LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi tiến hành đổi mới nền kinh tế nước ta đang đạt những thành tựu
hết sức to lớn và đang từng bước hội nhập và thích nghi với nền kinh tế thế giới.
Cùng với sự phát triển về kinh tế thì các ngành nghề ở Việt Nam cũng phong
phú và đa dạng hơn điều này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho lao động trong
nước có thể lựa chọn cho mình một ngành nghề phù hợp đồng thời nó cũng đặt
ra một thách thức không nhỏ đó là đứng trước quá nhiều ngành nghề như vậy thì
làm sao có thể chọn cho mình một ngành nghề hợp lý.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm qua đã cho thấy một điều
rằng đa số sinh viên chưa có sự hiểu biết rõ ràng về ngành mình học, sinh viên
chọn ngành học còn theo cảm tính, theo trào lưu hay theo định hướng gia đình
mà chưa cân nhăc kỹ xem ngành mình lựa chọn có phù hợp với bản thân không.
Theo số liệu điều tra của đề tài nghiên cứu khoa học “Nâng cao chất
lượng giảng dạy các môn học chuyên ngành cho giảng viên trẻ khoa Quản lý
lao động” tại trường Đại học Lao động Xã hội “có 45% sinh viên được khảo sát
trả lời rằng họ vào trường theo nguyện vọng 1, số còn lại 55% sinh viên vào
trường theo nguyện vọng 2. Số lượng sinh viên vào trường theo nguyên vọng 2
là khá lớn, vì vậy, sau mỗi năm học số lương sinh sinh viên cũng có sự thay đổi
do các bạn sinh viên thi lại và chuyển sang các trường, các cơ sở đào tạo khác”.
Điều này chứng tỏ rằng khâu định hướng ngành nghề của sinh viên trong
trường chưa được tốt gây lãng phí thời gian và tiền bạc không nhỏ cho gia đình
và xã hội đồng thời nó gây ảnh hưởng không tốt đến bản thân sinh viên . Để làm
rõ hơn vấn đề này chúng em xin lựa chọn đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến
việc lựa chọn ngành học của sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội”
làm báo cáo khoa học của mình nhằm mục đích tìm hiểu xem các nhân tố nào
đang ảnh hưởng đến việc chọn ngành của sinh viên trường Đại học Lao Động xã
hội và việc chọn ngành như vậy có ảnh hưởng gì đến kết quả học tập của sinh
viên không từ đó chúng em đưa ra các giải pháp, khuyến nghị giúp nâng cao
hiệu quả của việc chọn ngành cho sinh viên trường Đại học Lao động xã hội nói
riêng và sinh viên cả nước nói chung.
I. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Khảo sát và đưa ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành học
của sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội.
Đưa ra những giải pháp nhằm giúp cho sinh viên có những lựa chọn đúng
chuyên ngành mình sẽ học để phù hợp với những yêu cầu đặt ra của nền kinh tế.
1
II. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nhân tố ảnh hưởng đến việc lực
chọn ngành học của sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội.
III. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp khảo sát và phân tích số liệu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn qua bảng hỏi
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH HỌC VÀ ĐỊNH HƯỚNG
CHỌN NGÀNH CHO SINH VIÊN
1.1.Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm về nghề nghiệp.
Nghề nghiệp là một khái niệm được nhắc đến thường xuyên trong đời
sống lao động sản xuất của xã hội, cũng như trong quá trình đào tạo người lao
động.
Nghề được định nghĩa là một dạng xác định của hoạt động lao động trong
hệ thống phân công lao động xã hội với những yêu cầu về kiến thức (hiểu biết)
và kỹ năng phù hợp đòi hỏi ở người lao động để có khả năng thực hiện phải qua
đào tạo hoặc tích lũy kinh nghiệm trong công tác.
Như vậy theo định nghĩa trên nghề được hiểu là sự khác nhau về trình độ,
kỹ năng cũng như những hiểu biết để có thể thực hiện được những công việc
khác nhau trong sản xuất.
Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó con người dùng
sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối
tượng cụ thể nhằm biến đổi những đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích,
yêu cầu và lợi ích của con người.
Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, khái niệm nghề có ý nghĩa
rất to lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến bản chất và hình thức của việc làm.
3
HỆ THỐNG HƯỚNG NGHIỆP
4
Đánh giá về cá nhân
- Khả năng và kỹ năng
- Sở thích
- Tính cách
- Năng lực
Công cụ đánh giá
Loại
- Năng lực
- Sở thích
- Tính cách
Ứng dụng
- Tự đánh giá
- Có hướng dẫn
Phương pháp
- Tự động
- Thủ công
Nguồn hỗ trợ
- Hướng
nghiệp
- Giáo viên
- Giảng viên
- Nhóm hỗ trợ
Phương tiên
thông tin
- Sách
- Sách giới
thiệu
- Webside
- CD-ROM
- Phương tiện
truyền thông
Học tập
trong
công việc
Học tập
Tập sự
Học tập ở
trường
- Đại học
- Cao
đẳng
- Trường
Phân bổ/Phân phối
(Xúc tiến/Tiếp thị)
- Trong toàn quốc
- Địa phương
- Phạm vi cộng đồng
- Phạm vi cá nhân
Thông tin
thị trường
lao động
LMIS
- Phạm vi cả
nước
- Ở địa
phương
Dịch vụ việc làm
- Đại học
- Cơ sở Nhà nước
- Cơ sở tư nhân
- Tự tìm hiểu
1.1.2. Khái niệm định hướng nghề nghiệp.
Định hướng nghề nghiệp hay còn gọi là hướng nghiệp là hệ thống những
biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, giáo dục học, xã hội học và
nhiều khoa học khác nhằm giúp học sinh, sinh viên định hướng nghề nghiệp một
cách đứng đắn để có thể lựa chọn nghề một cách phù hợp với nhu cầu xã hội,
đồng thời thoả mãn tối đa nguyện vọng, thích hợp với năng lực, sở trường và
điều kiện tâm sinh lý cá nhân cũng như hoàn cảnh sống của mỗi người để họ có
thể phát triển đến đỉnh cao trong nghề nghiệp, cống hiến được nhiều cho xã hội
cũng như tạo lập được cuộc sống tốt đẹp hơn cho bàn thân. Định hướng nghiệp
bao gồm các nội dung sau:
- Tư vấn, giới thiệu về ngành, chuyên ngành đào tạo của nhà trường, cơ
hội tìm việc làm sau khi tốt nghiệp cho đối tượng tuyển sinh của nhà trường.
