Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Tội tổ chức đánh bạc từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.46 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THU HẰNG

TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THU HẰNG

TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC ............................................. 7
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tổ chức đánh bạc........................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc qua các
giai đoạn .......................................................................................................... 20
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 32
CHƯƠNG 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TỔ CHỨC
ĐÁNH BẠC TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH..................................... 33
2.1. Tổng quan thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc tại tỉnh Bắc Ninh trong
thời gian 5 năm (từ năm 2015 đến năm 2019)................................................ 33
2.2. Những sai lầm, thiếu sót trong thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc tại
tỉnh Bắc Ninh .................................................................................................. 45
2.3. Nguyên nhân dẫn đến những sai lầm, thiếu sót trong xét xử tội tổ chức
đánh bạc tại tỉnh Bắc Ninh..............................................................................57
Tiểu kết chương 2............................................................................................59
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC.................................600
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về Tội tổ chức đánh bạc......600
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về Tội tổ chức đánh bạc ...62

Tiểu kết chương 3.............................................................................................72
KẾT LUẬN......................................................................................................73
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BB
Lộ
B B
L ộ
TT

VV
K iệ
HH
Đội
NN
g
HH
Đội


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Bảng số liệu so sánh Tội tổ chức đánh bạc với tội phạm
thuộc Chương XXI (các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng)
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 – 2019.
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ so sánh tội phạm xâm phạm trật tự công cộng, an
toàn công cộng với Tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
2015-2019.
Bảng 2.2. Bảng số liệu hình phạt chính áp dụng đối với các bị cáo

phạm tội Tổ chức đánh bạc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019.
Biểu đồ 2.2. Biểu đồ thể hiện số liệu hình phạt chính áp dụng đối với
các bị cáo phạm tội Tổ chức đánh bạc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
2015-2019.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ phát triển nhanh về tốc độc,
chuyển biến mạnh mẽ về cơ cấu, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn
ra ngày càng sâu rộng. Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế làm cho đời sống của
người dân ngày càng được nâng cao, an sinh xã hội ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, các tệ nạn xã hội và tội phạm
cũng gia tăng, trong đó phải kể đến sự gia tăng nhanh chóng của tệ nạn cờ bạc
và các hành vi tổ chức đánh bạc. Hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc xảy ra
ở nhiều nơi với quy mô ngày càng lớn, số lượng người tham gia ngày càng
đông, hình thức ngày càng tinh vi, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho gia
đình và cho xã hội như gia đình cạn kiệt về kinh tế, bạo lực gia đình gia tăng,
là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm nguy hiểm khác
như trộm cắp, cướp của, giết người,...
Hành vi tổ chức đánh bạc xâm phạm trực tiếp tới trật tự xã hội, trái với
truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, đi ngược
lại lý tưởng xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại của Đảng và Nhà nước
ta. Chính vì vậy, hành vi tổ chức đánh bạc phải bị xử lý nghiêm minh bằng
các biện pháp xử phạt hành chính, hoặc nghiêm khắc hơn là bị xử lý về hình
sự. Các hành vi tổ chức đánh bạc diễn ra rất đa dạng trong thực tế nên các quy
định của pháp luật cũng phải xác định cụ thể hành vi nào, mức độ vi phạm
nào thì sẽ bị xử phạt hành chính? Hành vi nào, mức độ nào thì sẽ bị xử lý về
hình sự? Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS năm 2015 đã kế thừa
và phát huy những điểm tiến bộ, đồng thời khắc phục những khiếm khuyết

của các quy định tương ứng trong các giai đoạn trước, là khuôn mẫu pháp lý
để xác định hành vi tổ chức đánh bạc trên thực tế là tội phạm và là cơ sở pháp
lý để đấu tranh phòng chống tội phạm này. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm
1


