Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Vai trò của tòa án trong việc bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.67 KB, 102 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THU TRANG

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TỪ THỰC TIỄN XÉT
XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội – 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THU TRANG

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TỪ THỰC TIỄN XÉT
XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội - 2020




LỜI CAM ĐOAN
Giám đốc Học viện Khoa học xã hội đã quyết định giao cho học viên
Vũ Thu Trang đề tài luận văn thạc sĩ: “Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ
quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại
tỉnh Bắc Ninh”. Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự; Mã số:
8380104.
Học viên xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của học viên và
hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Minh Tuyên; các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố; nội dung
luận văn không sao chép bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
Học viên xin chịu mọi trách nhiệm về tính trung thực của luận văn.
Tác giả luận văn

Vũ Thu Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TTHS.............................................. 5
1.1. Khái niệm về người bị buộc tội và quyền của người bị buộc tội
theo tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................. 5
1.2. Khái niệm, nội dung, đặc điểm vai trò của Tòa án trong bảo vệ
quyền của người bị buộc tội.................................................................... 25
1.3. Qui định về vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị
buộc tội theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .................................. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TỪ THỰC
TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI BẮC NINH .... 40
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng qui định pháp luật về vai
trò của Tòa án nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ
thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Bắc Ninh ....................... 40
2.2. Thực trạng vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị
buộc tội trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Bắc Ninh ............... 43
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
BUỘC TỘI ..................................................................................................... 65
3.1. Bảo đảm thực hiện đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo
vệ quyền của người bị buộc tội ............................................................... 65
3.2. Các giải cụ thể.................................................................................. 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL

Áp dụng pháp luật

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử


TAND

Tòa án nhân dân

TTHS

Tố tụng hình sự

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh
Bảng 2.2. Số liệu số lượng vụ án hình sự sơ thẩm bị hủy, sửa của TAND tỉnh
Bắc Ninh
Bảng 2.3. Số lượng vụ án hình sự sơ thẩm của TAND tỉnh Bắc Ninh trả hồ sơ
điều tra bổ sung


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền tự nhiên cơ bản của một người mà bất kỳ một
quốc gia nào trên thế giới hay bất cứ một chế độ Chính trị nào cũng đều phải quan
tâm và bảo vệ. Quyền con người được ghi nhận trong các Điều ước Quốc tế, trong
Hiến pháp, các đạo luật của quốc gia và được bảo đảm thực hiện trong thực tế. Ở
Việt Nam, tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một trong những nguyên tắc pháp
lý quan trọng trong Chiến lược cải cách tư pháp, “xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [2]. Tư tưởng xây dựng nhà
nước pháp quyền, bảo vệ tối đa quyền con người được thể hiện trong các định
hướng của Đảng về cải cách tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội sửa đổi và phát triển năm 2011 khẳng định: “Con người
là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất
nước và quyền làm chủ của nhân dân” [6]; đồng thời yêu cầu “Nhà nước tôn trọng
và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, chăm lo hạnh phúc, sự phát triển
của mỗi người”.
Người bị buộc tội là một con người cụ thể, là người bị nghi ngờ có thể thực

hiện hành vi phạm tội. Pháp luật qui định người bị buộc tội có những quyền và
nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo tính khách quan, công bằng, nghiêm minh trong giải
quyết vụ án hình sự. Quyền của người bị buộc tội là một trong những quyền của con
người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 31 Hiến pháp 2013 qui định “Người
bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật
định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”
Bảo vệ quyền con người, quyền của người bị buộc tội nghĩa vụ của Nhà
nước. Hoạt động bảo vệ quyền con người được thực hiện thông qua hoạt động của
các cơ quan Tư pháp mà trước hết là hoạt động xét xử của Tòa án. Điều 102 Hiến
pháp năm 2013 qui định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.” “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân.” Qua chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử các vụ án hình sự, đặc biệt
1


là xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm đã thể hiện vai trò của Tòa án trong bảo vệ
quyền của người bị buộc tội. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động xét xử của TAND trong
thời gian qua đã phát hiện vẫn còn tồn tại những hạn chế là: Vẫn còn tình trạng bức
cung, phản cung, truy tố không đúng tội danh, vi phạm các thủ tục tố tụng trong
điều tra, truy tố làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền của người bị buộc tội. Từ đó đặt
ra vấn đề vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong xét xử
các vụ án hình sự sơ thẩm cần được quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, tôi chọn đề tài:
“Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét
xử sự sơ các vụ án hình thẩm tại tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn Thạc sỹ Luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề nghiên cứu xoay quanh các qui định về vai trò của Tòa án trong
bảo vệ quyền của người bị buộc tội được thể hiện trong rất nhiều trong các công

trình nghiên cứu khoa học như:
Tiến sĩ Trần Quang Tiệp (2009), Về bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội; GS. TS Đào Trí Úc (2015) Hiến pháp 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý Đại học Luật
TP.HCM số
3/2015; TS. Phạm Minh Tuyên (2015), Bảo đảm quyền có phiên tòa công bằng
trong xét xử các vụ án hình sự tại Việt Nam, Tạp chí Pháp luật và phát triển, số
02/2015; Tác giả Nhiếp Thị Liên với đề tài “Tòa án với vai trò bảo vệ quyền con
người thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự”; tác giả Nguyễn Tiến Đạt với
đề tài “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt tạm giữ, tạm giam”; “Quyền bào
chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Tôn Thiện
Phương đăng trên tạp chí Kiểm sát số 10 năm 2017; “Bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại” của tác giả Nguyễn Văn Tuân, NXB Tư pháp năm 2019; Luận án
Tiến sĩ “Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội
của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử” của tác giả Nguyễn Hữu
Hậu; Luận án Tiến sĩ “Hoàn thiện qui định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền
của bị can, bị cáo” của tác giả Nguyễn Sơn Hà.


Nhìn tổng thể, các công trình khoa học, đề tài và các bài viết đã đạt được một
số kết quả nhất định về lý luận cũng như thực tiễn về vai trò của Tòa án trong bảo
vệ quyền của người bị buộc tội trong xét xử các vụ án hình sự.


Tuy nhiên, thực tiễn nghiên cứu, chưa có tài liệu nào nghiên cứu về vai trò
của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài của luận văn sẽ
không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới làm rõ thêm cơ sở lý luận về vai trò
của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong TTHS, đồng thời nghiên
cứu thực trạng những qui định pháp luật và thực tiễn hoạt động bảo vệ quyền của
người bị buộc tội của Tòa án. Qua đó làm sáng tỏ vai trò và những bất cập, hạn chế
để đưa ra những giải pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của
người bị buộc tội trong TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Làm rõ những vấn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội và vai trò của
Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội.
Phân tích và làm rõ thực trạng vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của
người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Phân tích và làm rõ hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân trong bảo vệ quyền
của người bị buộc tội của Tòa án tại tỉnh Bắc Ninh.
Đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò của tòa án nhân dân trong bảo
vệ quyền của người bị buộc tội.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về quyền của
người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội
trong TTHS, qui định pháp luật về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa
án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự tại tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


Về nội dung: phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản về
quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị
buộc tội theo pháp luật TTHS hiện hành.