- Tổ chức các hoạt động tư vấn về phương pháp học tập, nội dung, đặc
điểm của ngành, nghề và trình độ đang được đào tạo; các vấn đề về chính sách,
pháp luật của Nhà nước liên quan đến ngành, nghề được đào tạo cho người học
của nhà trường.
- Tổ chức câu lạc bộ hướng nghiệp, hoạt động ngoại khoá, giao lưu với
đơn vị sử dụng lao động, giúp người học bổ sung kiến thức thực tế và các kỹ
năng cần thiết để hoà nhập với môi trường làm việc sau khi tốt nghiệp.
Trong phạm vi của đề tài chúng em chỉ tìm hiểu và nghiên cứu nội dung
lựa chọn ngành học của sinh viên.
1.1.3 Khái niệm về ngành học
Trong “Thuật ngữ trường đại học các nước Xã hội chủ nghĩa” của Ủy ban
quốc gia Liên Xô về giáo dục quốc dân năm 1998 thì “ngành là một lĩnh vực
khoa học, kỹ thuật cho phép người học tiếp nhận những kiến thức và kỹ năng
mang tính hệ thống cần có để thực hiện các chức năng lao động trong khuôn khổ
của nghề cụ thể. Ngành phải được ghi trong văn bằng tốt nghiệp đại học”.
Theo “Bảng phân loại quốc gia của Cộng hòa Belarutxia – ngành đào tạo
và trình độ chuyên môn” của Bộ đào tạo Belarutxia năm 2000 thì “ngành là một
loại hình hoạt động lao động đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng nhất định được
thu nhận thông qua đào tạo hoặc kinh nghiệm thực tế.
Ở Việt Nam, theo công văn số 4831/ĐH ngày 24/12/1990 của Bộ giáo
dục và đào tạo “Ngành đào tạo được xác định thông qua việc phân tích tập hợp
các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cung cấp cho người học trong quá trình đào tạo
để sử dụng chúng trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp xác định, lĩnh vực
đó đặc trưng bởi các đặc điểm của đối tượng, phương tiện lao động và của công
nghệ.
5
1.2. Tầm quan trọng của việc lựa chọn đúng ngành học phù
hợp
1.2.1 Đối với bản thân sinh viên
Định hướng nghề nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với
việc học của sinh viên mà còn là lương tai nghề nghiệp của họ.
Trước tiên, khi đã có một sự định hướng đúng đắn từ khi bước chân vào
giảng đường, việc lựa chọn đúng chuyên ngành học phù hợp sẽ rất dễ dàng,
không còn bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài. Bên cạnh đó, khi đã có sự xác
định và chuẩn bị từ trước, bản thân sinh viên sẽ cảm thấy yêu thích ngành học,
môn học, từ đó, sẽ tự giác tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề của môn học.
Không chỉ vậy, như ta đã biết, bất cứ điều gì xuất phát từ niềm đam mê,
yêu thích thì bản thân nó sẽ là động lực mạnh mẽ nhất để phấn đấu đạt kết quả
cao nhất.
Hơn nữa, với việc lựa chọn đúng ngành phù hợp, ta đã khắc họa ra tương
lai nghề nghiệp của mình vô cùng rõ ràng, từ đó xác định rõ những nghề nghiệp
mà ta có thể sẽ đảm nhận trong tương lai.
1.2.2 Đối với xã hội
Tác động của hoạt động định hướng nghề nghiệp không chỉ ảnh hưởng
đến bản thân sinh viên mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội. Sự ảnh hưởng
này chính là tác động của cầu lao động đến cung lao động. Định hướng nghề
nghiệp cho sinh viên phải theo định hướng của thị trường hay định hướng của
cầu lao động mà cầu lao động quyết định cung lao động về số lượng, chất lượng
và cơ cấu ngành nghề, khu vực, vùng, miền. Tuy nhiên, cung lao động cũng tác
động mạnh trở lại cầu lao động tức là định hướng nghề nghiệp cho sinh viên sẽ
tác động trở lại thị trường lao động rất lớn. Những tác động này được thể hiện
chủ yếu trên các mặt:
Thị trường lao động hoạt động theo quy luật khách quan, là công cụ chủ
yếu để phân bố và xử lý hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế. Các nguồn
lực không phù hợp sẽ bị đào thải. Vì vậy, định hướng nghề nghiệp cho sinh viên
sẽ tác động góp phần nâng cao chất lượng, phù hợp với cơ cấu ngành nghề, khu
vực kinh tế, vùng, miền và bù đắp được những lực lượng thiếu hụt. Từ đó thị
trường lao động sẽ thực hiện chức năng phân phối nguồn lực tốt hơn đồng thời
nâng cao hiệu quả hoạt động.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự cạnh tranh cũng
ngày càng gay gắt hơn, nếu người lao động không có được sự chuẩn bị tốt thì rất
6
khó đứng vững. Định hướng nghề nghiệp sẽ thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị này
cho người lao động, có được công việc phù hợp với khả năng, thu nhập tốt sẽ
đảm bảo cuộc sống cho bản thân và góp phần phát triển xã hội.
Mặt khác, với những trường hợp không có sự định hướng ban đầu đúng
đắn, sau khi ra trường thường phải làm những công việc trái với ngành đào tạo.
Điều này gây lãng phí rất lớn, không chỉ lãng phí tiền của, thời gian của bản
thân mà còn lãng phí tiền của và thời gian của xã hội.
Một vấn đề khác đó là thất nghiệp. Việc làm luôn là mục tiêu cuối cùng
của sinh viên, nếu ra trường không tìm được công việc thì sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến xã hội bởi vì xã hội sẽ luôn phải có trách nhiệm đối với lực lượng không
làm ra của cải vật chất này. Chính vì vậy, để hạn chế vấn đề, một trong những
giải pháp hữu hiệu nhất chính là định hướng nghề nghiệp cho sinh viên.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn ngành học của
sinh viên.
1.3.1. Định hướng của gia đình.
Đối với sinh viên, ảnh hưởng của gia đình đến mọi quyết định đều khá lớn
và không ngoại trừ việc định hướng nghề nghiệp.