tiến bộ thì quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS năm 2015 vẫn còn
tồn tại một số điểm hạn chế, một số vướng mắc khi áp dụng.
Mọi chủ thể trong xã hội đều có quyền và nghĩa vụ sử dụng pháp luật
trong đời sống hằng ngày. Tuy nhiên, khi có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa các chủ thể hoặc khi cần áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước
đối với những chủ thể có hành vi vi phạm thì cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền sẽ tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết. Việc áp dụng
pháp luật phải được thể hiện bằng văn bản áp dụng pháp luật. Khi nói đến áp
dụng pháp luật thì không thể không nói đến hoạt động xét xử của Tòa án mà
văn bản áp dụng pháp luật quan trọng nhất của Tòa án là bản án. Một bản án
được Tòa án tuyên ra nếu đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và có sức
thuyết phục sẽ có ý nghĩa rất lớn để pháp luật đi vào cuộc sống. Do vậy, việc
tập trung xem xét, nghiên cứu các bản án hình sự về tội tổ chức đánh bạc là
một nguồn quan trọng để từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội tổ chức
đánh bạc từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội tổ chức đánh bạc đã được nhiều nhà nghiên cứu luật học nghiên
cứu dưới nhiều hình thức, góc tiếp cận khác nhau trên các công trình nghiên
cứu khoa học được công bố. Các công trình nghiên cứu về đề tài có thể kể đến
như:
* Tài liệu là giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo: GS.TS. Võ

Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các
2


tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb
Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh; Học viện khoa học xã hội (2014), Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
Trường đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần
các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trường Đại học Kiểm sát
(2016), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015 - sửa đổi bổ sung năm 2017 phần các tội phạm, Nxb Tư
pháp; Trần Văn Biên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Thế giới; Đinh Văn Quế (2018),
Chuyện pháp đình (bình luận án), Nxb Thông tin truyền thông, Hà Nội.
* Luận văn thạc sĩ: Trương Thùy Trang (2018), Tội đánh bạc, Tội tổ
chức đánh bạc hoặc gá bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội; Lê
Hồng Nam (2016), Tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa Luật Trường Đại học quốc gia Hà Nội; Trịnh Công
Thương (2015), Các tội liên quan đến cờ bạc theo luật hình sự Việt Nam trên
cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
* Tài liệu là các bài viết trên các tạp chí: Lê Văn Hưng, Những vướng
mắc khi áp dụng Điều 248, 249 Bộ luật hình sự 1999, Tạp chí Tòa án nhân
dân (số 14/2005); Nguyễn Đức Thành, Bàn về dấu hiệu "Với quy mô lớn"
trong Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình
sự, Tạp chí Kiểm sát số 2/2014, tr. 51 – 52; Mai Bộ, Bàn về Tội đánh bạc và

Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong Bộ luật hình sự, Tạp chí Kiểm sát số
5/2009, tr. 19 – 24; Nguyễn Nông, Những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn áp
3


dụng Bộ luật hình sự về các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc, Tạp
chí Kiểm sát số 4/2013, tr. 60 – 64.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến tội tổ chức đánh bạc ở
các khía cạnh, các góc độ khác nhau, trong đó đa phần các đề tài đã được
nghiên cứu trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật, một số ít đề tài
nghiên cứu sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực nhưng ở phạm vi không gian
và thời gian khác nhau. Tính đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào về
tội tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự Việt Nam một cách cụ thể, chuyên
sâu tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh trong phạm vi từ năm 2015 đến năm 2019 dưới
hình thức là luận văn thạc sĩ. Do đó đề tài đảm bảo tính mới và không trùng
lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đề ra mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề
về lý luận và các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh
bạc; phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội tổ
chức đánh bạc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 đến năm
2019, từ đó kiến nghị các giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật hình sự về
tội tổ chức đánh bạc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, Luận văn cần phải thực hiện
các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận dưới góc độ khoa học pháp lý và
lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc.


