BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
------------------------
TRẦN THỊ ANH PHƢƠNG
VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
Chuyên ngành: Khoa học Thông tin - Thƣ viện
Mã số: 60320203
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC THÔNG TIN - THƢ
VIỆN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Quý
HÀ NỘI - 2014
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC .................................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ................................................................................... 4
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
ĐỌC CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI ............ 20
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển văn hóa đọc cho sinh viên .................................. 20
1.2. Cơ sở thực tiễn về phát triển văn hóa đọc cho sinh viên trường đại học Lao
động - Xã hội ........................................................................................................ 31
1.3. Vai trò của phát triển văn hóa đọc cho sinh viên trường Đại học Lao động Xã hội .................................................................................................................... 45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA ĐỌC CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI
HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI ................................................................................. 48
2.1. Nhu cầu, hứng thú đọc của sinh viên trường Đại học Lao động - Xã hội ..... 48
2.2. Kỹ năng đọc và vận dụng tri thức vào thực tiễn của sinh viên ...................... 58
2.3. Ứng xử của sinh viên Trường Đại học Lao động - Xã hội với tài liệu ..... 62
2.4. Các yếu tố tác động đến phát triển văn hóa đọc cho sinh viên của trường ... 66
2.5. Nhận xét chung về khả năng phát triển văn hóa đọc cho sinh viên Trường
Đại học Lao động - Xã hội.................................................................................... 85
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC CHO SINH
VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI ........................................... 89
3.1. Tổ chức khảo sát và tuyên truyền nhằm phát triển văn hóa đọc cho sinh viên .. 89
3.2. Tạo dựng môi trường đào tạo phát triển văn hóa đọc cho sinh viên .................... 96
3.3. Chú trọng phát triển vốn tài liệu của Trung tâm.......................................... 100
3.4. Nâng cao chất lượng và đa đạng hóa sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư
viện ........................................................................................................ 111
3.5. Nhóm các giải pháp khác ............................................................................. 117
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 124
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 126
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 131
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
VHĐ
Văn hóa đọc
CNTT
Công nghệ thông tin
CSDL
Cơ sở dữ liệu
ĐH LĐ-XH
Đại học Lao động - Xã hội
KH
Khoa học
LĐTBXH
Lao động Thương binh Xã hội
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NDT
Người dùng tin
TT - TV
Thông tin - Thư viện
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Nội dung
Loại hình tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên
Nội dung và mức độ sử dụng tài liệu của sinh viên Trường
Lý do chọn các loại chủ đề của sinh viên
Ngôn ngữ tài liệu sinh viên quan tâm và mức độ sử dụng
Nội dung và mức độ sử dụng thời gian rỗi của sinh viên
Mức độ đọc các loại sách báo của sinh viên
Thái độ của sinh viên khi có sách/tài liệu và báo tạp chí mới
Mức độ hiểu nội dung tài liệu của sinh viên
Quan niệm, nhận thức về tài liệu của sinh viên
Thói quen khi đọc tài liệu của sinh viên Trường
Nơi để sách, tài liệu, báo, tạp chí của sinh viên sau khi đọc
Tỷ lệ sinh viên vi phạm hành vi ứng xử với tài liệu
Mục đích sử dụng thư viện của sinh viên
Ngôn ngữ tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên
Nội dung tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên
Lý do chọn các loại chủ đề của sinh viên
Loại hình tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên
Mức độ truy cập Internet của sinh viên
Mục đích truy cập Internet của sinh viên
Nhận xét của sinh viên về vốn tài liệu của thư viện
Mức độ sinh viên bị từ chối khi mượn tài liệu
Mức độ cập nhật nội dung tài liệu của thư viện
Mức độ phù hợp giữa nội dung tài liệu với nhu cầu tin của
sinh viên
Bảng 2.24 Mức độ sử dụng các dịch vụ của Trung tâm
Bảng 3.1
Mức độ phù hợp giữa nội dung tài liệu với nhu cầu tin của
sinh viên với nhu cầu tin của sinh viên
Bảng 3.2
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin của
sinh viên ngành Quản lý
Bảng 3.3
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin của
sinh viên ngành Kế toán
Bảng 3.4
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin của
sinh viên ngành Công tác xã hội
Bảng 3.5
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin của
sinh viên ngành Bảo hiểm xã hội
Bảng 3.6
Mức độ và nội dung thư viện cần chú trọng trọng
Bảng 3.7
Mức độ truy cập Internet của sinh viên
Bảng 3.8
Nhu cầu học lớp tra cứu tìm tài liệu của sinh viên
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9
Bảng 2.10
Bảng 2.11
Bảng 2.12
Bảng 2.13
Bảng 2.14
Bảng 2.15
Bảng 2.16
Bảng 2.17
Bảng 2.18
Bảng 2.19
Bảng 2.20