Về thời gian: nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò của Tòa án trong bảo
vệ quyền của người bị buộc tội từ năm 1945 đến nay.
Về thực tiễn: các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được thu thập
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin; quan điểm của Đảng và Nhà nước về
cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: lịch sử, phân tích, tổng
hợp số liệu thống kê, so sánh, thống kê, tư duy logic, diễn giải … để làm rõ các vấn
đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận
về quyền của người bị buộc tội và vai trò của Tòa án trong bảo vệ quyền của người
bị buộc tội.
Luận văn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong thực tiễn hoạt động bảo vệ
quyền của người bị buộc tội của Tòa án trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả
nước nói chung; trên cơ sở đó góp phần hoàn thiện và nâng cao vai trò của Tòa án
trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vẫn đề lý luận về quyền của người bị buộc tội và vai trò
của Tòa án trong bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong TTHS.
Chương 2. Thực trạng vai trò của Tòa án nhân dân trong bảo vệ quyền của
người bị buộc tội từ thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Bắc Ninh.
Chương 3. Một số giải pháp tăng cường vai trò của Tòa án nhân dân trong
bảo vệ quyền của người bị buộc tội.



Chương 1
NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG BẢO VỆ QUYỀN
CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG TTHS
1.1. Khái niệm về người bị buộc tội và quyền của người bị buộc tội theo
tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị buộc tội
Hiện nay, Pháp luật TTHS Việt Nam chưa có khái niệm thống nhất về người
bị buộc tội. Hiến pháp năm 2013 khẳng định một người được coi là chưa có tội khi
chưa có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khoản 1 Điều 31 Hiến
pháp năm 2013 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực
pháp luật”. Tuy nhiên, có rất nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng người bị
buộc tội, thời điểm được coi là bắt đầu và kết thúc của sự buộc tội.
Quan điểm thứ nhất: Người bị buộc tội là “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Với quan điểm thi hành án không phải là một khâu trong chuỗi các hoạt động tố
tụng hình sự mà cần tách ra thành một hệ thống pháp luật riêng, ngành khoa học để
nghiên cứu riêng [7].
Quan điểm thứ hai: đối tượng bị buộc tội chỉ có thể là bị can, bị cáo. Những
người tham gia tố tụng khác không thể là đối tượng bị buộc tội. Buộc tội chỉ tồn tại
trước khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật [13].
Quan điểm thứ ba: Người bị buộc tội là “Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo”. Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là các tên gọi khác nhau
của người bị buộc tội ở các giai đoạn tố tụng khác nhau [18].
Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 qui định: “Người bị buộc tội gồm:
“Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
- Người bị bắt, người bị tạm giữ: Pháp luật hiện hành không qui định người
bị bắt là người nào, tuy nhiên, trên thực tế người bị bắt được hiểu là người có dấu
hiệu thực hiện hành vi phạm tội, bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định bắt giữ



theo qui định pháp luật, đó là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã.
BLTTHS 2015 định nghĩa người bị tạm giữ như sau: khoản 1 Đều 59: “Người bị
tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm
tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và
đối với họ đã có quyết định tạm giữ”.
Người bị bắt, người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng, giữ vị trí trung tâm
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Họ là những người bị buộc tội, bị nghi ngờ
là đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được BLHS quy định là tội phạm. Họ có
thể chưa bị khởi tố (trong trường hợp bị bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang, tự thú…)
hoặc có thể đã bị khởi tố (trong trường hợp họ có lệnh truy nã hoặc đã bị khởi tố
mới ra đầu thú) tại thời điểm bị bắt hoặc bị tạm giữ. Kể từ thời điểm người bị bắt
hoặc tạm giữ, họ bị cách ly với xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó
quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ phát sinh theo qui định pháp luật. Việc
bắt, tạm giữ để đảm bảo các hoạt động xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm
của cơ quan THTT xuất phát từ việc tiếp cận người bị bắt, người bị tạm giữ. Từ đó
hoạt động TTHS được phát sinh như: hoạt động đối chiếu, xác minh, thu thập chứng
cứ… để củng cố cơ sở pháp lý và thực tiễn; xác định người bị bắt, người bị tạm giữ
có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không, hành vi đó có đủ cấu thành tội phạm
không. Đây cũng là căn cứ để cơ quan THTT quyết định có khởi tố bị can hay
không. Người bị bắt, người bị tạm giữ trong giai đoạn này chưa bị coi là tội phạm
nhưng là tiền đề xác định các chủ thể tham gia tố tụng hình sự trong các giai đoạn tố
tụng tiếp theo và làm phát sinh các quan hệ pháp luật giữa người bị bắt, người bị
tạm giữ với các chủ thể khác trong TTHS.
- Bị can: “là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ
của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”,

(khoản 1 Điều 60 BLTTHS).