4


- Phân tích những quy định hiện hành của BLHS về tội tổ chức đánh
bạc; đánh giá những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp, những khó
khăn, vướng mắc khi áp dụng quy định của BLHS hiện hành về tội tổ chức
đánh bạc từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
- Kiến nghị giải pháp nhằm áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội tổ
chức đánh bạc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tội tổ chức đánh bạc theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về tội tổ chức đánh bạc dưới góc
độ khoa học pháp lý và các quy định của pháp luật hình sự thực định, đặc biệt
là các quy định của BLHS hiện hành và các văn bản pháp luật có liên quan
đến tội tổ chức đánh bạc.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu tội tổ chức đánh bạc trong phạm
vi không gian là trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh với trọng tâm được giới hạn trong
thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án.
- Về thời gian: Thời gian lấy số liệu nghiên cứu là 05 năm, từ năm 2015
đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng trong phòng chống tội phạm.

5



Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học
luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức
khoa học Luật hình sự và lý luận chung về các vấn đề khoa học cần nghiên
cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần làm sáng
tỏ lý luận về tội tổ chức đánh bạc trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Các
kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành, xây dựng, hoàn thiện các quy định của
pháp luật về tội tổ chức đánh bạc. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả đạt được trong nghiên cứu của Luận văn góp
phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án tổ chức đánh bạc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật Việt Nam về Tội tổ chức
đánh bạc
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội tổ chức đánh bạc
từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định
về Tội tổ chức đánh bạc

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tổ chức đánh bạc
1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc
Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tội phạm là một phạm trù mang tính lịch
sử và tính giai cấp. Tội phạm “xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và
pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng” [21, tr
287]. Tội phạm là hiện tượng tiêu cực trong xã hội, phát sinh khi có chế độ tư
hữu, phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tội phạm luôn chứa đựng đặc
tính chống đối nhà nước, chống đối xã hội, làm ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích
chung của cộng đồng, xâm phạm tới tự do, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của những người sống trong xã hội đó. Để bảo vệ quyền lợi của giai cấp
thống trị, cũng như nhằm mục đích tổ chức, xắp xếp, bảo vệ cuộc sống chung
của cộng đồng, nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là
tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người thực hiện tội phạm đó.
Tội phạm là một phạm trù mang tính giai cấp nên các chế định tội
phạm trong pháp luật của mỗi quốc gia thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các
đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý ở mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia có
những quy định riêng về tội phạm cũng như hình phạt áp dụng đối với người
thực hiện tội phạm.
Tội phạm là một phạm trù mang tính lịch sử nên khái niệm tội phạm
luôn luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội và ngày càng được hoàn thiện
hơn.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 quy định về tội phạm như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

7


thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [34,
Điều 8].
Điều 322 BLHS năm 2015 quy định về tội tổ chức đánh bạc như sau:
“1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000
đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng
số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02
chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc
trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền Sở hữu hoặc quản lý của mình để cho
10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng
đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong
cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng
trở lên;
c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá
20.000.000 đồng trở lên;
d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp
đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác,
người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương
tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

8


đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định

tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị
kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương, tiện điện tử để phạm tội;
d) Tái phạm nguy hiểm”.[34, Điều 322]
Như vậy, Bộ luật hình sự Việt Nam chỉ đưa ra khái niệm chung về tội
phạm mà không đưa ra khái niệm đối với từng tội phạm cụ thể. Bộ luật hình
sự Việt Nam cũng không quy định hành vi tổ chức đánh bạc bao gồm những
hành vi nào.
Trong khoa học luật hình sự, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra khái
niệm về hành vi tổ chức đánh bạc.
Theo tác giả Đinh Văn Quế, “Tổ chức đánh bạc là chủ mưu, cầm đầu,
chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng
tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào”. [13, tr.448]
Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa đưa ra khái niệm: “Tổ chức đánh bạc được
hiểu là những hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc đánh bạc, đó có thể là
hành vi rủ rê, tập hợp người đánh bạc đến hành vi chuẩn bị địa điểm và các
điều kiện khác cũng như điều hành hoạt động đánh bạc” [29, tr.245]
Theo tác giả Phạm Văn Beo thì tổ chức đánh bạc là hành vi lôi kéo, rủ
rê, tụ tập, tập hợp các con bạc (tức người đánh bạc), bố trí địa điểm cho người