Bảng 2.21
Bảng 2.22
Bảng 2.23
Trang
48
50
51
53
55
57
59
61
62
63
64
66
68
70
70
71
72
74
75
77
78
79
80
83
100
102
103
104
105
113
115
122
4
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ
Nội dung
Trang
Biểu đồ 2.1
Loại hình tài liệu và mức độ sử dụng của sinh viên
49
Biểu đồ 2.2
Lý do chọn các loại chủ đề của sinh viên
51
Biểu đồ 2.3
Ngôn ngữ tài liệu sinh viên quan tâm và mức độ sử dụng
53
Biểu đồ 2.4
Thái độ của sinh viên khi có sách/tài liệu và báo tạp chí
mới
59
Biểu đồ 2.5
Thói quen khi đọc tài liệu của sinh viên Trường
63
Biểu đồ 2.6
Nơi để sách/tài liệu của sinh viên sau khi đọc
64
Biểu đồ 2.7
Nơi để báo, tạp chí của sinh viên sau khi đọc
65
Biểu đồ 2.8
Mục đích sử dụng thư viện của sinh viên
68
Biểu đồ 2.9
Lý do chọn các loại chủ đề trên của sinh viên
72
Biểu đồ 2.10
Mức độ truy cập Internet của sinh viên
74
Biều đồ 2.11
Mục đích truy cập Internet của sinh viên
75
Biểu đồ 2.12
Nhận xét của sinh viên về vốn tài liệu của thư viện
77
Biểu đồ 2.13
Mức độ sinh viên bị từ chối khi mượn tài liệu
78
Biểu đồ 2.14
Mức độ cập nhật nội dung tài liệu của thư viện
79
Biều đồ 2.15
Mức độ phù hợp giữa nội dung tài liệu với nhu cầu tin của
sinh viên
80
Biều đồ 3.1
Mức độ phù hợp giữa nội dung tài liệu
101
Biểu đồ 3.2
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin
của sinh viên ngành Quản lý
103
Biểu đồ 3.3
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin
của sinh viên ngành Kế toán
104
Biểu đồ 3.4
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin
của sinh viên ngành Công tác xã hội
105
Biểu đồ 3.5
Mức độ phù hợp nội dung tài liệu với nhu cầu thông tin
của sinh viên ngành Bảo hiểm xã hội
106
Biểu đồ 3.6
Mức độ truy cập Internet của sinh viên
115
Biểu đồ 3.7
Nhu cầu học lớp tra cứu tìm tài liệu của sinh viên
122
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ thời cổ đại, sự ra đời của chữ viết đã tạo ra một bước ngoặt căn bản
trong lịch sử phát triển loài người, cũng từ đó, không chỉ lịch sử mà rất nhiều
các thành tựu phát triển khác, các phát kiến, phát minh…và cả các nền văn
hóa đã được lưu giữ lại trong các trang sách để tạo ra một nguồn tri thức
khổng lồ cho sự phát triển ngày càng văn minh, hiện đại hơn của xã hội loài
người. Cũng từ đó, con người không ngừng tìm tòi các công cụ lưu giữ chữ
viết từ mai rùa, đá, kim loại cho đến thẻ tre, lụa, giấy và các loại chất liệu lưu
giữ thông tin hiện đại như băng từ, đĩa từ - đĩa CD, DVD... Nhưng cho đến
nay, trong tất cả các vật lưu giữ thông tin ấy thì giấy vẫn là phương tiện lưu
giữ và truyền tải thông tin hiệu quả và tiện ích nhất cho con người. Giấy đã
góp phần đáng kể cho sự ra đời, phát triển của một nền văn hóa với hàng
nghìn năm tuổi trên toàn thế giới, đó là VHĐ.
Nói đến VHĐ, mỗi người có thể tiếp cận theo những chiều cạnh khác
nhau bởi sự đa dạng vốn có của văn hóa. Có nhiều căn cứ khác nhau để nhận
diện một quốc gia, trong đó văn hoá là yếu tố không thể thiếu. Trong cuộc
sống, VHĐ có vị trí quan trọng. Mặc dù trước sự phát triển ngày càng mạnh
mẽ của các phương tiện CNTT hiện đại nhưng nhiều quan điểm vẫn cho rằng
đọc sách vẫn là hình thức thông dụng để con người tiếp nhận thông tin và tri
thức. VHĐ, với tư cách là văn hoá hành vi của mỗi cá nhân, biểu hiện ở thói
quen tiếp nhận thông tin/tài liệu, khả năng lựa chọn sách, kỹ năng đọc và lĩnh
hội tri thức, cũng như thái độ ứng xử với các loại hình tài liệu sách, báo, thể
hiện rõ đặc điểm tâm lý và nhân cách của mỗi cá nhân, được hình thành từ tuổi
ấu thơ và phát triển trong suốt cuộc đời mỗi con người. Có thể hiểu VHĐ là hệ
thống giá trị, chuẩn mực liên quan tới hoạt động đọc như kỹ năng, sở thích,
6
thói quen đọc…của mỗi người trong mối quan hệ với những giá trị, chuẩn
mực VHĐ chung của cộng đồng. Chính vì thế, cũng như những giá trị văn
hóa khác, VHĐ do con người sáng tạo ra bởi một quá trình lâu bền, có tính
bền vững, liên tục. Tuy nhiên, văn hóa là sự phản chiếu đời sống xã hội, chính
vì thế khi xã hội thay đổi, tất yếu văn hóa cũng có sự thay đổi, VHĐ cũng
không phải ngoại lệ. Do đó, ở thời điểm hiện tại khi mà sự phát triển như vũ
bão của khoa học công nghệ và đặc biệt là truyền thông đại chúng đã chiếm
một “thị phần” đáng kể trong đời sống và thói quen của mỗi người, vị trí của
VHĐ cũng đã có nhiều thay đổi, nhiều người cho rằng đó là sự xuống cấp
nhưng cũng có người khẳng định đó là cơ hội để VHĐ định hình lại vị thế của
mình trong một xã hội bùng nổ về thông tin. Rõ ràng, việc nhìn nhận những
thay đổi này cần được xem xét dưới nhiều góc độ và chiều cạnh khác nhau ở
cả hai hướng tích cực và tiêu cực:
Nghe nhìn có thể rộng rãi hơn nhiều, nhưng muốn nói gì thì nói, dễ
hơn, tác dụng thoáng qua hơn, chẳng phải nghiền ngẫm gì nhiều;
nghe nhìn nhằm vào số đông, rất đông, chủ yếu gây tác động tức
thời, trong khi sách nhằm đến, nói với, tâm sự với, bàn bạc, đề nghị
cùng suy nghĩ với từng con người, chậm rãi, lâu dài. Không cái nào
thay thế được cái nào, không cái nào tiêu diệt cái nào. Nghe nhìn là
cho đám đông, sách là cho từng con người trong đám đông, cái đám
đông mà nếu từng con người không có cái riêng, không có lúc tự
mình suy nghĩ riêng, với mình, cũng tức là trầm ngâm suy nghĩ
cùng nhân loại, là một cá nhân có ý thức, thì sẽ là một đám đông
mù quáng. Tôi không coi trọng cái nào hơn cái nào, nhưng tôi dám
khẳng định điều này: một xã hội chỉ coi trọng nghe nhìn, nghe nhìn
lấn át đọc, thì sẽ là một xã hội lười biếng, lười biếng ở chỗ quan
trọng nhất là lười biếng suy nghĩ [15].