Với lợi thế về mặt kiến thức xã hội, kinh nghiệm cuộc sống và đặc biệt là
hiểu rõ khả năng cũng như tính cách của con cái, cha mẹ chính là người có tác
động mạnh nhất tới việc lựa chọn ngành nghề học cũng như định hướng về việc
làm sau này của con mình. Tuy nhiên với cách nhìn nhận này, một số cha mẹ
với kỳ vọng quá lớn vào con cái hoặc chỉ quan tâm đến danh tiếng của những
ngành “hot” đã định hướng không đúng với khả năng cũng như mong muốn của
con cái họ.
Bên cạnh đó, hầu như sinh viên đi học đều chưa tự trang trải chi phí học
tập và sinh hoạt của bản thân bằng thu nhập riêng mà phải phụ thuộc vào gia
đình, chính vì vậy các quyết định riêng khác với định hướng của gia đình thường
không được coi trọng và bỏ qua. Mặt khác, điều kiện kinh tế gia đình cũng tác
động không nhỏ đến quyết định việc lựa chọn ngành học của sinh viên. Nếu
muốn theo đuổi những ngành như công nghệ thông tin, du lịch, thiết kế thời
trang đều đỏi hỏi phải trang bị một số thiết bị, dụng cụ ngay từ đầu, điều này
khiến những gia đình điều kiện kinh tế không thoải mái sẽ định hướng cho con
cái những ngành phù hợp điều kiện hơn.
Hơn nữa, người dân Việt Nam nói chung còn mang nặng tính truyền
thống gia đình, thường mong muốn con học theo những ngành mà gia đình có
7
người đang làm. Ví dụ như một gia đình có bố mẹ, anh chị làm bác sĩ, giáo viên
thì các thành viên khác đều bị “gò” phải học theo “khuôn” đó của gia đình.
Chính vì vậy, sinh viên nên tham khảo ý kiến từ phía gia đình để có cái
nhìn toàn diện và tổng quát hơn nhưng phải tự đưa ra quyết định của bản thân
mình vì ngành học mà mình lựa chọn sẽ là công việc mình gắn bó tương lai.
1.3.2. Sự hiểu biết của bản thân sinh viên.
Quyết định lựa chọn cuối cùng thuộc về bản thân cá nhân sinh viên do
vậy, sự hiểu biết của bản thân sinh viên đóng vai trò không thể thiếu được.
Sự hiểu biết ở đây không chỉ bao gồm sự hiểu biết về năng lực, khả năng,
sở thích, đam mê của bản thân mà còn cần có sự tìm hiểu về những ngành nghề,
công việc mình có khả năng đảm nhận.
Không ai hiểu rõ bản thân hơn chính mình, vì vậy trước khi quyết định
chọn hướng đi cho mình, cần phải biết được mình có những gì, những yếu tố
này có phù hợp với nghề mà mình lựa chọn hay không. Những yếu tố căn bản
cần phải nắm được đó là các yếu tố về sức khỏe, năng lực, tố chất, năng khiếu,
… Với một người có sức khỏe tốt, học lực luôn ở hạng đầu với chỉ số IQ trên
110 và đặc biệt có tố chất với nghề bác sĩ vậy thì không có lí do gì để không
quyết định trở thành một bác sĩ trong tương lai.
Ngược lại, với những tố chất trên nhưng bạn rất sợ mùi bệnh viện, không
có tính nhẫn nại thì quyết định trở thành bác sĩ chưa chắc đã là lựa chọn phù hợp
nhất đối với bản thân.
Bên cạnh đó, để đưa ra được quyết định hợp lý còn phải dựa trên những
thông tin về ngành nghề, công việc mà bạn lựa chọn. Không nên chỉ dựa theo
nhu cầu ngành “hot” thời điểm này mà nên có sự phân tích hướng phát triển của
ngành đó khi mình ra trường. Vào thời điểm năm 2007, 2008 thì ngành Tài
chính ngân hàng, chứng khoán rất được ưa chuộng, số hồ sơ thi vào rất đông
nhưng hiện nay, thị trường công việc cho ngành này đã “hạ nhiệt”, nhiều sinh
viên đã phải rất cố gắng để có được tấm bằng của ngành này ra trường không
tìm được việc làm.
Vì vậy, trước khi lựa chọn ngành nghề nào cũng cần phải có sự tìm hiểu
kỹ lưỡng, hiểu rõ về bản thân cũng như ngành học đó để có quyết định chính xác
và phù hợp nhất.
1.3.3. Các yếu tố từ phía xã hội.
Trong một xã hội phát triển nhanh, thay đổi từng ngày đòi hỏi chúng ta
phải phát triển để bắt kịp tốc độ cũng khiến việc lựa chọn nghề gì để “tồn tại”
không hề dễ dàng.
8
Cách đây 10 năm đổ về trước, việc lựa chọn ngành nghề thường dựa vào
trường mình chọn để học, có câu: “Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách Khoa” để
thể hiện mức độ “hot” nhưng trong xu hướng hiện nay, những ngành nghề mang
tính kinh tế như: quản trị kinh doanh, tài chính ngân hàng, công nghệ thông tin,
PR, chuyên viên quảng cáo,… lại đang thu hút lượng lớn hồ sơ đăng ký học.
Điều này cho thấy, xu hướng phát triển của xã hội vô cùng đa dạng và ảnh
hưởng trực tiếp đến sự lựa chọn ngành học của sinh viên. Người nào nắm bắt
được hướng xoay chuyển của xã hội sẽ nắm chắc được thành công trong tương
lai.
9
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG SINH VIÊN Ở CÁC
NHÓM NGÀNH HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO
ĐỘNG XÃ HỘI
2.1. Khái quát về Trường Đại học Lao động Xã hội.
Trường Đại học Lao động - Xã hội là được thành lập ngày 31/1/2005,
theo Quyết định số 26/2005/QĐ-TTg của Chính phủ, cơ sở chính của Trường
được đặt tại số 43 Trần Duy Hưng, Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
Trường Đại học Lao động - Xã hội tiền thân là trường Trung học Lao
động Tiền lương thuộc Bộ Lao động thành lập năm 1961, với nhiệm vụ ban đầu
là đào tạo cán bộ lao động tiền lương cho toàn miền bắc.
Năm 1991, Trường hợp nhất với trường Quản lý Cán bộ Thương binh Xã
hội, lấy tên là Trường Cán bộ Lao động – Xã hội. Tháng 1/1997 trường được
nâng cấp lên thành trường Cao đẳng Lao động Xã hội.
