luật tổ chức chính quyền địa phương, đặc biệt là Luật
hoạt động giám sát của QH và HĐND ra đời năm 2015 đã đánh dấu một bước
tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện thể chế pháp lý về hoạt động giám sát
của HĐND, đưa hoạt động giám sát của HĐND các cấp đi vào nền nếp, đạt chất
lượng và hiệu quả cao hơn. Theo đó, Luật đã quy định khá cụ thể về chủ thể,
thẩm quyền, đối tượng và phương thức giám sát của HĐND các cấp.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động cho thấy, việc giám sát của HĐND các cấp
đang tồn tại một số những hạn chế, bất cập làm cho hiệu quả giám sát của
HĐND đạt được chưa cao và chưa đảm bảo đúng thực chất.
Hạn chế đầu tiên, có thể kể đến là đối tượng giám sát của HĐND, nhất là
đối với HĐND cấp tỉnh, huyện theo quy định hiện nay là khá rộng. Theo đó,
HĐND thực hiện quyền giám đối với các cơ quan của HĐND, HĐND cấp dưới,
UBND, TAND, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, các cơ quan, tổ chức, cá
nhân ở địa phương. Vấn đề đặt ra ở đây là HĐND giám sát TAND và VKSND
nhưng quy định pháp luật hiện hành lại không quy định biện pháp xử lý trong
những trường hợp các cơ quan này có sai phạm (hậu quả pháp lý từ hoạt động
giám sát). Thực tế TAND và VKSND không chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước HĐND cùng cấp.
Thứ hai, do những bất cập ngay trong cơ cấu tổ chức của HĐND và UBND
các cấp với số lượng đại biểu kiêm nhiệm còn chiếm tỷ lệ khá cao và cơ cấu đại
13


biểu hai cấp đã làm hạn chế rất lớn đến chất lượng hoạt động của người đại biểu
HĐND, đặc biệt là trong trường hợp đại biểu HĐND thực hiện chức năng giám
sát thông qua hình thức chất vấn tại kỳ họp. Tình trạng nể nang, ngại va chạm và
không đi đến cùng các vấn đề cần chất vấn là những biểu hiện thường thấy khi
trong quan hệ quản lý hành chính người đại biểu HĐND lại là công chức thuộc
quyền quản lý trực tiếp hoặc thuộc cơ quan cấp dưới của người được chất vấn.

Thứ ba, có một thực trạng đang tồn tại trong thực tiễn hoạt động giám sát
của HĐND các cấp hiện nay là những kiến nghị sau giám sát của các cơ quan
chức năng của HĐND đối với những vấn đề, vụ việc chưa phù hợp, chưa được
các cơ quan, tổ chức hữu quan tiếp thu, chấn chỉnh một cách nhanh chóng, kịp
thời mà phải qua nhắc nhở nhiều lần mới được thực hiện. Trong khi đó, hệ thống
pháp luật hiện hành lại chưa có một biện pháp chế tài hoặc cơ chế hữu hiệu nào
để quy trách nhiệm và xử lý nghiêm những cơ quan, tổ chức, cá nhân chậm trễ
hoặc cố ý trì hoãn việc tiếp thu, điều chỉnh theo đúng những kiến nghị của các
cơ quan chức năng của HĐND các cấp sau giám sát.
Thứ tư, năng lực một số đại biểu HĐND chưa đáp ứng tốt vị trí, vai trò của
mình, đặc biệt là đối với đại biểu HĐND cấp xã là những người được cơ cấu từ
cán bộ không chuyên trách ở ấp, khu phố,… trong khi đó hoạt động giám sát lại
khá rộng, toàn diện và chuyên sâu đòi hỏi chủ thể giám sát phải có những kiến
thức chuyên môn nhất định ở các lĩnh vực (tài chính, xây dựng,...) thì mới có thể
phân tích, đánh giá được chính xác các vấn đề để thực hiện tốt chức năng giám
sát, nếu không hoạt động giám sát chỉ mang tính hình thức.
Thứ năm, theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, HĐND cấp
xã thành lập 2 ban là Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội để giúp HĐND thực
hiện tốt hơn các chức năng và nhiệm vụ theo luật định, trong đó có chức năng
giám sát. Theo quy định hiện nay, tất cả thành viên của các ban HĐND ở cấp xã
đều hoạt động kiêm nhiệm. Thực tế cho thấy có những địa phương, Trưởng ban,
Phó Trưởng ban HĐND là cũng là công chức cấp xã thì sẽ đảm bảo về năng lực
chuyên môn khi giám sát nhưng lại có hạn chế là thiếu sự khách quan khi các
ban giúp HĐND thực hiện chức năng giám sát cũng như trong thực hiện chất
vấn tại các kỳ họp HĐND do e ngại trong mối quan hệ hành chính với lãnh đạo
14