7
Khi nói đến VHĐ, thông thường người ta nghĩ ngay đến giới trẻ, đặc
biệt là những sinh viên-những NDT có điều kiện nghiên cứu, học tập liên
quan đến vấn đề tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn bởi đơn giản sau khi ra
trường họ sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước, do đó đây là nhóm đối
tượng cần được trang bị những kỹ năng sống và đặc biệt là những định hướng
giá trị phù hợp, chính vì thế VHĐ thường được sử dụng như một công cụ giáo
dục, định hướng về mặt nhận thức, hành vi của các nhóm đối tượng này. Điều
này càng có ý nghĩa hơn khi xét trong bối cảnh những vấn đề đáng quan ngại
về văn hóa, lối sống của một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên hiện nay đã
trở thành một hiện tượng nóng của xã hội và rất nhiều người đã nói đến một
sự thiếu hụt, sự lãng quên của xã hội đối với VHĐ cho dù số lượng đầu sách
được xuất bản năm sau luôn cao hơn năm trước. Các trung tâm, TT-TV của
các trường đại học không ngừng ngày càng gia tăng việc bổ sung tài liệu phục
vụ học tập và nghiên cứu. Mặc dù vậy, xét trong bối cảnh hiện tại, đây là một
nhiệm vụ không hề dễ dàng bởi sức ép từ các thói quen, môi trường nghe nhìn
khác, không chỉ của sinh viên, thanh thiếu niên mà còn của toàn xã hội.
Các nhà khoa học trên thế giới đã khẳng định văn hoá đọc có liên quan
mật thiết đến sự phát triển năng lực nhận thức, bản lĩnh học tập và làm việc
của mỗi cá nhân. “Khảo sát khu vực châu Phi vào tháng 3-2000 cho thấy tình
trạng thiếu VHĐ là một trong những rào cản quan trọng trong quá trình phát
triển kỹ năng sử dụng CNTT và khả năng giao tiếp của phụ nữ châu Phi”.
Trong quá trình hội nhập xã hội hiện đại, nhiều quốc gia đề cao tầm quan
trọng của văn hoá đọc và xây dựng chiến lược phát triển văn hoá đọc quốc gia
nhằm nâng cao việc đọc trong cộng đồng. Như Hà Lan, sau khi Liên đoàn
Quốc tế các cơ quan và hiệp hội thư viện (IFLA) tại Amsterdam công bố kết
quả điều tra tầm quốc gia có hơn một nửa số người lớn hiếm khi đọc sách báo
thì năm 1998 đã xây dựng chiến lược có tên “Stiching Lezen”. Chiến lược
8
“Stiching Lezen” tập trung giúp cộng đồng Hà lan hiểu rõ những lợi ích của
việc đọc sách, báo đối với phát triển đời sống văn minh và tinh thần của con
người trong xã hội; việc đọc giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, làm cho
cuộc sống thú vị hơn; giúp con người yêu đời hơn và tích cực tham gia hoạt
động xã hội; việc đọc giúp con đường tiếp cận nhanh chóng đến các nền văn
hóa và di sản văn hóa của quốc gia và quốc tế. Đọc làm cho mọi công dân
trong xã hội trở thành những người có sức mạnh tinh thần, giải phóng khỏi
những hạn chế về mặt xã hội, về mặt pháp lý, về mặt tâm lý cá nhân và việc
đọc mang con người gắn bó, xích lại gần nhau hơn. Thông qua việc đọc sách,
báo mọi công dân, tùy thuộc vào trình độ dân trí, điều kiện sống, nghề nghiệp
và tuổi tác có thể tiếp cận được với thông tin/tri thức phù hợp đối với cuộc
sống của mình. VHĐ giúp cho mỗi cá nhân có cuộc sống trí tuệ, đẹp đẽ, ý
nghĩa, hạnh phúc và hài hòa hơn.
Khi bàn về VHĐ, phần lớn cộng đồng thư viện trên thế giới đều đã
khẳng định vai trò quan trọng của nó. Chỉ có VHĐ mới hỗ trợ có hiệu quả cho
mỗi cá nhân nói chung và sinh viên nói riêng trong quá trình học tập suốt đời
để có khả năng tham gia tích cực vào sự phát triển của xã hội; VHĐ cần trở
thành nhu cầu thiết yếu của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong bối cảnh của xã
hội học tập hiện nay. VHĐ chính là công cụ nâng cao dân trí cho cộng đồng
xã hội, phát triển VHĐ trở thành một trong các mục tiêu quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Để biến mục
tiêu này trở thành hiện thực đòi hỏi trước hết, cần phải tạo được môi trường
VHĐ tích cực, xây dựng được thói quen đọc sách, báo cho mỗi người; giúp
họ có được phương pháp/kỹ năng đọc sách và dần dần hình thành lòng ham
mê đọc sách, báo trong mỗi cá nhân.
Để phát triển VHĐ cho cộng đồng, UNESCO cũng đã quyết định lấy
ngày 23 tháng 4 hàng năm là “Ngày đọc sách quốc tế”, nhằm cổ vũ cho phong
9
trào đọc sách, thói quen đọc sách trên toàn thế giới. Quyết định và lời kêu gọi
này của Liên hiệp quốc đã được rất nhiều quốc gia, vùng và lãnh thổ hưởng
ứng nhiệt liệt. Nhiều quốc gia khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Thái Lan...
đã có “Ngày toàn dân đọc sách”. Các nước này đã có chương trình quốc gia để
phát động toàn dân quan tâm đến việc đọc sách.
Như vậy, phát triển VHĐ luôn là một vấn đề mang ý nghĩa chiến lược
của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam trong việc nâng cao dân trí, phát triển
bền vững nguồn nhân lực để góp phần xây dựng đất nước.