9


khác cùng đánh bạc, người tổ chức cũng có thể cùng tham gia đánh bạc [15,

tr.355].
Trên cơ sở khái niệm chung về tội phạm và quy định về tội tổ chức
đánh bạc của Bộ luật hình sự, trên cơ sở phân tích các quan điểm khoa học về
hành vi tổ chức đánh bạc, có thể đưa ra khái niệm tội tổ chức đánh bạc như
sau: “Tội tổ chức đánh bạc là hành vi chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt
động tạo điều kiện cần thiết cho người khác tham gia trò chơi có được thua
bằng tiền hoặc tài sản một cách trái phép, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện, vi phạm quy định tại Điều 322 của Bộ luật hình sự”.
Từ khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên là Bộ luật hình sự năm 1985,
sau đó đến Bộ luật hình sự năm 1999 và cho đến nay là Bộ luật hình sự năm
2015 thì tội tổ chức đánh bạc và tội gá bạc luôn được quy định chung trong
cùng một điều luật. Do vậy cần phải phân biệt rõ tội tổ chức đánh bạc với tội
gá bạc, khi nào thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc, khi
nào thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gá bạc.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư thì gá bạc là hành vi cho sử dụng địa
điểm làm nơi thực hiện việc đánh bạc để trục lợi. Theo nhà nghiên cứu Đinh
Văn Quế thì “Gá bạc là chứa việc đánh bạc để thu tiền (tiền hồ)”. [12,
tr.448].
Như vậy, gá bạc là hành vi dùng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý,
sử
dụn
bè..
.)
để
xác
phụ thuộc vào việc thực tế đã thu được tiền hồ hay chưa thu được).
Còn tổ chức đánh bạc là hành vi chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt
động nhằm tạo điều kiện cần thiết cho người khác tham gia đánh bạc, từ rủ rê,
lôi kéo, đe dọa cưỡng bức người khác cho đến việc chuẩn bị địa điểm, công


10


cụ,
ph
phụ
c
khô
ng

nh
không thuộc quyền quản lý của mình.
Trong cùng một vụ án, người tổ chức đánh bạc có thể đồng thời là
người thực hiện hành vi gá bạc, nhưng cũng có thể người tổ chức đánh bạc và
người gá bạc là khác nhau.
Nếu một người chỉ có hành vi sử dụng địa điểm do mình quản lý, sử
dụng để cho người khác đánh bạc nhằm mục đích thu lời, tức là chỉ chứa chấp
việc đánh bạc nhằm thu lời, ngoài ra họ không có hành vi nào khác tạo điều
kiện cần thiết cho việc đánh bạc thì họ chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội gá bạc. Nếu một người thực hiện các hành vi tạo điều kiện cần thiết cho
người khác thực hiện việc đánh bạc thì người đó bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội tổ chức đánh bạc.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc
Dấu hiệu pháp lý của tội phạm là những căn cứ, là cơ sở để xác định
một hành vi có phải là tội phạm hay không phải là tội phạm; là căn cứ để phân
biệt tội phạm này với tội phạm khác. Các dấu hiệu pháp lý của mỗi tội phạm
được thể hiện trên 4 phương diện là: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể,
khách thể của tội phạm. Các dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh là:
1.1.2.1. Mặt khách quan
Mặt khách quan của tội phạm là mặt biểu hiện bên ngoài của tội phạm,

là những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan bao gồm: hành vi
nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không hành động), hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả do hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ,
phương tiện, thủ đoạn phạm tội... Bất cứ tội phạm nào cũng đều có những