Đến ngày 31/1/2005, Chính phủ đã ra Quyết định số 26/2005/QĐ-TTg,
thành lập trường Đại học Lao động – Xã hội trên cơ sở nâng cấp trường Cao
đẳng Lao động Xã hội.
• Quản lý lao động
• Kế toán
• Bảo hiểm xã hội
• Công tác xã hội
• Kỹ thuật chỉnh hình
Với 50 năm hình thành và phát triển, Trường đã đào tạo và bồi dưỡng
được nhiều cán bộ phục vụ cho ngành Lao động - Xã hội cũng như nhiều ngành
kinh tế quốc dân khác, được Đảng và Nhà nước Việt Nam trao tặng nhiều phần
thưởng cao quý như:
• Huân chương lao động hạng 3 (1981)
• Huân chương lao động hạng nhì (1991)
• Huân chương lao động hạng nhất (1996)
• Huân chương độc lập hạng ba (2001)
• Huân chương độc lập hạng nhì (2006)
• Huân chương độc lập hạng nhất (2011)
10
2.2. Phân tích thực trạng sinh viên ở các ngành học qua số liệu
điều tra các ngành học.
2.2.1 Phân tích việc lựa chọn ngành học của sinh viên theo giới tính.
Trên cơ sở thu thập và phân tích số liệu, nhóm nghiên cứu đưa ra được
biểu đồ sau:
Biểu 2.1. Cơ cấu sinh viên trong 4 ngành học được điều tra theo giới tính
Đơn vị : %
Nguồn : Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Dựa trên cơ sở phân tích số liệu từ 350 phiếu điều tra thu về cho thấy,
nhìn chung trong tất cả các chuyên ngành thì số sinh viên nữ chiếm tỉ trọng khá
cao và giữa tỉ lệ sinh viên nam và tỉ lệ sinh viên nữ trong các ngành học cũng sự
chênh lệch đáng kể, đặc biệt là sự mất cân đối về tỉ lệ sinh viên nam và sinh viên
nữ trong ngành Kế toán. Ngành kế toán là ngành học có tỉ lệ sinh viên nữ cao
nhất chiếm 92,8% trong khi đó tỉ lệ sinh viên nam chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ là
7,2%. Như vậy cứ khoảng 12 sinh viên nữ mới có một sinh viên nam.
Các chuyên ngành khác có tỉ lệ sinh viên nữ chiếm khoảng 3/5 tổng số
sinh viên. Cụ thể chuyên ngành Quản lý lao động có tỉ lệ sinh viên nữ theo học
cao, chiếm 64.7% còn tỉ lệ sinh viên nam chỉ chiếm 35,3%. Ngành Bảo hiểm thì
tỉ lệ sinh viên nữ chiếm 65% còn tỉ lệ sinh viên nam là 35%. Tỉ lệ sinh viên nữ
và tỉ lệ sinh viên nam của ngành Công tác xã hội tương ứng là 62,8% và 37,2%.
11
Sự chênh lệch giữa tỷ lệ sinh viên nam và sinh viên nữ của cả bốn chuyên
ngành này là tương đối phù hợp vì thực tế, số sinh viên nam thường tập trung ở
khối kỹ thuật, khối kinh tế thường thu hút nữ sinh đăng ký hơn.
Xét về sự chênh lệch quá lớn tại ngành Kế toán, có thể tìm hiểu được
nguyên nhân xuất phát từ đặc tính của công việc. Ngành kế toán là công việc
liên quan đến các con số, yêu cầu ở người học tính cẩn thận và kiên nhẫn, ngoài
ra đây là một công việc “ngồi bàn giấy”, khả năng linh động thấp nên không có
sức hút mạnh với sinh viên nam. Nhưng ngược lại, sinh viên nữ với mong muốn
tìm được những công việc với tính ổn định cao, thì ngành học Kế toán lại khá
phù hợp. Chính vì vậy, kết quả tỷ lệ điều tra này không có điểm gì quá khác biệt
và tương đối hợp lý.
2.2.2. Phân tích việc lựa chọn ngành học của sinh viên theo nơi ở hiện
tại của gia đình.
Đặc điểm địa lý nơi ở của sinh viên cũng tác động đến lối suy nghĩ, khả
năng tiếp cận nguồn tư liệu nghiên cứu học tập và thông tin cần thiết để chọn lựa
ngành học. Với những sinh viên sinh sống tại vùng thành thị, khả năng tiếp cận
với những kiến thức mới, phương pháp học tiên tiến sẽ giúp họ có được cái nhìn
thực tế về việc học. Hơn nữa, điều kiện xã hội ở thành thị cũng giúp cho họ nắm
được những thông tin cập nhật nhất về các ngành nghề, lĩnh vực học để quyết
định ngành nghề theo học. Còn đối với phần lớn sinh viên ở nông thôn, điển
hình nhất để tìm hiểu và nghiên cứu thông tin là sử dụng máy tính truy cập
Internet thì vẫn rất khó khăn, máy tính trang bị rất hạn chế bên cạnh việc hướng
dẫn sử dụng còn hạn chế.
Một tình trạng phổ biến ở các vùng nông thôn hiện nay đó là khi lựa chọn
ngành học không có thông tin thêm nào quyển “Những điều cần biết về tuyển
sinh Đại học, cao đẳng”, đa phần thí sinh sẽ đọc và lựa chọn theo cảm tính.
Mặt khác. hiện nay ở các vùng nông thôn, tỷ lệ học sinh học tốt nghiệp
trung học phổ thông xong quyết định thi Đại học là không lớn, năm 2008 mới
chỉ đạt 62% tổng số học sinh tốt nghiệp.
12
Biểu 2.2 Cơ cấu sinh viên trong các ngành học được điều tra
theo nơi ở hiện tại của gia đình
Đơn vị :%
Nguồn: Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Biểu trên có thể thấy rõ tỷ lệ sinh viên ở khu vực nông thôn chiếm tỷ khá
lớn so với số sinh viên ở khu vực thành thị. Chuyên ngành Bảo hiểm có sự
chênh lệch rõ nhất, tỷ lệ sinh viên ở khu vực thành thị chỉ chiếm hơn 1/4, cụ thể
là 28,75% tổng số sinh viên trong ngành còn tỷ lệ sinh viên ở khu vực nông thôn
chiếm 72,25%.