Việt Nam là một trong những nước có tốc độ ứng dụng CNTT và đầu
tư hạ tầng CNTT nhanh nhất, phát triển nhất trong khu vực. Chính điều kiện
thuận lợi này lại đang dẫn tới một thực tế hạn chế là làm thay đổi VHĐ của
người dân nói chung và sinh viên nói riêng một cách nhanh chóng. Tuy nhiên,
việc phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng và phát
huy nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, Văn hoá đọc là một hợp
phần quan trọng của nền văn hoá nói chung. Trong nhiều năm qua, ở tầm vĩ mô
hàng loạt các chính sách có liên quan đã được ra đời với mục đích xây dựng
một xã hội học tập mà trước hết là một xã hội ham học hỏi, một xã hội ham
đọc. Theo thống kê của Cục Xuất bản - Báo chí, từ 2004-2007 tốc độ phát
triển của toàn ngành xuất bản không ngừng tăng. Năm 2007 có 26.609 tựa
sách/276.447 triệu bản, trung bình 3,3 bản sách/ người/năm. Có 55 nhà xuất
bản, 1200 cơ sở in, 129 Công ty phát hành sách quốc doanh, 12.000 cửa hàng,
nhà sách tư nhân. Năm 2009, số lượng nhà sách, hiệu sách, đại lý sách đã đạt
khoảng 13.500. Mặc dù vậy, có tới 80% sách được in ấn, xuất bản là sách
giáo khoa, như vậy số lượng của các loại sách trong trường hợp này khó có
thể đảm bảo đáp ứng được thị hiếu và nâng cao được VHĐ cho đông đảo
cộng đồng xã hội. Mặt khác, số lượng sách, báo có thể đủ nhưng lại không
10
đến được tay NDT/bạn đọc. Đây là một trong những vấn đề bất cập cần phải
nắm vững thực trạng VHĐ của người dân nói chung và học sinh, sinh viên
trong các trường học nói riêng để từ đó lãnh đạo các cấp, các ngành xuất bản,
các cơ quan TT-TV có chính sách hữu hiệu nhằm nâng cao và đảm bảo VHĐ
cho người dân.
Trong giai đoạn đổi mới, để thực hiện thành công công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước đã xác định rất rõ, giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy, đã đầu tư mạnh mẽ mọi
nguồn lực nhằm phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, đặc
biệt là giáo dục đại học. Bởi lẽ, đầu ra của hệ thống giáo dục này là cung cấp
nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Giáo dục đại học đã được đổi
mới về phương thức đào tạo từ niên chế đã chuyển sang đào tạo theo tín chỉ,
lấy người học làm trung tâm. Người học phải tự học, tự nghiên cứu và người
thầy chỉ là người hướng dẫn, định hướng nội dung, phương pháp... Chính vì
vậy, VHĐ càng cần phải được chú trọng phát triển hơn bao giờ hết cho sinh
viên, học viên trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Về bản chất,
phát triển VHĐ cho sinh viên chính là phát triển việc tự học, tự nghiên cứu
một cách tự giác, đam mê, thích thú cho họ. Giúp họ nhanh chóng tiếp cận với
nội dung trong sách, báo/tài liệu - những thông tin có giá trị gia tăng cao của
nhân loại đã được tích hợp lại để rồi vượt không gian và thời gian dành cho
mỗi người, mỗi thế hệ kế tiếp để chinh phục thế giới khách quan nâng cao
chất lượng cuộc sống cho nhân loại. Việc tiếp nhận thông tin từ những cuốn
tài liệu, sách báo có nhiều cách khác nhau nhưng trong đó, đọc là một hoạt
động tích cực nhất cho quá trình tiếp cận tri thức của mọi cá nhân, đặc biệt là
sinh viên - những người bắt đầu làm quen với NCKH.
Nằm trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, Trường ĐH LĐ-XH
đóng trên địa bàn Hà Nội - Trung tâm văn hóa, khoa học, chính trị và kinh tế
11
của cả nước là trường đại học chuyên ngành - một trong những trung tâm đào
tạo, nghiên cứu hàng đầu Việt Nam về lao động - xã hội. Nhà trường có sứ
mạng rất lớn là nơi cung cấp cho xã hội những sản phẩm đào tạo và NCKH có
chất lượng cao, đặc biệt về kinh tế - lao động - xã hội; góp phần phát triển
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế. Mục tiêu phấn đấu của Nhà trường đến năm 2020, Trường
ĐH LĐ-XH sẽ là một trong những trung tâm NCKH hàng đầu Việt Nam trong
lĩnh vực lao động - xã hội. Để nhanh chóng đạt được mục tiêu lớn lao này, một
trong những giải pháp là Nhà trường đổi mới phương thức đào tạo, nâng cao
chất lượng đào tạo và NCKH của thầy và trò, tăng cường khả năng tự học, tự
nghiên cứu cho người học... Để làm được việc đó, Trung tâm TT- TV có nhiệm
vụ hết sức quan trọng là phải nắm bắt được nhu cầu của người học, thói quen
tiếp cận thông tin của người học, có các giải pháp hữu hiệu để phát triển VHĐ
cho người học mà trước hết là VHĐ cho các tài liệu, sách, báo về các lĩnh vực
tri thức thức mà Nhà trường đang đào tạo. Vậy, để có cơ sở khoa học đề ra các
giải pháp một cách đồng bộ nhằm đạt được mục tiêu trên, tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu “Văn hóa đọc của sinh viên trường Đại học Lao động - Xã hội”
làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Ở Việt Nam, trong vòng khoảng 10 năm trở lại đây, các vấn đề về
VHĐ mới thực sự thu hút được sự “quan tâm” của nhiều nhà nghiên cứu, các
cấp quản lý, cũng như những người “ham đọc”…Trong khi đó, vấn đề VHĐ
trên thế giới cũng dấy lên những quản ngại ở nhiều quốc gia về sự sa sút thói
quen, chuẩn mực VHĐ ở ngay cả những quốc gia vốn có truyền thống đọc
sách lâu đời và luôn có một tỷ lệ đọc sách cao trong dân chúng. Chính vì thế,
sau những bản báo cáo điều tra về tình hình VHĐ của các cơ quan nghiên
12
cứu, nhiều nước trên thế giới đều nhanh chóng có những chương trình hành
động thiết thực nhằm “phục hưng”, phát triển VHĐ trong các nhóm dân cư nói
chung và sinh viên nói riêng.