11


biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan. Không có những biểu hiện bên
ngoài thì không thể có tội phạm.
Hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng
bức, tụ tập, lôi kéo… người khác tham gia đánh bạc trái phép. Trên thực tế,
hành vi tổ chức đánh bạc thường được thực hiện dưới hình thức như xây
dựng, thiết lập các sòng bạc, tụ điểm, các đường dây đánh bạc có sự quản lý
chặt chẽ, bố trí lực lượng canh gác, lực lượng duy trì trật tự, phục vụ cho hoạt
động đánh bạc trái phép.
Hành vi tổ chức đánh bạc chỉ bị coi là tội phạm khi thuộc một trong các
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015, nếu không
thuộc một trong các trường hợp đó thì không bị coi là phạm tội tổ chức đánh
bạc.
Ngoài ra, còn một dấu hiệu bắt buộc nữa của Tội tổ chức đánh bạc đó
là tình tiết “trái phép”. Có nghĩa là chỉ những hành vi tổ chức đánh bạc không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy
phép được cấp thì mới bị coi là hành vi tổ chức đánh bạc trái phép. Quy định
này nhằm phân biệt với các trường hợp tổ chức các hình thức vui chơi được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép như: xổ số, casino hoặc các trò
chơi tại nơi công cộng mang tính được thua bằng tiền.
Những người tham gia đánh bạc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về Tội đánh bạc, nhưng cũng có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
Tội đánh bạc nếu chưa đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc, nhưng người tổ chức
đánh bạc vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc nếu đủ
yếu tố cấu thành.
Người tổ chức đánh bạc nếu chưa đủ yếu tố cấu thành Tội tổ chức đánh
bạc thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội tổ chức đánh bạc, nhưng

12


nếu tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ 5.000.000 đồng trở
lên thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội đánh bạc với vai trò đồng
phạm, không phân biệt họ có tham gia đánh bạc hay không.
1.1.2.2. Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành
vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Mặt chủ quan bao gồm các dấu hiệu: lỗi,
động cơ phạm tội, mục đích phạm tội.
Người phạm tội tổ chức đánh bạc nhận thức được hành vi tổ chức đánh
bạc là trái pháp luật, bị pháp luật cấm, nhận thức được hành vi đó xâm phạm
tới trật tự công cộng, nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Do đó lỗi
của người phạm tội tổ chức đánh bạc là lỗi cố ý trực tiếp.
Động cơ, mục đích của người phạm tội đối với Tội tổ chức đánh bạc
không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng là yếu tố quan
trọng trong phản ánh mặt chủ quan của tội này. Động cơ, mục đích thúc đẩy
người phạm tội thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc là nhằm thu lợi ích vật
chất (bằng tiền hoặc tài sản khác) hoặc nhằm thỏa mãn nhu cầu được đánh
bạc của mình. Trên thực tế thì việc thu lợi này thường được thể hiện qua việc
thu tiền thuê địa điểm của những người đánh bạc, thu lời từ hoạt động bán đồ
ăn, cho vay tiền hoặc cầm đồ để lấy tiền đánh bạc với lãi suất cao...
1.1.2.3. Chủ thể

Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định khi thực hiện hành vi phạm
tội. BLHS năm 2015 còn quy định pháp nhân thương mại cũng là chủ thể của
tội phạm.
Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015, chủ thể của Tội tổ
chức đánh bạc chỉ có thể là một con người cụ thể, có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi là từ đủ 16 tuổi trở lên [34, Điều 12].

13


Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người không bị mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
Người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc trong tình trạng mất khả
năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi do dùng rượu, bia hoặc chất kích
thích mạnh khác thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.1.2.4. Khách thể
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Bất cứ hành vi phạm tội nào cũng gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại đối với một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định.
Khách thể của Tội tổ chức đánh bạc là trật tự công cộng. Trật tự công
cộng là trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng nhằm đảm
bảo cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thường của mọi người trong xã hội.
Các hành vi như: đánh bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc nói chung đều gây ảnh
hưởng xấu đến trật tự công cộng, là một tệ nạn xã hội nên đều bị pháp luật
nghiêm cấm.
1.1.3. Hình phạt đối với tội tổ chức đánh bạc
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được quy định trong BLHS, do Tòa án quyết định, áp dụng đối với người

hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người, pháp nhận thương mại đó. Hình phạt bao gồm hình phạt chính
và hình phạt bổ sung.
Các loại hình phạt và mức hình phạt được áp dụng đối với người phạm
tội tổ chức đánh bạc được quy định tại Điều 322 BLHS 2015. Cụ thể như sau:
1.1.3.1. Hình phạt chính:

14


- Nếu người phạm tội phạm vào một trong các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015 thì Tòa án có thể lựa chọn một trong hai
loại hình phạt chính sau để áp dụng đối với người phạm tội:
+ Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng.
+ Tù có thời hạn từ 01 năm đến 05 năm.
Đây là khung hình phạt có cấu thành cơ bản và theo quy định của
BLHS năm 2015 thì được xác định là tội phạm nghiêm trọng, tức là tội phạm
có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn.
- Nếu người phạm tội phạm vào một trong các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 322 BLHS năm 2015 thì chỉ có một loại hình phạt chính được
áp dụng đối với người phạm tội đó là tù có thời hạn với mức phạt từ 05 năm
đến 10 năm.
Đây là khung hình phạt có cấu thành tăng nặng và theo quy định của
BLHS năm 2015 thì được xác định là tội phạm rất nghiêm trọng, tức là tội
phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn. Khung hình phạt
này được áp dụng cho các trường hợp vi phạm một trong các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 322 BLHS năm 2015, đồng thời có thêm một trong các
tình tiết làm tăng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
1.1.3.2. Hình phạt bổ sung:
Đối với Tội tổ chức đánh bạc, người phạm tội có thể bị áp dụng một

trong hai loại hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu tài sản theo cách
sau:
- Nếu hình phạt chính đã được áp dụng là hình phạt tiền thì người phạm
tội chỉ có thể bị áp dụng thêm một loại hình phạt bổ sung là tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
- Nếu hình phạt chính đã được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn thì
người phạm tội có thể bị áp dụng thêm một trong hai loại hình phạt bổ sung là
15


phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
1.1.4. Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tổ chức đánh
bạc
* Về định tội danh:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, được
tiến hành trên cơ sở xác định đầy đủ, chính xác, khách quan các chứng cứ, các
tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự; đối chiếu, so
sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cụ thể tương ứng do Bộ luật hình sự quy định [44, tr 33].
Định tội danh Tội tổ chức đánh bạc cũng phải căn cứ vào các quy định
của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, trên cơ sở các chứng cứ, các
tài liệu thu thập được để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi tổ
chức đánh bạc được thực hiện với các dấu hiệu pháp lý của Tội tổ chức đánh
bạc được quy định trong BLHS, nhằm đưa ra những đánh giá chính xác về
hành vi tổ chức đánh bạc đó có phạm Tội tổ chức đánh bạc hay không, cũng
như làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, làm tiền đề cho việc cá thể hóa
và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp
luật.

* Về quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị
kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn hình phạt nào, mức hình phạt bao
nhiêu phải tuân theo những quy định của Bộ luật hình sự [44, tr. 3].
Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật hình sự quy định, chỉ có Toà án, mà cụ
thể là Hội đồng xét xử mới có quyền quyết định hình phạt. Hoạt động quyết
định hình phạt được thực hiện sau khi Tòa án đã định tội danh.

16


Quyết định hình phạt có vai trò vô cùng to lớn, bởi suy cho cùng, các
hoạt động tố tụng hình sự trước đó (từ khởi tố, điều tra, truy tố, kể cả việc
tranh tụng tại phiên toà) sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu Toà án không làm tốt
việc quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và
hợp lý thì bản án tuyên ra mới có ý nghĩa thực tiễn và đạt được mục đích của
hình phạt là phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Hình phạt quá nặng hoặc
quá nhẹ đều sẽ gây ra những tác dụng ngược, những hậu quả xấu trong công
tác bảo vệ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải tuân theo các nguyên tắc quyết
định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt.
- Các nguyên tắc quyết định hình phạt là: nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cụ thể hóa hình
phạt.
+ Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Tòa án phải nghiêm
chỉnh tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, của Nhà nước; xét xử kịp
thời, nhanh chóng; đảm bảo giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định.
+ Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở quy định mục
đích của hình phạt chủ yếu nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành

người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội. Hình phạt không nhằm mục
đích gây đau đớn cho người phạm tội. Nguyên tắc này còn thể hiện ở đường
lối xử lý khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố
giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại gây ra. Đối với người đang chấp hành án mà cải tạo tốt
thì được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, được ân xá hoặc đặc xá. Đối
với người đã chấp hành án xong thì được xóa án tích, được tạo điều kiện tái
hòa nhập cộng đồng...


+ Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt là hình phạt được tuyên ra phải phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phù
hợp với nhân thân người phạm tội cũng như hoàn cảnh phạm tội, đảm bảo sự
công bằng, đúng người, đúng tội. Cá thể hóa hình phạt còn bao gồm cả yêu
cầu là mỗi quyết định hình phạt riêng biệt thì chỉ áp dụng đối với đích danh
một bị cáo cụ thể đối với một tội phạm cụ thể mà bị cáo đã phạm và trong
từng vụ án cụ thể. Nếu một bị cáo bị xét xử về nhiều tội khác nhau trong cùng
một lần xét xử thì sau khi quyết định hình phạt cụ thể đối với từng tội thì áp
dụng nguyên tắc tổng hợp hình phạt để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt
chung cho nhiều tội. Còn trong một vụ án có nhiều bị cáo thì mỗi bị cáo bị
quyết định áp dụng một hình phạt cụ thể riêng biệt.
- Các căn cứ quyết định hình phạt:
Điều 50 BLHS năm 2015 quy định về các căn cứ quyết định hình phạt
như sau:
“1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật
này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự.
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của

người phạm tội”.
Như vậy, khi quyết định hình phạt đối với Tội tổ chức đánh bạc, Tòa
án phải tuân thủ 04 căn cứ sau:
+ Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS: BLHS hiện hành được
là BLHS năm 2015. Căn cứ vào các quy định của BLHS cần phải căn cứ vào
cả các quy định ở phần chung và các quy định cụ thể về Tội tổ chức đánh bạc.
Các quy định ở phần chung bao gồm: quy định về hệ thống hình phạt, về nội


dung, phạm vi và điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt, những quy định
về việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt
tù có điều kiện; các quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,
tăng nặng trách nhiệm hình sự... Các quy định cụ thể về hình phạt được quy
định tại Điều 322 bao gồm: khung hình phạt, loại hình phạt, mức hình phạt.
+ Thứ hai, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội: Hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội càng
lớn thì hình phạt áp dụng đối với người phạm tội càng nghiêm khắc và ngược
lại. Để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
thì cần căn cứ vào hành vi khách quan, hậu quả, công cụ phương tiện phạm
tội, tính chất mức độ lỗi, các mức độ thực hiện tội phạm (hoàn thành, chưa đạt
hay chuẩn bị phạm tội), động cơ, mục đích của người phạm tội.
+ Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Nhân thân người phạm
tội trong luật hình sự là tổng hợp những đặc điểm riêng về mặt xã hội của
người phạm tội. Những đặc điểm về nhân thân bao gồm: tuổi, giới tính, dân
tộc, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tiền án, tiền sự... Đối với Tội tổ chức đánh
bạc, đặc điểm nhân thân người phạm tội như tiền án, tiền sự còn là dấu hiệu
định tội và định khung tăng nặng, ngoài ra nó còn phản ánh khả năng giáo
dục, cải tạo người phạm tội.
+ Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự của người phạm tội: Chỉ các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều

52 BLHS năm 2015 mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Còn các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì ngoài các tình tiết được quy định tại
khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 thì còn có thể bao gồm các tình tiết khác
không được quy định trong BLHS, do Tòa án áp dụng nhưng phải ghi rõ lý do
giảm nhẹ trong bản án.


×