Tỷ lệ cân đối giữa số sinh viên giữa hai khu vực thành thị và nông thôn là
ở ngành Kế toán, sinh viên ở khu vực thành thị chiếm 46,42% còn sinh viên ở
khu vực nông thôn chiếm 53,58%
Còn các chuyên ngành còn lại có tỉ lệ sinh viên ở khu vực nông thôn
chiếm tỉ lệ rất cao, trên 68%.Tỷ lệ điều tra này đã khẳng định xu hướng lựa chọn
ngành của sinh viên ở khu vực nông thôn là những ngành phù hợp với khả năng,
không đòi hỏi cao về trình độ tin học, ngoại ngữ, là điểm yếu so với những sinh
viên ở khu vực thành thị và quan trọng là dễ tìm được việc làm ngay khi ra
trường.
13
2.3 Các nhân tố tác động đến việc lựa chọn ngành học của sinh
viên.
2.3.1. Sự định hướng từ phía gia đình.
Gia đình có sức ảnh hưởng rất lớn trong mọi quyết định của sinh viên, đặc
biệt đối với quyết định công việc tương lai của con cái mình. Dù ít hay nhiều thì
khi đưa ra quyết định của bản thân, sinh viên đều lắng nghe, tham khảo ý kiến từ
phía gia đình. Khi điều tra về mức độ ảnh hưởng của gia đình đến việc lựa chọn
nghành học của sinh viên thu được kết quả sau:
Bảng 2.1: Kết quả điều tra mức độ ảnh hưởng của gia đình đến việc
lựa chọn ngành học
Đơn vị : người
Mức độ Chuyên
ảnh hưởng ngành
Quản lý
lao động
Kế toán Bảo hiểm
Công tác
xã hội
Tổng
Quyết định 17 28 6 11 62
Chỉ định hướng và
gợi ý
35 22 27 12 96
Cho toàn quyền
quyết định
63 31 46 47 187
Khác 1 3 1 0 5
Tổng 115 84 80 70 350
Biểu 2.3: Mức độ ảnh hưởng của gia đình đến lựa chọn ngành học
14
Đơn vị :%
Nguồn: Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Kết quả trên cho thấy ảnh hưởng chính của gia đình đối với quyết định
lựa chọn ngành đang học của sinh viên là định hướng và gợi ý, chiếm 53,86%,
những gia đình này giúp sinh viên hiểu được vấn đề và đưa ra các thông tin
tham khảo góp phần định hướng con đường sẽ đi cho con cái mình; 28% trường
hợp gia đình cho sinh viên toàn quyền quyết định, được lựa chọn theo sở thích,
nguyện vọng của bản thân; còn 65 trong số 350 sinh viên được điều tra, chiếm
17,71% thì lựa chọn ngành học theo sự quyết định của gia đình.
Ngoài ra, theo kết quả điều tra thu được ở bảng 2.1, có thể thấy vai trò
quyết định của gia đình thể hiện rõ nhất là đối với sinh viên chuyên ngành Kế
toán, chiếm 33,33%. Vai trò định hướng và gợi ý của gia đình có tác dụng nhất
đối với sinh viên ngành Bảo hiểm, chiếm 33,75%. Còn tỷ lệ sinh viên được toàn
quyền quyết định chuyên ngành đang học lớn nhất là sinh viên ngành Công tác
xã hội, chiếm 67,14%. Kết quả này có thể thấy khá phù hợp vì ngành Kế toán là
một trong những ngành có đầu ra dễ tìm kiếm được việc làm nhất hiện nay nên
đa phần phụ huynh đều mong muốn con em mình học ngành này. Ngành Bảo
hiểm không mới nhưng thời gian gần đây cũng phát triển đáng kể trên thị trường
việc làm, thu hút một lượng lớn lao động, còn ngành Công tác xã hội được sinh
viên tự quyết định khá đông vì môi trường và lĩnh vực hoạt động của ngành này
trong tương lai là khá rộng, phù hợp với sự nhiệt tình và năng động của tuổi trẻ.
Bên cạnh đó, trong số những sinh viên do gia đình quyết định ngành học
thì có 35,48% là lựa chọn theo truyền thống gia đình, còn lại 64,52% là do gia
đình đã chuẩn bị được chỗ làm sau khi ra trường nên muốn con cái học ngành
15
đó. Như vậy, gia đình đóng vai trò khá lớn cho sinh viên khi họ lựa chọn chuyên
ngành mà họ đang theo học.
Ngoài ra, khi điều tra sâu với những sinh viên được toàn quyền quyết định
ngành học về lý do lựa chọn ngành đang học thu được kết quả như sau:
Bảng 2.2: Lý do lựa chọn ngành học của những sinh viên được toàn quyền
quyết định lựa chọn ngành học
Đơn vị: sinh viên; %
Lý do Số lượng Tỷ lệ %
Ngành “hot” trên thị trường 115 32,86
Là ngành sẽ phát triển trong tương lai 56 16
Thấy ngành này hay hay 152 43,43
Khác 28 7,71
Tổng 350 100
Nguồn: Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Kết quả này cho thấy đa số sinh viên khi lựa chọn mới chỉ lựa chọn theo ý
thích, thấy ngành nào hay hay, có vẻ thú vị thì đăng ký, số lượng này chiếm
43,43% số sinh viên được điều tra. Số sinh lựa chọn theo xu hướng ngành “hot”
trên thị trường cũng không hề nhỏ, chiếm 32,86% còn số lượng sinh viên tìm
hiểu để biết ngành nào sẽ có điều kiện phát triển trong tương lai để đăng ký thì
mới chỉ chiếm 16%.
2.3.2. Sự hiểu biết về chuyên ngành học của bản thân sinh viên.
Lựa chọn ngành học nào cuối cùng cũng do chính bản thân sinh viên
quyết định và quyết định này là kết quả của quá trình tìm hiểu và nghiên cứu các
nguồn thông tin thu thập được.