Vai trò quan trọng của VHĐ trong xã hội hiện đại đã được khẳng định
trong nghiên cứu của Hiệp hội các thư viện (IFLA) về “Nâng cao văn hoá đọc
và sách trong thời đại kỹ thuật số” (Enhancing the culture of reading and
books in the digital age). Hiệp hội khẳng định việc đọc sách là một kênh tiếp
nhận thông tin quan trọng của mọi người, bất chấp những tiến bộ vượt bậc
của CNTT, công nghệ kỹ thuật số, truyền thông hiện đại và đã đưa ra các giải
pháp hữu hiệu cho phát triển VHĐ. Năm 1998, sau khi Liên đoàn quốc tế các
cơ quan và hiệp hội thư viện (IFLA) công bố kết quả điều tra quốc gia về thói
quen đọc sách báo tại Hà Lan với hơn ½ số người lớn hiếm khi đọc sách báo,
Hà Lan đã thông qua và thực thi Cương lĩnh quốc gia nhằm nâng cao việc đọc
sách của dân chúng (Stiching Lezen).
Năm 2004, tại Mỹ, kết quả khảo sát của tổ chức National Endowment
for Arts cho thấy dưới ½ người lớn ở Hoa Kỳ đọc sách báo khi rảnh rỗi và
ngay lập tức nhiều bang ở Mỹ đã đưa ra các chương trình hành động nhằm cải
thiện tình trạng này.
Ở Italy, theo báo cáo của Hiệp hội các nhà xuất bản thì có 38% dân số
trên 14 tuổi của nước này đọc sách tuy nhiên chỉ có 10% là độc giả thường
xuyên. Thậm chí, ở độ tuổi thanh thiếu niên (6-19 tuổi) có 45% số người
không đọc bất kỳ một cuốn sách nào ngoài sách giáo khoa. Thực thế này
khiến Chính phủ Italia quyết định thành lập Trung tâm về sách và VHĐ với
mục tiêu nâng số độc giả trong 10 năm tới đạt mốc 50%, cho dù doanh số
ngành xuất bản của nước này năm 2009 vẫn đạt mức 5 tỷ euro.
Tại Trung Quốc, “Theo một cuộc điều tra chính thức trên phạm vi toàn
quốc, năm 2008, tỷ lệ mua sách trung bình chỉ là 1,75 cuốn trên một hộ gia
13
đình, còn tỷ lệ đọc sách là 34,7%, thấp hơn 14% so với thống kê năm 2005”,
như vậy chỉ sau 3 năm, một trong những quốc gia vốn nổi tiếng có nền văn
hóa lâu đời hàng ngàn năm nhất thế giới cũng đang phải chú trọng xây dựng
và thực hiện hàng loạt các chương trình nhằm thúc đẩy VHĐ, đặc biệt ở giới
trẻ nói chung và sinh viên nói riêng.
Như vậy, VHĐ trong đời sống xã hội nói chung và đặc biệt ở nhóm
sinh viên nói riêng đã có sự “đi xuống”. Đây là một hiện tượng trên thế giới,
đặc biệt cả các nước phát triển. Chính vì thế, UNESCO đã quyết định chọn
ngày 23 tháng 4 hàng năm là “Ngày sách và bản quyền Thế giới” với hy vọng
cổ vũ cho phong trào đọc sách trên toàn cầu. Sau sự kiện này, nhiều quốc gia
trên thế giới đặc biệt coi trọng VHĐ, họ đã triển khai nhiều cuộc nghiên cứu
để có cơ sở khoa học làm căn cứ cho những quyết định chính sách quan trọng
nhằm cải thiện, thúc đẩy hành vi đọc sách của người dân. Các cuộc điều tra
đều diễn ra trên quy mô quốc gia, với những tiêu chí đánh giá cụ thể về thực
trạng VHĐ cũng như xác định các nguyên nhân chủ quan và khách quan tác
động tới thực trạng này, đồng thời đề xuất được các chương trình, giải pháp
phù hợp. Tuy nhiên, những nghiên cứu cụ thể dành cho nhóm đối tượng sinh
viên lại ít được đề cập đến trong những cuộc điều tra nghiên cứu này.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Khác với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam chưa có những điều tra về
VHĐ ở quy mô lớn, tuy nhiên ở cấp độ vĩ mô, những nghiên cứu khảo sát định
lượng về VHĐ đã được thực hiện, thông thường mới chỉ dừng lại ở các thành
phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một trong những
nguyên nhân quan trọng của thực trạng trên xuất phát từ quan niệm chưa đồng
nhất về khái niệm VHĐ. Năm 2006, trong tọa đàm khoa học về “Thực trạng
VHĐ của người Việt Nam hiện nay” do Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương
14
(nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) tổ chức đã có khá nhiều các quan điểm
khác nhau về VHĐ. Ths. Chu Vân Khánh cho rằng VHĐ là một loại hình của
văn hóa bởi các yếu tố sau: Đọc sách là tiêu thụ và quảng bá những giá trị văn
hóa. Các giá trị từ sách báo mà người đọc tiếp nhận, đã được thực thao và làm
nền tảng để tiếp tục sáng tạo nên những giá trị mới và vì vậy, có thể xem VHĐ
là một chỉ số văn hóa của một cộng đồng, một xã hội. Trong khi đó, Ths Bùi
Văn Vượng khẳng định mối liên hệ giữa VHĐ và đọc sách khi đưa ra quan
điểm thuật ngữ VHĐ là đọc sách có văn hóa, hay xây dựng một xã hội đọc
sách. Khác với hai quan điểm trên TS. Lê Văn Viết xem xét VHĐ dưới góc độ
sự tham gia, mức độ, trình độ của việc đọc. Nói cách khác, không phải cứ đọc
là có VHĐ. Như vậy, sự chưa đồng nhất về mặt khái niệm của VHĐ có lẽ một
phần xuất phát từ sự đa dạng trong cách hiểu về văn hóa.