Trường hợp CQĐT có đủ căn cứ xác định người bị bắt, người bị tạm giữ đã thực
hiện hành vi phạm tội, CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Kể từ thời điểm này,
người hoặc pháp nhân bị khởi tố hình sự trở thành bị can, bị truy cứu trách nhiệm


hình sự, có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế như: tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, hỏi cung, kê biên tài sản …. Các biện pháp cưỡng chế trong gia đoạn tố tụng
này nghiêm khắc hơn, quyền của bị can bị hạn chế hơn so với quyền của người bị
bắt, người bị tạm giữ.
- Bị cáo: “là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”. (khoản 1 Điều
61 BLTTHS). Khi có quyết định xét xử của Tòa án, bị can trở thành bị cáo. Với tư
cách là người bị buộc tội, họ là người tham gia tố tụng có vị trí pháp lý bất lợi nhất
bởi tất cả các hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng khác đều hướng tới việc chứng minh bị cáo
có tội hay không có tội. Trong giai đoạn tố tụng này, bị cáo có thể bị hạn chế một
phần hoặc toàn bộ quyền của mình và có nguy cơ phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm
khắc nhất từ hoạt động buộc tội của các chủ thể.
Như vậy, BLTTHS 2015 đã qui định cụ thể đối tượng bị buộc tội là người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, người buộc tội có tên gọi khác nhau. Cụ thể: khi mới
bị bắt giữ, người bị buộc tội được gọi là người bị bắt, kể từ thời điểm bị khởi tố bị
can thì người bị buộc tội được gọi là bị can, kể từ thời điểm có quyết định đưa vụ án
ra xét xử thì người bị buộc tội được gọi là bị cáo.
Trong tố tụng hình sự, tuy người bị buộc tội là đối tượng bị buộc tội hoặc bị
nghi ngờ phạm tội nhưng họ không bị coi là người có tội, họ có quyền tự mình bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình theo qui định của BLTTHS
2015: Điều 13 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng

minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này qui định và có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật”, Điều 16 “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa” và qui định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm
2013 “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự
bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.


Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ ba:
Người bị buộc tội là “Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là các tên gọi khác nhau của người bị buộc tội ở các
giai đoạn tố tụng khác nhau.
Dựa trên khái niệm người bị buộc tội nêu trên, người bị buộc tội có những
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, người bị buộc tội là người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội
được qui định trong BLHS. Trường hợp một tổ chức hoặc cá nhân không thực hiện
hành vi phạm tội hoặc không có căn cứ xác định hành vi đó có dấu hiệu phạm tội cụ
thể được qui định trong BLHS thì CQĐT, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
không thể buộc tội họ. Cơ sở xác định người bị buộc tội trong trường hợp một
người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội phải thỏa mãn các yếu tố: đủ tuổi chịu
TNHS, có năng lực trách nhiệm hình sự và có đủ căn cứ xác định hành vi đó có dấu
hiệu phạm tội theo qui định pháp luật hình sự.
Thứ hai, các quyết định của cơ quan THTT, người có thẩm quyền THTT xác
định người bị buộc tội là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS. Ví dụ, đối với người
bị tạm giữ thì phải có quyết định tạm giữ, đối với bị can thì phải có quyết định khởi
tố bị can, đối với bị cáo phải có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án có thẩm
quyền. Các quyết định tố tụng này là căn cứ xác định chủ thể bị buộc tội là người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can hay bị cáo trong từng giai đoạn TTHS khác nhau. Từ
đó, BLTTHS qui định chủ thể bị buộc tội có những quyền chung và quyền riêng.
Thứ ba, người bị buộc tội là người tham gia tố tụng trong quan hệ pháp luật
TTHS. Khi các quyết định TTHS xác định người bị buộc tội, thì họ trở thành chủ