UBND. Trong trường hợp khác, có những địa phương, Trưởng ban, Phó Trưởng
ban HĐND là đại diện các tổ chức hội, đoàn thể, trường học,… thì lại chưa đáp

ứng tốt yêu cầu về kiến thức, năng lực chuyên môn để thực hiện tốt chức năng
giám sát. Do đó, việc lựa chọn được những người có đủ trình độ, năng lực và
đảm bảo tính khách quan để nâng cao chất lượng hoạt động của các ban HĐND
cấp xã là một vấn đề đang đặt ra hiện nay.
Trước những bất cập đang đặt ra ở trên, trong thời gian tới để hoạt động
giám sát HĐND đi vào thực chất và hiệu quả cần xem xét thực hiện một số giải
pháp cơ bản sau:
Một là, quy định thẩm quyền của HĐND tương xứng với chức năng, nhiệm
vụ được giao, có quy định cụ thể về hậu quả pháp lý đối với những trường hợp
TAND hoặc VKSND cùng cấp không thực hiện đúng các quy định pháp luật
trong tổ chức và hoạt động mà thông qua hoạt động giám sát HĐND phát hiện
được.
Hai là, cơ cấu hợp lý số lượng đại biểu HĐND các cấp theo hướng giảm số
lượng đại biểu kiêm nhiệm và tăng số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách.
Việc này vừa tạo điều kiện để đại biểu HĐND toàn tâm, toàn ý tập trung cho
nhiệm vụ của người đại biểu, vừa là giải pháp để khắc phục có hiệu quả tình
trạng e ngại, nể nang trong thực hiện chức năng giám sát, đặc biệt là giám sát tại
kỳ họp thông qua việc chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn của lãnh đạo
UBND và người đứng đầu các cơ quan chuyên môn của UBND các cấp.
Ba là, cần tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, đảm bảo chuẩn, chất nguồn nhân lực khu vực công, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở (đối tượng có mức độ được chuẩn hóa về chuyên môn so
với công chức còn thấp).
Bốn là, cần quy định biện pháp chế tài cụ thể để đảm bảo các kiến nghị sau
giám sát của các cơ quan chức năng của HĐND các cấp được các cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp thu, chấn chỉnh một cách nhanh
chóng, kịp thời, tránh tình trạng nhắc đi nhắc lại nhiều lần như hiện nay.

15



16


KẾT LUẬN
Giám sát để theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động quản lý của các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức của nhà nước và tổ chức, cá nhân trong việc thực
thi Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND tại địa phương là hoạt động
có ý nghĩa hết sức quan trọng của HĐND các cấp nhằm đảm bảo kỷ cương, kỷ
luật, tính pháp quyền và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Mặc dù, đã có
những văn bản pháp luật quy định cho hoạt động giám sát của HĐND như Hiến
pháp năm 2013, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Luật hoạt
động giám sát của QH và HĐND năm 2015, nhưng vẫn cần có lộ trình thực hiện
từng bước và đồng bộ các giải pháp để hoạt động giám sát đi vào thực chất và
đạt hiệu quả cao hơn để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân ở địa
phương.

17



×