Năm 2007, với đề tài: “Thực trạng VHĐ của sinh viên trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn hiện nay”, tác giả Hoàng Thu Hương đã phân
tích khá sâu sắc các chiều cạnh của VHĐ theo các nhóm chủ đề: đọc sách, đọc
báo, tạp chí, và đọc sách, báo trên internet, đồng thời tác giả đề cập đến những
yếu tố khách quan, chủ quan tác động tới hành vi đọc sách của sinh viên trong
mẫu nghiên cứu. Báo cáo đã có khá nhiều phát hiện mới, chỉ ra vai trò quan
trọng của internet đã ảnh hưởng không nhỏ đến VHĐ của sinh viên. Tuy nhiên,
đề tài mới tập trung vào nhóm đối tượng sinh viên khoa Báo và Khoa sử. Cũng
với cách tiếp cận kể trên, tác giả Nguyễn Thị Hiền, Viện Văn hóa Nghệ thuật
Việt Nam cũng nghiên cứu về: “Tìm hiểu thực trạng VHĐ của sinh viên một số
trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay” nhưng với một quy mô
lớn hơn cả về số trường và dung lượng mẫu (nghiên cứu tiến hành ở 5 trường
đại học với dung lượng mẫu là 300 đơn vị). Trong nghiên cứu này, tác giả đã
đưa ra khá nhiều các chỉ báo đo lường thuyết phục để đánh giá về thực trạng
VHĐ của sinh viên các trường đại học ở Hà Nội cũng như chỉ ra được các
15
nguyên nhân cơ bản (khách quan và chủ quan), cùng với đó là các giải pháp để
nâng cao VHĐ cho sinh viên với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước như
Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), các nhà xuất
bản, các thư viện, các gia đình, nhà trường và bản thân sinh viên. Mặc dù vậy,
công trình chưa đi nghiên cứu VHĐ của sinh viên có môi trường học tập đặc
thù như Trường ĐH LĐ - XH. Theo tác giả Nguyễn Hữu Viêm:
Văn hoá đọc là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một
nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực
đọc của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và
cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, văn hoá đọc ở nghĩa rộng là sự
hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác hơn là ba lớp như ba vòng
tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau. Còn ở nghĩa hẹp, đó là
ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và
chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc
và kỹ năng đọc. Ba thành phần này cũng là ba lớp, ba vòng tròn
không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau [48, tr.19-26].
Như vậy, nội hàm khái niệm VHĐ giống như nội hàm khái niệm Văn
hóa là một khái niệm đa nghĩa, có thể hiểu và tiếp cận theo nhiều chiều cạnh
khác nhau. Mặt khác, để tác động, định hướng, cổ vũ sự phát triển của VHĐ
trong đời sống xã hội các giải pháp cần đảm bảo tính tổng hòa ở cả khía cạnh
cá nhân và khía cạnh xã hội. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng, khi nói tới
VHĐ của cá nhân cần quan tâm tới 3 yếu tố sau: thói quen đọc, kỹ năng đọc
và sở thích đọc. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là các yếu tố bên ngoài, mục đích
cuối cùng VHĐ cần hướng đến đó là sự định hướng về chuẩn mực, giá trị,
ứng xử của mỗi người với tri thức nói chung và với xã hội nói riêng. Ngoài hệ
thống khái niệm, tác giả cũng chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế về phát
triển VHĐ ở Việt Nam hiện nay. Việc đi sâu nghiên cứu VHĐ cho sinh viên
cũng chưa được tác giả đề cập đến.
16
Năm 2010, trên tạp chí “Khoa học và Tổ quốc”, tác giả Tâm Hiếu chỉ
rõ VHĐ sách ở Việt Nam đang có nhiều vấn đề. Xét về mặt số lượng đầu
sách, Thư viện Quốc gia Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu bản, ở Singapore
con số này khoảng 16 triệu bản, trong khi dân số Việt Nam gấp khoảng gần
30 lần Singapore. Với số liệu này đã gợi ý cho các cấp lãnh đạo cần tổ chức
Ngày hội đọc sách và cần đầu tư cho thư viện trong công tác bổ sung tài liệu
để phát triển VHĐ cho cộng đồng chứ chưa đề cập đến đối tượng cụ thể là
sinh viên. Ngoài ra, còn một số công trình “Sách in trường tồn cùng VHĐ”
của tác giả Phạm Văn Tình; “Làm gì để xây dựng và phát triển VHĐ trong
điều kiện mới” của Thành Duy, “Đẩy mạnh VHĐ trong thời đại công nghệ
thông tin” của tác giả Trần Văn Hà, “VHĐ và vấn đề đặt ra hiện nay” của tác
giả Phạm Thanh Tâm; “Bàn thêm về VHĐ” của tác giả Lê Văn Bài; “Giáo dục
văn hoá đọc cho lứa tuổi thiếu nhi” của tác giả Trần Thị Minh Nguyệt; Phát
triển VHĐ cho trẻ em khuyết tật, những vấn đề lý luận và gợi ý cho hoạt động
của hệ thống thư viện công cộng Việt Nam” của tác giả Trần Thị Quý; “Phát
triển VHĐ cho trẻ em khuyết tật, tiếp cận từ chức năng của ngành thông tin,
thư viện và công tác xã hội” của tác giả Trần Thị Thanh Vân. Ngoài ra còn
một số luận văn như: “Phát triển VHĐ cho học sinh tiểu học trên địa bàn
thành phố Hải Dương” của Tác giả Nguyễn Thị Vinh bảo vệ năm 2012;
“Nghiên cứu phát triển văn hoá đọc cho học sinh phổ thông tiểu học trong
thư viện tại thủ đô Viên Chăn” của tác giả On Tà Sa Mun Ty, bảo vệ năm
2006; “Nghiên cứu văn hoá đọc của học sinh tiểu học trên địa bàn thành phố
Hà Nội” của tác giả Nguyễn Như Ngọc bảo vệ năm 2009; “Nghiên cứu phát
triển văn hoá đọc cho học sinh phổ thông bậc trung học cơ sở tỉnh Cà Mau”
của tác giả Lê Mộng Đài Trang bảo vệ năm 2007; “Phát triển VHĐ cho sinh
viên Học viện cảnh sát nhân dân” của tác giả Nguyễn Thu Thơm, bảo vệ năm
2011; “Nghiên cứu VHĐ của sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải”
17
của tác giả Bùi Phương Hoa bảo vệ năm 2007... những công trình này đề cập
đến VHĐ dưới các khía cạnh khác nhau với các cách tiếp cận khác nhau và
cho nhiều đối tượng khác nhau nhưng cũng chưa đi sâu nghiên cứu VHĐ của
sinh viên nói chung và VHĐ của sinh viên Trường Đại học Lao động-Xã hội
nói riêng. Vì vậy, đề tài “Văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Lao
động-Xã hội” là đề tài hoàn toàn mới, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và
đề xuất các giải pháp để phát triển VHĐ cho sinh viên của Nhà trường.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu : Văn hóa đọc của sinh viên.