Kết quả điều tra về sự hiểu biết của sinh viên về chuyên ngành đang học
thu được bảng kết quả sau:
Bảng 2.3. Số liệu về sự hiểu biết của sinh viên về chuyên ngành học
Đơn vị: sinh viên, %
16
Chỉ tiêu
QLLĐ Kế toán Bảo hiểm CTXH
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Có
hiểu biết về
chuyên
ngành khi
lựa chọn
ngành học
85 73,28 76 90,47 58 72,5 52 74,28
Không
hiểu biết về
chuyên
ngành khi
lựa chọn
ngành học
31 26,72 8 9,53 22 27,5 18 25,72
Nguồn : Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Đối với những sinh viên mà bản thân họ đóng vai trò quyết định đến việc
lựa chọn ngành học thì có những sinh viên đã tìm hiểu về chuyên ngành mà
mình định theo học nhưng cũng có những sinh viên lựa chọn chuyên ngành chỉ
theo cảm tính thấy ngành đó có vẻ hay hay nên đăng ký và họ không có hiểu biết
gì về chuyên ngành định đăng ký theo học.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy so với sinh viên chưa có sự hiểu biết về
chuyên ngành học thì tỷ lệ sinh viên có sự hiểu biết về ngành học chiếm tỷ lệ
khá cao đặc biệt là nghành kế toán chiếm 90, 47%, tỷ lệ này ở ngành quản lý lao
động là 73,28%, ở ngành bảo hiểm là 72,5%, ngành công tác xã hội là 74,28%.
Sự hiểu biết của sinh viên đối với việc chọn ngành chiếm tỷ lệ cao chứng tỏ sinh
viên đã có ý thức chủ động trong việc lựa chọn ngành học và ngày càng có trách
nhiệm hơn trong việc định hướng nghề nghiệp cho bản thân điều này có tác
dụng rất lớn đến bản thân của sinh viên và nhà trường, với sinh viên sự hiểu biết
trước khi lựa chọn chuyên ngành học giúp sinh viên có tâm lý ổn định khi theo
học, không có thái độ hoang mang, chán chuyên ngành mình học từ đó mà sinh
viên có nhiều cố gắng theo đuổi chuyên ngành của mình lựa chọn. Với nhà
trường điều này giúp nhà trường có thể nhanh chóng ổn định việc dạy và học do
số lượng sinh viên có tâm lý thi lại và có ý định thôi học ở trường chiếm tỷ lệ ít.
17
Bên cạnh lượng lớn sinh viên có sự hiểu biết khi lựa chọn chuyên ngành
học thì số lượng sinh viên còn chưa có hiểu biết về chuyên ngành học vẫn còn
khá cao tỷ lệ sinh viên chưa có sự hiểu biết về chuyên ngành học ở khoa quản lý
lao động là 26,72%, khoa bảo hiểm là 27,5%, khoa công tác xã hội là 25,72% và
ít nhất là khoa kế toán 9,53%. Tỷ lệ sinh viên chưa có sự hiểu biết về chuyên
ngành học chiếm tỷ lệ còn cao điều này phản ánh khâu tuyên truyền giáo dục ý
thức nghề nghiệp cho sinh viên chưa được tốt, nhiều sinh viên có có tâm lý thờ ơ
với định hướng tương lai của mình. Khoa kế toán là khoa có tỷ lệ sinh viên
không có hiểu biết về chuyên ngành mình học chiếm tỷ lệ thấp nhất 9,53% vì
đây là ngành đang rất phổ biến hiện nay và có nhiều trường đào tạo về ngành
này cho nên việc tìm hiểu thông tin về ngành học này khá thuận lợi cho sinh
viên.
Tuy nhiên, khi điều tra sâu về sự hiểu biết của sinh viên về chuyên ngành
học thì tỷ lệ thu được giữa sinh viên hiểu biết về chuyên ngành học trước khi
học và sau khi học một thời gian có sự khác biệt rõ rệt.
Nhìn vào biểu đồ có thể nhận thấy ngành Quản lý lao động là ngành có số
sinh viên hiểu biết về ngành trước khi vào học thấp, chỉ đạt 31,76 %. Đa số sinh
viên thuộc chuyên ngành này đều bắt đầu học một thời gian rồi mới tìm hiểu và
biết được ngành mình học là nghiên cứu những vấn đề gì, liên quan đến mảng
lĩnh vực nào của xã hội, cũng như sau này sẽ làm những công việc gì. Tỷ lệ sinh
viên hiểu biết về chuyên ngành sau khi học một thời gian trong trường lên đến
68,24%
Chuyên ngành Bảo hiểm có số sinh viên hiểu biết về chuyên ngành trước
và sau khi vào học một thời gian tương đương nhau, sự chênh lệch rất nhỏ, chỉ
đạt 3,46%, tương đương 2 sinh viên trong tổng số sinh viên điều tra. Cụ thể số
sinh viên có sự hiểu biết về chuyên ngành trước khi vào trường chiếm 48,27%
còn số sinh viên có hiểu biết về ngành học sau khi vào học một thời gian trong
trường đạt 51,73%.
Còn hai chuyên ngành là Kế toán và Công tác xã hội, số sinh viên có sự
hiểu biết về chuyên ngành trước khi vào học là khá lớn so với số sinh viên phải
cần một thời gian vào học mới có được những hiểu biết cần thiết. Cụ thể ở
chuyên ngành Kế toán, tỷ lệ sinh viên có được sự hiểu biết về ngành học trước
khi lựa chọn là 69,74% còn tỷ lệ sinh viên hiểu biết về ngành học sau một thời
gian chỉ là 30,26%. Tỷ lệ này ở ngành Công tác xã hội là 71,15% và 28,85%.
Nhìn chung sự chênh lệch giữa sinh viên hiểu biết về ngành học trước khi
lựa chọn ngành và sinh viên cần một thời gian sau khi vào học để hiểu được
ngành mình đang theo học của trường Đại học Lao động Xã hội là khá lớn, tỷ lệ
18
và sự phân loại khác nhau tùy vào chuyên ngành khác nhau. Nguyên nhân có thể
là do chuyên ngành Kế toán là một chuyên ngành có đầu ra rộng, thông tin về
công việc được nói đến nhiều, chuyên ngành Công tác xã hội và Bảo hiểm có
thể tìm hiểu qua nhiều kênh thông tin như báo chí, gia đinh, bạn bè,… còn
ngành Quản lý lao động thì kênh thông tin còn hạn chế.