thể tham gia tố tụng trong TTHS với tư cách là người tham gia tố tụng. Qua đó xác
định được người bị buộc tội có địa vị pháp lý cụ thể, được pháp luật TTHS qui định
quyền và nghĩa vụ của họ. Với tư cách là người tham gia tố tụng, người bị buộc tội
là một chủ thể tham gia tố tụng, có địa vị pháp lý cụ thể, được pháp luật bảo đảm
các quyền con người cơ bản. Người bị buộc tội là chủ thể tham gia tố tụng xuyên
suốt các giai đoạn TTHS, là quá trình xác định người bị buộc tội là có tội hay
không có tội, nếu có tội thì đó là tội gì và phải chịu mức hình phạt như thế


nào. Trong suốt tiến trình TTHS, người bị buộc tội có quyền được gỡ tội cũng như
được đảm bảo các quyền con người cơ bản trong điều kiện bị giam giữ, bị quản thúc
và bị đặt vào điều kiện yếu thế trước phía buộc tội là cơ quan công quyền.
1.1.2. Khái niệm quyền của người bị buộc tội
Người bị buộc tội, trước hết là một con người cụ thể, vì vậy quyền của người
bị buộc tội là một phần của quyền con người. Để hiểu rõ khái niệm quyền của người
bị buộc tội, trước hết cần tìm hiểu khái niệm quyền con người. Quyền con người là
những giá trị, nhu cầu và lợi ích khách quan và vốn có của con người được ghi nhận
và bảo vệ bằng pháp luật của quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [17, tr 42].
Quyền con người là những giá trị mang tính tự nhiên, có tính phổ quát, đồng thời có
những đặc điểm cơ bản riêng, có quá trình lịch sử lâu dài và là sự tổng hợp của quá
trình đấu tranh không ngừng của cá nhân, cộng đồng, quốc gia.
Ở Việt Nam cũng có nhiều khái niệm về quyền con người, những khái niệm
này không hoàn toàn giống nhau. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì
quyền con người là tổng hợp các quyền và các tự do cơ bản để đánh giá về địa vị
pháp lí của cá nhân. “Quyền con người là những đặc quyền (nhân phẩm, nhu cầu,
lợi ích và năng lực vốn có của con người) được thừa nhận và bảo hộ bằng pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia. Quyền con người là quyền của tất cả mọi người” [3,
tr 27]. Nhà nước ta coi quyền con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách
phát triển kinh tế, xã hội. Theo Hiến pháp năm 2013, quyền con người, quyền công
dân được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp

khác nhau; các quyền đó chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong những
trường hợp đặc biệt cần thiết; mọi người đều có quyền bình đẳng trước pháp luật,
không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Bên cạnh những định nghĩa trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích
dẫn, theo đó, “quyền con người là những sự được phép mà tất cả thành viên của
cộng đồng nhân loại không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội,…;
đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [17]. Còn theo Theo từ
điển Luật học thì, “nhân quyền hoặc quyền con người là những quyền mặc nhiên
khi sinh ra cho đến trọn đời mà không ai có quyền tước bỏ. Đó là những quyền cơ


bản của con người như: quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu
hạnh phúc…Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh của nhân loại chống
lại các lực lượng áp bức xã hội và chế ngự thiên nhiên, không phải tự nhiên mà có
hay do thượng đế ban cho như quan niệm của một số người phương Tây” [30].
Từ các khái niệm trên có thể thấy, quyền con người là quyền tối thượng, kết
tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới. Các quyền con người
gồm tổng thể những giá trị vật chất, giá trị tinh thần, chúng có quan hệ gắn bó và có
tác động qua lại với nhau. Mọi người đều được hưởng các quyền đó như nhau.
Quyền con người được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ pháp lý,
quyền con người có thể được chia thành các nhóm như sau:
Nhóm quyền về chính trị gồm: các quyền bầu cử, ứng cử; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngôn luận; quyền tự do báo chí; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền
tự do tín ngưỡng; quyền được thông tin; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội…
Nhóm quyền về dân sự gồm: các quyền tự do cư trú; quyền tự do đi lại;
quyền tự do cá nhân; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo…
Nhóm quyền về kinh tế - văn hóa - xã hội gồm: quyền được lao động, quyền