Phạm vi nghiên cứu : Văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Lao
động - Xã hội hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng VHĐ của sinh viên Trường ĐH
LĐ-XH hiện nay. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở khoa học để tác giả đưa ra
các kiến nghị và giải pháp phát triển VHĐ cho sinh viên, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của Trung tâm TT-TV trong việc nâng cao chất lượng đào
tạo Nhà trường.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của VHĐ nói chung và VHĐ
của đối tượng sinh viên nói riêng.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng VHĐ của sinh viên
Trường ĐH LĐ-XH
- Đề xuất các giải pháp phát triển VHĐ cho sinh viên Trường ĐH LĐ-XH
18
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, cùng quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác văn hóa, sách báo
và TT-TV.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để giải quyết tốt các nhiệm vụ của luận văn đã đề ra, tôi đã vận dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu;
- Điều tra bằng phiếu hỏi cho sinh viên trường;
- Quan sát, điều tra thực tế;
- Trao đổi trực tiếp với NDT và cán bộ Trung tâm;
- Thống kê phân tích số liệu.
6. Đóng góp của luâ ̣n văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về VHĐ
nói chung và nội hàm khái niệm VHĐ, biểu hiện của VHĐ, các yếu tố tác
động đến việc phát triển VHĐ trong sinh viên nói riêng.
6.2. Đóng góp về thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn là căn cứ khoa học và thực tiễn để
lãnh đạo Trung tâm TT - TV nói riêng và Trường ĐH LĐ-XH nói chung
quyết định các giải pháp một cách đồng bộ nhằm phát triển VHĐ cho sinh
viên. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn còn là tài liệu tham khảo thiết
thực cho những ai quan tâm về VHĐ cho sinh viên.
19
7. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn chia
thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển văn hóa đọc cho sinh
viên Trường Đại học Lao động -Xã hội.
Chương 2: Thực trạng văn hóa đọc của sinh viên Trường Đại học Lao
động - Xã hội.
Chương 3: Các giải pháp phát triển văn hóa đọc cho sinh viên
Trường Đại học Lao động - Xã hội.
20
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN VĂN HÓA ĐỌC
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển văn hóa đọc cho sinh viên
1.1.1. Nội hàm khái niệm văn hóa đọc
VHĐ là gì? đến nay còn nhiều quan niệm khác nhau. Song đa số các
nhà khoa học đều cho rằng VHĐ là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự hình thành nên con người mới, có trí tuệ để có thể thích ứng với sự
phát triển của xã hội hiện đại dựa trên nền tảng của nền kinh tế tri thức.. Để
hiểu về VHĐ trước hết cần làm rõ khái niệm về văn hóa. Trong Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ
điển học xuất bản năm 2004 thì cho rằng:
Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử -văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinh thần. Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học. Văn hóa là trình độ cao
trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh. Theo PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [43, tr.2].
Như vậy, có thể hiểu văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được
tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Chính văn
21
hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người và duy trì sự bền vững, trật tự xã
hội. Văn hóa không mất đi mà được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá
trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là thước đo trình
độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và
hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị
vật chất và tinh thần do con người đã tạo ra.
Văn hóa thể hiện mọi mặt hoạt động của con người như: văn hóa dân
tộc, văn hóa lễ hội, văn hóa đô thị, văn hóa lối sống, văn hóa giáo dục... Tất
cả các hiện tượng văn hóa đều thuộc một trong bốn thành tố sau: văn hóa tổ
chức cộng đồng, văn hóa nhận thức, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
và văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Chính vì vậy, văn hóa là yếu tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Từ khi chữ viết ra đời, con người bắt đầu có nhu cầu đọc chữ trong các
vật mang tin khác nhau. Trong đó, sách được đánh giá là vật mang tin lưu trữ tri
thức của loài người với số lượng lớn và dễ khai thác nhất. Đồng thời, sách còn là
cơ sở cho giao lưu văn hóa giữa các nền văn hóa. Đọc là một hoạt động của con
người không chỉ là “để biết” và thừa nhận mà còn để tiếp nhận tri thức nhân loại
để phát hiện, để chứng minh chân lý. Khi đó, con người định hướng đến sách,
đến các bộ sách, đến các công trình lớn, đến các lý luận và học thuyết.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc
biệt là CNTT, con người được tiếp nhận tri thức/thông tin qua nhiều phương
tiện lưu giữ và chuyển tải thông tin khác nhau như truyền thanh, truyền hình
và các phương tiện truyền thông khác nhưng sách vẫn giữ vai trò vô cùng
quan trọng đối với cuộc sống. Đọc sách là biểu hiện văn hóa của người đọc.
Đọc sách gì và đọc như thế nào là biểu hiện VHĐ. Hiện nay có quan điểm cho
rằng, với sự ra đời của sách điện tử, VHĐ đang ngày càng mất đi, nhưng có ý
22
kiến lại trái ngược: việc ra đời sách điện tử không hề làm mất đi VHĐ mà
thậm chí bởi sự tiện dụng, còn làm cho số người đọc sách tăng lên. Văn
hóa nghe nhìn, không thể lấn át VHĐ mà chúng chỉ bổ sung cho nhau, mỗi
loại hình có một thế mạnh riêng. Tuy nhiên đa số các nhà nghiên cứu đều
đánh giá cao cai trò của VHĐ và cho rằng VHĐ bao giờ cũng đóng vai trò
chủ đạo trong việc truyền bá và tiếp thu kiến thức một cách hệ thống và sâu
sắc mà văn hóa nghe nhìn không thể làm được như vậy. Văn hóa nghe nhìn
lấy đi sự sáng tạo, trí tưởng tượng thì VHĐ lại làm giàu thêm sự sáng tạo và
trí tưởng tượng của con người. Đọc sách vẫn luôn được coi là một cách
thưởng thức văn hóa tri thức có chiều sâu.