Biểu 2.4: Số liệu về tỷ lệ sinh viên hiểu biết về chuyên ngành học
Đơn vị: %, Sinh viên
Khoa
Chỉ tiêu
QLLĐ Kế toán Bảo hiểm CTXH
Hiểu biết về chuyên
ngành trước khi vào trường
27 53 28 37
Hiểu biết về chuyên
ngành sau khi học một thời
gian trong trường
58 23 30 15
Tổng 85 76 58 52
Nguồn : Bảng điều tra thực tế sinh viên trưòng ĐHLĐXH
2.3.3 Các nhân tố từ phía xã hội.
Mục đích cuối cùng của bất kỳ sinh viên nào khi tham gia vào một quá
trình đào tạo đó là sau khi ra trường sẽ tìm được một công việc đúng nguyện
vọng, có thể nuôi sống bản thân, gia đình và cống hiến cho xã hội. Chính vì vậy,
19
ngay từ khi quyết định lựa chọn ngành học, người sinh viên phải căn cứ vào
những nhu cầu từ phía xã hội, phải biết xã hội đang cần gì, đang thiếu gì để có
quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn chuyên ngành, nhờ đó khi ra trường có
thể có được công việc trong ngành nghể mong muốn khi tham gia vào thị trường
lao động.
Trong một xã hội ngày càng phát triển thì càng có nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định lựa chọn ngành học của sinh viên. Điển hình có thể nhắc
tới đó là xu hướng phát triển của nền kinh tế, cung cầu trên thị trường lao động,
độ nóng của các ngành học trên biểu đồ giáo dục hay các kênh thông tin về
hướng nghiệp,…
Dựa trên các tác động từ nhân tố xã hội, việc lựa chọn ngành học nào phù
hợp với bản thân và định hướng phát triển của xã hội để đảm bảo một tương lai
tốt đẹp sẽ dễ dàng hơn. Nhờ đó, khi sinh viên bắt đầu bước vào quá trình đào tạo
tại trường đại học đã xác định được cho mình ngành nghề phù hợp để có thể đạt
kết quả cao trong học tập, đồng thời tích luỹ được một vốn kiến thức đầy đủ,
đảm bảo khi ra trường có thể tìm được những công việc đúng ngành nghề như
mong muốn.
Trước hết, muốn quyết định chọn một ngành học nào, ta cần phải biết
được những thông tin tối thiểu như có bao nhiêu ngành học? Những ngành học
nào đang chiếm lĩnh trên thị trường lao động? Những trường nào tổ chức đào tạo
ngành học đó?
Để có được những thông tin này, sinh viên đều phải tìm hiểu qua các kênh
thông tin, từ thầy cô, từ những người thân trong gia đình, bạn bè đến các phương
tiện truyền thông như sách báo, tivi,…
Dưới đây là bảng kết quả điều tra thu được khi tìm hiểu về các nguồn thu
thập thông tin trước khi lựa chọn ngành học của các bạn sinh viên:
Bảng 2.4: Số liệu về nguồn thu thập thông tin khi lựa chọn ngành học
Đơn vị: sinh viên; %
Kênh thông tin Số lượng Tỷ lệ %
Gia đình, bạn bè 350 100
Thầy cô 238 68
Trung tâm tư vấn 12 3,43
Sách, báo, tạp chí 350 100
20
Truyền hình 337 96,28
Internet 198 56,57
Khác 26 7,43
Nguồn : Bảng điều tra thực tế sinh viên trưòng ĐHLĐXH
Kết quả trên cho thấy các kênh thông tin phổ biến với sinh viên chính là
gia đình, bạn bè, sách, báo, tạp chí, truyền hình với tỷ lệ kết quả điều tra thu
được là 100% và 96,28%. Gia đình là nguồn cung cấp thông tin rất hữu ích nhưn
vẫn còn mang nặng ý kiến chủ quan, định hướng của gia đình. Khi được hỏi cụ
thể sách, báo hay tạp chí thường được sinh viên sử dụng để tham khảo trước khi
lựa chọn ngành thì kết quả thu được đến 89% chỉ là quyển “Những điều cần biết
về tuyển sinh Đại học – Cao đảng”. Mà như đã biết, sách này chỉ nêu những
điểu cơ bản nhất về kỳ thi và danh sách các ngành học, chưa thể nêu được
những điều đặc biệt, đặc thù của từng ngành.
Mặt khác, nguồn thông tin từ thầy cô giáo, những người dạy dỗ và kèm
các bạn học sinh suốt những năm trung học phổ thông là người nắm rõ được học
lực cũng như sở trường của học sinh để đưa ra những lời khuyên bổ ích và
chuẩn xác nhất thì lại chưa được khai thác đúng mức. Theo kết quả điều tra, số
lượng sinh viên từng tham khảo ý kiến của thầy cô giáo để lựa chọn chuyên
ngành học cho phù hợp mới chỉ chiếm 68%. Đây thật sự là một sự lãng phí bởi
lẽ thầy cô giáo không chỉ nắm được khả năng, trình độ, điểm mạnh, điểm yếu
của học sinh mà còn biết được học sinh đó có thiên hướng về khối nào, ngành
nào, từ đó có lời khuyên đúng đắn, không chỉ giúp sinh viên học được ngành
ưng ý mà còn học được tại một trường phù hợp với trình độ của mình.
Bên cạnh đó, một kênh thông tin đang ngày càng thu hút sự quan tâm
cũng như tin tưởng của tất cả mọi người đó là mạng Internet. Mạng Internet với
số lượng thông tin đa dạng, phong phú, được cập nhật liên tục và dễ dàng tra
cứu chính là ưu điểm dễ thấy nhất. Tuy nhiên số sinh viên sử dụng kênh thông
tin này còn rất khá hạn chế, mới chỉ chiếm 56,57%. Điều này cũng khá hợp lý vì
nguyên nhân có thể xuất phát từ điều kiện để sử dụng mạng Internet là phải có
máy tính và đường dây mạng, cũng như là các kỹ năng sử dụng máy tính. Vấn
đề này có thể dễ dàng với các tỉnh, thành phố phát triển nhưng với tỷ lệ sinh
viên ở nông thôn, chiếm 65,14% thì điều này quả thật là một trở ngại. Bên cạnh
đó, mạng Internet không chỉ có các thông tin về tuyển sinh, ngành học, các
trường đại học hay các chương trình học mà còn có rất nhiều các thông tin khác
thu hút học sinh sinh viên tìm hiểu mà quên đi nhiệm vụ học tập.
21
Mặt khác, trung tâm tư vấn không chỉ tư vấn, cung cấp các thông tin cần
thiết về ngành học mà còn có thể kiểm tra năng lực, sở thích của người cần tư
vấn thông qua bài trắc nghiệm hướng nghiệp, từ đó có lời khuyên chính xác,
khoa học nhất. Đây là một kênh thông tin vô cùng hữu ích là trung tâm tư vấn
thì mới chỉ có 3,43% sinh viên sử dụng.
