Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Tội cướp tài sản theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.66 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ HỮU HIỂN

TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TẠ HỮU HIỂN

TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ HỮU DU

Hà Nội - 2020



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá học và luận văn thạc sỹ Luật học của mình, trước
hết tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc, các khoa, phòng và
quý thầy cô trong Học viện Khoa học xã hội đã nhiệt tình truyền đạt những
kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn
thạc sỹ Luật học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Hữu Du đã trực tiếp hướng
dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất trong quá trình thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó tôi cũng gửi lời cảm ơn của mình đến cơ quan, bạn bè,
đồng nghiệp luôn quan tâm, tạo điều kiện, chia sẻ, động viên tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng luận văn không
thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý của quý thầy, cô
và bạn bè.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của tôi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng.
Hà Nội, ngày 18 tháng 03 năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tạ Hữu Hiển


MỤC LỤC
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ............................................................................... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tội cướp tài sản .............................................. 5
1.2. Dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội cướp tài sản ................................... 7
1.4. Phân biệt tội cướp tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác ........... 16
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 24
Chương 2 THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TẠI TỈNH BẮC NINH ..................................................................... 25
2.1. Khái quát về cơ cấu tổ chức của TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh ..............
25
2.2. Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tội cướp tài sản tại tỉnh
Bắc Ninh.......................................................................................................... 26
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 52
Chương 3 MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI
CƯỚP TÀI SẢN ............................................................................................ 53
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt
tội cướp tài sản ................................................................................................ 53
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội cướp tài sản .......................................................................................... 54
Tiểu kết Chương 3........................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 63


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BL : Bộ luật hình
sự
BL

: Bộ luật tố
CS tụng hình sự
HS : Cảnh sát điều
tra
TAN
: Hình sự sơ
VK thẩm
: Tòa án nhân
dân
: Viện kiểm
sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta càng phát triển, hiện đại, đời sống của nhân dân
ngày càng được nâng cao. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế thì các tệ nạn xã
hội cũng ngày một gia tăng và có diễn biến phức tạp. Một trong những tệ nạn
xã hội đó phải kể đến là tội cướp tài sản cũng là một trong những tội phạm đã
gây ra không ít những hậu quả xấu cho xã hội.
Cướp tài sản là một trong những loại tội phạm nguy hiểm không những
xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp mà còn có thể xâm phạm đến
sức khỏe của nạn nhân. Chính vì vậy, pháp luật hình sự quy định cướp tài sản
là tội phạm và những người vi phạm đáp ứng các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ
bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt trong đó chỉ quy định về
hình phạt tước tự do là tù có thời hạn và tù chung thân. Tuy nhiên, do sự đa
dạng của các hình thức cướp tài sản, nên hành vi cướp tài sản cũng rất đa
dạng, việc xác định những hành vi nào cần phải xử lý hình sự không phải là
việc đơn giản. Theo quy định của Bộ luật hình sự 1985, 1999 và 2015 thì
hành vi cướp tài sản được coi là tội phạm nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm

này xâm phạm trực tiếp tới trật tự xã hội, không tuân theo các quy tắc bắt
buộc đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng. Nhà nước ta không chấp nhận để
hành vi trên phát triển, bởi đó là trái với truyền thống, đạo đức, thuần phong
mỹ tục của dân tộc Việt Nam; đi ngược lý với chủ trương xây dựng một xã
hội văn minh, hiện đại với con người.
Qua các phân tích một số ưu điểm, tiến bộ cũng như những điểm hạn
chế, chưa hoàn thiện trong các quy định của pháp luật về tội cướp tài sản, đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay khi BLHS 2015 đã có hiệu lực thi hành hơn 2
năm, tuy nhiên chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng đối với Tội cướp tài sản.
1


Bắc Ninh là một tỉnh có nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng, nhiều khu
công nghiệp trọng điểm, trường đại học và cao đẳng dạy nghề đóng trên địa
bàn nên thu hút đông đảo số lượng lớn người lao động và sinh viên của các
tỉnh khác đến làm việc, học tập. Sự phức tạp về thành phần, trình độ, nhận
thức, phong tục, tập quán… của người lao động; kèm theo những ảnh hưởng
xấu của sự chuyển đổi kinh tế, mở của thị trường, sự du nhập văn hoá thế giới
khiến Bắc Ninh đang phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp, đặc biệt là tội
phạm hình sự, trong đó nổi lên là nhóm tội xâm phạm sở hữu như: tội trộm
cắp, cướp giật, cướp tài sản…
Xuất phát từ thực tế nêu trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cướp tài sản
theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nội dung nghiên cứu chủ yếu về định tội danh và quyết định hình
phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam nói chung và tội cướp tài sản nói riêng,
có thể nhắc tới nhiều công trình nghiên cứu có giá trị như:
- Nguyễn Thị Ngọc Hoa (2007), Luận văn thạc sĩ luật học “Đấu tranh
phòng chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định”;

- Trần Thị Lan Anh (2013), Luận văn thạc sĩ luật học “Phòng ngừa tội
cướp tài sản do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà
Nội”;
- Nguyễn Thị Tuyết Thanh (2019), Luận văn thạc sĩ luật học: Tội cướp
tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, .