VHĐ là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn hóa đó là giá trị đọc, cách ứng xử đọc và chuẩn mực đọc
của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý. Theo nghĩa hẹp,
VHĐ là ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và
chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng
đọc .Theo ThS. Chu Vân Khánh, VHĐ là một loại hình hoạt động văn hóa, bởi
lẽ: Đọc sách là tiêu thụ, quảng bá những giá trị văn hóa và các giá trị từ sách báo
mà người đọc tiếp nhận, đã được thực thao và làm nền tảng để tiếp tục sáng tạo
nên những giá trị mới. Vì vậy, có thể xem VHĐ là một chỉ số văn hóa của một
cộng đồng, một xã hội. Theo TS. Lê Văn Viết, quan niệm đọc đến một mức độ,
trình độ nhất định nào đó thì mới được coi là VHĐ.
Đặc biệt quan điểm của tác giả Nguyễn Hữu Viêm về VHĐ khá rõ nét
dưới cách tiếp cận của ngành TT-TV:
Văn hoá đọc là một khái niệm có hai nghĩa, một nghĩa rộng và một
nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực
đọc của mỗi cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý và
cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, văn hoá đọc ở nghĩa rộng là sự
23
hợp thành của ba yếu tố, hay chính xác hơn là ba lớp như ba vòng
tròn không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau. Còn ở nghĩa hẹp, đó là
ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân. Ứng xử, giá trị và
chuẩn mực này cũng gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc
và kỹ năng đọc. Ba thành phần này cũng là ba lớp, ba vòng tròn
không đồng tâm, ba vòng tròn giao nhau.
Như vậy, nội hàm khái niệm VHĐ giống như nội hàm khái niệm văn
hóa là một khái niệm đa nghĩa, có thể hiểu và tiếp cận theo nhiều chiều cạnh
khác nhau. Mặt khác, để tác động, định hướng, cổ vũ sự phát triển của VHĐ
trong đời sống xã hội các giải pháp cần đảm bảo tính tổng hòa ở cả khía cạnh
cá nhân và khía cạnh xã hội. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra rằng, khi nói tới
VHĐ của cá nhân cần quan tâm tới ba yếu tố sau: thói quen đọc, kỹ năng đọc
và sở thích đọc. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là các yếu tố bên ngoài, mục đích
cuối cùng VHĐ cần hướng đến đó là sự định hướng về chuẩn mực, giá trị,
ứng xử của mỗi người với tri thức nói chung và với xã hội nói riêng. Ngoài hệ
thống khái niệm, tác giả cũng chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế về phát
triển VHĐ ở Việt Nam hiện nay. Việc đi sâu nghiên cứu VHĐ cho sinh viên
cũng chưa được tác giả đề cập đến.
Như vậy, VHĐ có thể hiểu một cách khái quát là cách thức ứng xử và
đánh giá đọc của mỗi cá nhân thông qua thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ
năng đọc của con người.
Từ định nghĩa trên, VHĐ được biểu hiện qua các đặc điểm của người
đọc đó là nhu cầu đọc, thói quen đọc và sở thích đọc, kỹ năng đọc và văn hóa
ứng xử với tài liệu
1.1.1.1. Nhu cầu đọc
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người. Nhu cầu đọc là thái
độ của chủ thể với việc đọc như một hoạt động sống không thể thiếu được.
24
Nói cách khác, nhu cầu đọc là đòi hỏi khách quan của chủ thể (cá nhân,
nhóm, xã hội) đối với việc tiếp nhận và sử dụng tài liệu nhằm duy trì và phát triển
các hoạt động sống của con người.
Biểu hiện cụ thể của nhu cầu đọc là yêu cầu đọc:
Khi người đọc đã xác định được đối tượng tài liệu cụ thể thỏa mãn
được nhu cầu của mình thì họ đưa ra yêu cầu tương ứng. Yêu cầu
tương tự sẽ lặp đi lặp lại nhiều lần ở những đối tượng cụ thể khác
nhau. Tuy nhiên cũng có trường hợp đặc biệt, yêu cầu đọc không
phản ánh nhu cầu mà xuất phát từ những yêu cầu công việc đột
xuất. Ví dụ để thực hiện bài tập của một môn học ở một thời điểm
cụ thể nào đó [20, tr. 69].
Nhu cầu đọc bắt nguồn từ yêu cầu tiếp nhận thông tin khi con người
tham gia các hoạt động trong xã hội, nhưng nó chỉ thực sự hình thành với điều
kiện người đọc nhận thức được nội dung thông tin được mã hóa trong tài liệu.
Khi nhu cầu của con người phát triển nhằm phục vụ công việc nào đó thì nhu
cầu đọc xuất hiện.
Nhu cầu đọc bao giờ cũng gắn liền với nội dung tài liệu và số lượng các
dạng tài liệu khác nhau lưu hành trong một xã hội cụ thể. Một trong những
thiết chế văn hóa giúp NDT phát triển nhu cầu đọc và VHĐ là các cơ quan
TT-TV. Mọi hoạt động của các cơ quan TT-TV đều hướng tới người đọc và
giúp họ thỏa mãn tối đã nhu cầu tin của họ. Vì vậy, nhu cầu đọc, VHĐ là một
đối tượng rất cần phải nghiên cứu nhằm hoàn thiện hoạt động của các cơ quan
TT-TV nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ.
1.1.1.2. Thói quen đọc và sở thích đọc
Thói quen là một chuỗi phản xạ có điều kiện của con người do rèn
luyện mà có. Phản xạ có điều kiện là những hành vi (phương pháp làm việc,