được tự do kinh doanh, quyền được học tập, quyền nghiên cứu, phát minh, sáng
chế….
Dưới bất kỳ góc độ nào như: góc độ đạo đức - tôn giáo, góc độ lịch sử - xã
hội, góc độ triết học, chính trị hoặc góc độ pháp lý thì quyền con người đều có
những đặc điểm cơ bản như sau:
Tính phổ biến: Tính phổ biến của quyền con người được thể hiện là những gì
bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người,
không có sự phân biệt đối xử cho dù người đó thuộc bất cứ chủng tộc, dân tộc, giới
tính, tôn giáo hoặc độ tuổi, thành phần xuất thân... Đối với bất kỳ quốc gia theo thể
chế chính trị xã hội gì, ở trình độ phát triển nào, có giá trị truyền thống ra sao, thì


quốc gia đó phải đảm bảo sao cho các quyền con người có đặc điểm nêu trên để xây
dựng một nhà nước pháp quyền. Tính phổ biến của quyền con người được hiểu là


tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người được ghi nhận trong các điều ước
quốc tế phổ biến. Hiện nay vấn đề quyền con người không còn được coi là công
việc thuộc nội bộ của quốc gia, nếu như một quốc gia nào đó không đảm bảo được
các quyền và tự do cơ bản của con người thì điều đó có nghĩa là quốc gia đó đã vi
phạm các cam kết quốc tế về quyền con người.
Tính không thể tước bỏ: Tính không thể tước bỏ của quyền con người thể
hiện ở chỗ các quyền này không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Không phải lúc nào
nhân quyền cũng “không thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng
hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm
chí bị tước quyền sống.
Tính không thể phân chia: từ việc nhận thức các quyền con người đều có tầm
quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị
cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác

động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau: thể hiện ở chỗ việc bảo đảm toàn bộ
hoặc một phần quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau.
Việc vi phạm một quyền sẽ có thể ảnh hưởng đến việc bảo đảm các quyền khác.
Ngược lại, việc tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ có thể tác động tích cực
đến việc bảo đảm các quyền khác.
Người bị buộc tội, trước hết là một con người cụ thể, bị nghi ngờ thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được
qui định trong BLHS đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, họ với tư
cách là cá nhân, công dân thì người bị buộc tội chỉ bị coi là người bị tình nghi thực
hiện hành vi phạm tội. Trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự,
người bị buộc tội cũng có các quyền con người theo qui định pháp luật. Trên thực
tế, Nhà nước cũng như các chủ thể khác phải tôn trọng và bảo vệ quyền của người
bị buộc tội.
Hiện nay, chưa có khái niệm cụ thể về quyền của người bị buộc tội. Theo Từ
điển Tiếng Việt [29, tr.1049] quyền là “1. Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận,


cho hưởng, được làm, được đòi hỏi” “2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được
làm”. Theo tác giả Trần Hoài Sơn “Quyền của người bị buộc tội là những điều mà
pháp luật TTHS quy định và đảm bảo thực hiện đối với những người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà theo đó họ được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi
tham gia vào các hoạt động TTHS” [31, tr.20]. Như vậy, có thể hiểu “quyền của
người bị buộc tội” là những đảm bảo pháp lý được ghi nhận trong pháp luật, cho
phép người bị buộc tội được thực hiện và được Nhà nước cũng như các chủ thể
khác bảo vệ các quyền này. Tuy nhiên, hiểu một cách khái quát nhất, quyền của
người bị buộc tội là sự cụ thể hóa các quyền cơ bản của con người, quyền công dân
khi một người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được qui định trong BLHS, bị
các cơ quan tố tụng quyết định áp dụng pháp luật để tạm giữ, tạm giam, điều tra,
truy tố, xét xử. Nhà nước, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và