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Học viên nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
tội cướp tài sản, trên cơ sở tình hình thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh, học viên đã
đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng tội cướp tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản.
- Phân tích, đánh giá các kết quả thực thi cũng như định tôi danh và
quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự giai đoạn 2015 - 2019 tại tỉnh Bắc
Ninh, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết
định hình phạt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật hình sự về tội
phạm cướp tài sản và thực tiễn hoạt động định tội danh và quyết định hình
phạt trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2015 - 2019.
Địa bàn: thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh, chủ yếu là số liệu của Tòa
án nhân dân hai cấp tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép duy vật biện chứng của chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các
quan điểm, chủ chương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chính
sách hình sự và cải cách tư pháp.
3


Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với
yêu cầu của từng vấn đề cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, lịch sử cụ thể… để làm sáng tỏ nội dung
cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn
đề lý luận về tội cướp tài sản.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc áp
dụng tội cướp tài sản. Tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó
và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng tội cướp tài sản
trong luận văn có giá trị tham khảo thiết thực đối với các nhà lập pháp hình
sự trong quá trình hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự cũng như đối
với cán bộ làm công tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp dụng pháp luật.
Cùng đó, luận văn cũng là một tài liệu tham khảo bổ ích trong quá trình
giảng dạy hình sự và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn

4


Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật việt nam về tội cướp tài
sản
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt tại tỉnh Bắc
Ninh

Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp tài sản

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI
CƯỚP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và đặc điểm của tội cướp tài sản
1.1.1. Khái niệm
* Khái niệm tội phạm
Để bảo vệ đặc quyền của của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định
những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với những người nào thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội phạm
mang bản chất là một hiện tượng có tính chất pháp lý. Với thuộc tính là hiện
tượng mang tính xã hội - pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng đặc tính chống lại
Nhà nước, chống đối lại xã hội, làm ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích chung của
cộng đồng, xâm phạm tới quyền, tự do, các lợi ích hợp pháp của con người,
xâm phạm tới trật tự an toàn xã hội.
Nghiên cứu Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, nhà làm luật nước ta
đã ghi nhận định nghĩa tội phạm tại khoản 1 Điều 8 BLHS.
Đây được coi là khái niệm đầy đủ, khoa học và toàn diện nhất dưới mọi
góc độ nghiên cứu khoa học luật hình sự.
* Khái niệm tội cướp tài sản:
Hành vi cướp tài sản được coi là tội phạm và được quy định tại Điều
168 BLHS năm 2015. Tuy được quy định và xét xử sớm như vậy nhưng trong
lí luận và thực tiễn khái niệm này dưới sự mô tả hành vi khách quan vẫn còn
có sự nhận thức khác nhau được quy định trong luật, cơ quan có thẩm quyền

cũng không kịp thời ban hành văn bản giải thích quy định của luật, việc có


các cách hiểu khác nhau về quy định của luật, nhất là của những người làm
công tác áp dụng pháp luật trong các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ làm cho
công tác áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn thiếu chính xác và không
thống nhất, làm giảm chất lượng xét xử.
Từ đó có thể hiểu, khái niệm tội cướp tài sản như sau: Tội cướp tài sản
là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định thực hiện một trong các hành vi sau: 1) Hành vi dùng vũ
lực làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản; 2) Hành vi đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc làm
cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản; 3) Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.1.2. Đặc điểm

6


Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy tội cướp tài sản có một số đặc điểm
sau:
Thứ nhất, tội cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
02 khách thể quan trọng đó là quyền sở hữu tài sản và sức khỏe của con
người. Đây là đặc điểm khá căn bản của tội cướp tài sản, bởi các tội phạm
thông thường chỉ xâm phạm đến 01 khách thể. Ví dụ tội trộm cắp tài sản chỉ
xâm phạm quyền sở hữu của công dân. Tuy nhiên, tội cướp tài sản lại xâm
phạm 02 khách thể, đây cũng được sử dụng làm dấu hiệu phân biệt với các tội
phạm tương đồng khác.
Thứ hai, tội cướp tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Theo đó,

khi xác định hành vi của một người phạm tội cướp tài sản thì chắc chắn lỗi
của người đó là lỗi có ý trực tiếp, người thực hiện hành vi cướp tài sản với
mong muốn chiếm đoạt tài sản và chắc chắn nhận thức được việc cướp, dùng