Ngoài ra, theo điều tra, các kênh thông tin khác chiếm 7,43% bao gồm
thông tin tìm hiểu từ các tờ rơi, quảng cáo, thông tin tuyển dụng, nhưng thực
tế các nguồn thông tin này đều không chính xác, mà mang tính thời vụ.
Bên cạnh đó, theo kết quả điều tra sự ảnh hưởng của các nhân tố xã hội
khi quyết định ngành học của sinh viên trường Đại học Lao động Xã hội thu
được bảng số liệu sau:
Bảng 2.5. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố xã hội đến việc lựa chọn
ngành học của sinh viên
Đơn vị: Sinh viên; %
Chỉ tiêu
QLLĐ Kế toán Bảo hiểm CTXH
SV % SV % SV % SV %
Ngành nghề
xã hội cần, dễ
xin việc
52 44,83 53 63,10 27 33,75 31 44,29
Công việc ổn
định, nhẹ
nhàng
23 19,83 24 28,57 41 51,25 9 12,86
Có mức lương
cao
35 30,17 7 8,33 12 15,00 22 31,43
Các nguyên
nhân khác
6 5,17 0 0 0 0 8 11,43
Tổng 116 100 84 100 80 100 70 100
Nguồn : Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
22
Biểu 2.5: Sự ảnh hưởng của các nhân tố xã hội đến quyết định ngành học
của sinh viên trường ĐHLĐXH
Đơn vị: %
Nguồn : Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Theo kết quả điều tra từ bốn chuyên ngành trong trường Đại học Lao
động Xã hội trên ta thấy trong tổng số 350 sinh viên được điều tra thì có đến
46% số sinh viên đó quyết định ngành học với mong muốn là khi học xong ra
trường có thể dễ dàng tìm được một công việc.
Chuyên ngành Kế toán thể hiện rõ nhất kết quả này, số sinh viên có
nguyện vọng chọn ngành kế toán theo học để ra trường dễ dàng tìm được việc
làm chiếm 63,1%. Tỷ lệ này ở các chuyên ngành còn lại cũng tương đối cao, tỷ
lệ sinh viện chọn ngành với mong muốn dễ dàng tìm việc sau khi ra trường ở
các chuyên ngành QLLĐ, Bảo hiểm và CTXH lần lượt là 44,83%, 33,75% và
44,29%.
Bên cạnh đó, sự chênh lệch giữa số sinh viên lựa chọn ngành học với
mong muốn ra trường tìm được một công việc ổn định, nhẹ nhàng với một công
việc lương cao cũng không có sự cách biệt lớn. Với mục đích là một công việc
ổn định, nhẹ nhàng, có 28% lựa chọn trong đó có 73,5% là nữ (tương đương vói
72 sinh viên) nên điều này cũng phù hợp với thực tế con gái thường chỉ mong
tìm một công việc ổn định để còn tập trung chăm lo gia đình. Giữa các chuyên
ngành thì tỷ lệ này cao nhất là ở chuyên ngành Bảo hiểm, chiếm 51,25% số sinh
viên được điều tra.
Với mục đích là một công việc lương cao thì có 24% số sinh viên lựa
chọn, tỷ lệ này ở các chuyên ngành có sự khác nhau rõ rệt, hai chuyên ngành là
23
46,57
27,71
21,71
QLLĐ và CTXH lần lượt là 30,17% và 31,43%, còn lại chuyên ngành Kế toán
và Bảo hiểm lần lượt là 8,33% và 15%.
Từ kết quả phân tích trên chúng ta thấy rõ ràng rằng nhân tố xã hội có ảnh
hưởng không nhỏ tới sự chọn lựa chuyên ngành của sinh viên
2.4 Phân tích mối quan hệ của việc lựa chọn ngành với kết quả
học tập của sinh viên
Trong quá trình học tập thì việc lựa chọn chuyên ngành của sinh viên khi
vào trưòng rõ ràng có ảnh hưởng tới quá trình học tập của sinh viên trong suốt
quá trình học tập trên ghế giảng đường. Việc lựa chọn ấy có thể làm tăng hay
giảm khả năng học tập của sinh viên, hay cũng có thể làm kết quả học tập của
sinh viên không mấy thay đổi trong quá trình học tập. Kết quả này có thể xem
xét thông qua việc kết quả học tập của sinh viên tăng, giảm hay ít thay đổi với
việc khi sinh viên vào chuyên ngành thì năng lực và sở thích của sinh viên có
phù hợp với chuyên ngành đang theo học hay không.
2.4.1 Phân tích kết quả học tập của sinh viên trong các ngành học
Kết quả học tập năm thứ nhất của sinh viên trường đại học lao động xã
hội được thể hiện như sau:
24
Biểu 2.6: Kết quả học tập năm thứ 1 và năm thứ 3 của sinh viên Trường
Đại học Lao động Xã hội.
Đơn vị: %
Nguồn: Số liệu điều tra bằng bảng hỏi sinh viên trường ĐHLĐXH
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy kết quả học tập của sinh viên năm thứ
nhất chỉ có ba loại : Giỏi, khá và trung bình. Trong ba loại trên thì loại trung
bình có tỷ lệ cao nhất chiếm 76,57%, tiếp theo đó là loại khá chiếm tỷ lệ 22%
cuối cùng là loại giỏi chiếm 1,43%. Sở dĩ sinh viên có lực học trung bình ở năm
thứ nhất chiếm tỷ lệ rất cao vì đây là năm đầu tiên sinh viên còn nhiều bỡ ngỡ về
phương pháp và hình thức học ở môi trường đại học, mặt khác đa số sinh viên
có tâm lý vui chơi thoải mãi để giải tỏa căng thẳng sau kỳ thi đại học thêm vào
đó những khó khăn trong việc phải thích nghi với môi trường mới, phải làm chủ
cuộc sống đã phần nào đã làm kết quả học tập của sinh viên không được tốt. Số
lượng sinh viên đạt loại khá và giỏi còn ít.
Cùng với việc tìm hiểu về kết quả học tập năm thứ nhất chúng em cũng
tìm hiểu xem kết quả học tập từ năm thứ ba (đây là năm mà sinh viên đã học các
môn chuyên ngành) của sinh viên từ đó xem xét, đánh giá xem nó tăng hay giảm
và việc lựa chọn chuyên ngành có ảnh hưởng gì đến kết quả học tập này.
25