các chủ thể khác có trách nhiệm bảo vệ quyền của người bị buộc tội.
Như vậy, quyền của người bị buộc tội là những nhu cầu và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và quốc gia được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận khi tham gia vào quan hệ
pháp luật trong các giai đoạn tố tụng hình sự.
1.2.3. Các quyền của người bị buộc tội theo qui định của BLTTHS 2015
Hiến pháp 2013 có bước tiến quan trọng về lập hiến khi ghi nhận quyền của
người bị buộc tội về những nguyên tắc áp dụng trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình
sự nhằm bảo vệ con người trước vòng xoáy tố tụng hình sự mà các cơ quan bảo vệ
pháp luật - đại diện cho Nhà nước thực hiện khi có tội phạm xảy ra. Điều 31 Hiến
pháp 2013 [25] qui định:
“1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn
luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định
của luật thì việc tuyên án phải được công khai.
3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.


4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật
chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong
việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây
thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.”
Như vậy, theo qui định của Hiến pháp năm 2013, một người chỉ bị coi là có
tội khi được chứng minh tội phạm theo đúng trình tự thủ tục tố tụng theo qui định
và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Chỉ có Toà án mới có quyền

đánh giá một con người có tội, ngoài Toà án không một cơ quan, cá nhân nào có
quyền này. Người bị buộc tội là người bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội, chưa
được coi là có tội, vì vậy họ cũng có quyền con người, quyền công dân và có các
quyền theo qui định của BLTTHS. Những qui định về quyền của người bị buộc tội
trong BLTTHS là phù hợp với các Điều ước Quốc tế về quyền con người. Tố tụng
hình sự trước hết phải hướng vào bảo đảm và bảo vệ công dân khỏi việc truy cứu
trách nhiệm hình sự không có cơ sở pháp luật, đảm bảo loại và mức hình phạt áp
dụng đối với họ là hợp lý, hợp pháp, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội và các điều kiện khác mà pháp luật qui định. Nói
cách khác bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ quyền của người
bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo). [14, tr 219]
BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể quyền của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp (người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết
định truy nã), người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như sau
Thứ nhất: Quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt
Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4 thì “người bị buộc tội gồm người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” Theo Quy định của BLTTHS năm 2015 thì:
Người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp là người bị giữ đã có lệnh giữ
người của người có thẩm quyền theo qui định pháp luật tố tụng hình sự.


Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người bị bắt khi đang
thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị
đuổi bắt.
Người bị bắt theo quyết định truy nã là người bị bắt khi bị truy tìm bởi quyết
định của cơ quan có thẩm quyền theo qui định của pháp luật [27, tr.133].
Người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp (Người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo
quyết định truy nã) được coi là người bị tạm giữ. Ngoài những quyền chung của
người bị tạm giữ, khoản 1 Điều 58 BLTTHS 2015 qui định cụ thể quyền của người

bị tạm giữ trong trường hợp đặc biệt (Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định
truy nã) như sau:
“a) Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã;
b) Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
d) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người
có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.”
Người bị tạm giữ, bị bắt chưa phải là tội phạm, vì vậy họ không bị áp dụng
chế độ giam giữ giống như phạm nhân. Để thực hiện, tôn trọng và bảo vệ các quyền
đối với người bị tạm giữ, BLTTHS đã qui định cụ thể người có quyền ra quyết định
tạm giữ (khoản 2 Điều 110) cũng như quy định các quyền của họ như: thông báo về
việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người (Điều 116); chế độ tạm giữ


(Điều 117); thời hạn tạm giữ (Điều 118); Việc chăm nom người thân thích và bảo
quản tài sản của người bị tạm giữ (Điều 120)…
Hiến pháp năm 2013 qui định không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt giữ người có hành vi vi phạm pháp luật phải được
thực hiện đúng qui định.
Người bị tạm giữ, bị bắt có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự như:

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú.
Một người chỉ bị bắt, tạm giữ trong trường hợp có đầy đủ căn cứ xác định
người đó bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội. Mặc dù họ chưa bị khởi tố về hình
sự nhưng trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan có thẩm quyền, đó
là việc tạm giữ họ. Việc bắt, tạm giữ một người là làm hạn chế quyền của người đó.
Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc phải trả lời các câu hỏi của
người có thẩm quyền điều tra.
Người bị tạm giữ, bị bắt cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị
can, bị cáo, người bị kết án chưa chấp hành án, người đang chấp hành án mà bị bắt
theo quyết định truy nã hoặc họ đã ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ thì cũng
được coi là người bị tạm giữ. [27, tr135].
Pháp luật coi người bị tạm giữ, bị bắt là người tham gia tố tụng. Vì vậy, pháp
luật qui định cho họ quyền như sau:
Ngay tại thời điểm bắt, tạm giữ, người bị bắt, tạm giữ đã được bảo vệ bằng
các quyền “Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định
gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định
tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này” (điểm a khoản 2 Điều 59 BLTTHS).
Cơ quan có thẩm quyền khi tạm giữ người phải thông báo và giải thích
quyền của người bị tạm giữ để họ thực hiện các quyền của mình theo qui định pháp
luật.
Khi bị bắt, tạm giữ, người bị buộc tội không bắt buộc phải đưa ra lời khai;
đây là quyền, không phải là nghĩa vụ của họ, vì vậy họ có quyền “Trình bày lời


khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc
buộc phải nhận mình có tội” (điểm b khoản 2 Điều 59 BLTTHS).
Người bị tạm giữ, bị bắt có quyền được “Tự bào chữa, nhờ người bào chữa”
(điểm d khoản 2 Điều 59 BLTTHS), họ có quyền đưa ra những lý lẽ để chứng minh
mình không phạm tội, không liên quan đến sự việc được coi là lý do để bắt giữ họ,

đồng thời phản bác lại đối với các cáo buộc của cơ quan, người có thẩm quyền.
Trường hợp họ không tự mình bào chữa được, có thể nhờ người khác bào chữa cho
mình. Đây là qui định nhằm đảm bảo hơn nữa quyền của người bị tạm giữ trong tố
tụng hình sự.
“Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu” (điểm đ khoản 2 Điều 59
BLTTHS) để chứng minh. Đây là quyền, không phải nghĩa vụ của họ, họ có thể đưa
ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng minh họ không liên quan đến vụ việc mà họ bị
nghi ngờ phạm tội. Họ có quyền không đưa ra những tài liệu, đồ vật gây bất lợi đối
với họ.
Người bị tạm giữ, bị bắt có quyền “Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”
(điểm e khoản 2 Điều 59 BLTTHS) đối với chứng cứ, tài liệu do cơ quan, người có
thẩm quyền thu thập, do người liên quan khác cung cấp được coi là căn cứ bắt giữ
họ.
Người bị tạm giữ, bị bắt có quyền “Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ” (điểm g khoản 2
Điều 59 BLTTHS) khi xét thấy quyết định tạm giữ, hành vi bắt tạm giữ của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là không có căn cứ, không đúng qui
định pháp luật.
Quyền của người bị tạm giữ, bị bắt trong tố tụng hình sự được bảo vệ thông
qua việc qui định cụ thể quyền của người bị tạm giam, tạm giữ trong thời gian bị
tạm giam, tạm giữ, trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền của người bị tam giữ từ
phía cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền của người bị tạm giữ được bảo vệ qua cơ chế
qui định quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, trong đó quyền người


bị tạm giữ trong thời gian tạm giữ, trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền của người
bị tạm giữ từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được qui định



×