7


vũ lực có thể gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của bị hại, mất mát về tài
sản nhưng người phạm tội vẫn cố ý thực hiện và mong muốn hậu quả trực tiếp
là thiệt hại về tài sản xảy ra.
Thứ ba: Hành vi cướp là hành vi trái pháp luật. Bộ luật hình sự là văn
bản pháp luật duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt, theo đó, một hành
vi bị coi là tội phạm và ghi nhận trong bộ luật hình sự thì chắc chắn hành vi
đó mang đặc trưng là có tính trái pháp luật, xâm phạm khách thể được pháp
luật hình sự. Và điều đó không ngoài trừ trong tội cướp tài sản.
Thứ tư, tội cướp tài sản là tội đặc biệt nguy hiểm cho xã hội với mức
khung hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân. Có thể thấy, tội cướp tài sản
là một trong những tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội đặc biệt cao, bởi
trong các tội xâm phạm sở hữu thì tôi cướp tài sản là tội phạm có mức khung
hình phạt cao nhất có thể lên đến tù chung thân.
1.2. Dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội cướp tài sản
1.2.1. Dấu hiệu pháp lý
Tội cướp tài sản được cấu thành khi thỏa mãn đủ 04 yếu tố: mặt khách
quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, khách thể của tội phạm và chủ
thể của tội phạm. Cụ thể:
1.2.1.1. Về mặt khách quan
Tội cướp tài sản được thể hiện bởi một trong các hành vi: dùng vũ lực;
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Trong đó:

+ Hành vi dùng vũ lực: Hành vi dùng vũ lực được hiểu là dùng sức
mạnh vật chất (có hoặc không sử dụng công cụ, phương tiện phạm tội như
7


dao, súng... trợ giúp) tác động đến thân thể người bị tấn công (thường là
người chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lí, bảo vệ, trông coi tài sản)
làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Hành
động tấn công tác động vào cơ thể của người bị tấn công (như: Đấm, đá, bóp
cổ, trói, bắn, đâm, chém...) có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe
của người bị tấn công tức (làm cho nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại đến sức
khoẻ hoặc bị chết) và làm cho họ mất khả năng chống cự lại nhưng cũng có
thể chưa gây ra thương tích đáng kể (không có tỷ lệ thương tật) hoặc công
khai để cho người bị tấn công biết.
Xét mối quan hệ sở hữu, thì tài sản bị chiếm đoạt có thể là tài sản của
người bị tấn công hoặc của người khác nhưng người bị tấn công thường là
người đang trực tiếp quản lý tài sản hoặc cá biệt người bị tấn công không có
trách nhiệm quản lý tài sản nhưng có thể làm cản trở việc chiếm đoạt của
người phạm tội.
+ Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: là hành vi dùng lời nói đe
doạ (dọa giết chết, dọa gây thương tích hoặc tổn hại sức khoẻ) hoặc hành
động đe dọa (dí dao, súng vào người) hoặc và thường là kết hợp cả hai (có lời
nói, cử chỉ đe doạ và kèm theo công cụ, phương tiện trợ giúp) dọa sẽ dùng
ngay tức thì vũ lực nếu người bị tấn công (người chủ tài sản người quản lí tài
sản, người thân của người chủ tài sản...) chống cự lại để buộc người bị tấn
công phải sợ và tin rằng nếu không đưa tài sản thì tính mạng, sức khỏe sẽ bị
nguy hại. Ví dụ: dí dao vào cổ, dí súng vào người yêu cầu người bị hại giao
ngay tài sản nếu không sẽ bị đâm, bị bắn ngay lập tức.
Người bị tấn công không có điều kiện để chống cự cũng là dấu hiệu
quan trọng cho phép phân biệt hành vi “đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc”


8


trong tội cướp tài sản với hành vi “đe doạ sẽ dùng vũ lực” trong tội cưỡng
đoạt tài sản.
+ Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được: là hành vi không phải là dùng vũ lực, cũng không phải là đe
doạ dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng lại làm cho người bị tấn công lâm tuy
biết sự việc đang xảy ra nhưng không có cách nào chống cự được (như bị trói,
bị nhét giẻ vào mồm không kêu cứu được, bị nhốt vào buồng kín không thể
chạy đi cầu cứu…), hoặc tuy không bị nguy hại đến tính mạng, sức khỏe
nhựng không thể nhận thức được sự việc đang xảy ra. Để xác định hành vi
này, trước hết phải xuất phát từ phía người bị hại phải là người bị tấn công,
nhưng không phải bị tấn công bởi hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ
lực ngay tức khắc mà bị trấn công bởi hành vi khác. Như vậy, hành vi khác
mà nhà làm luật quy định trong cấu thành trước hết nó phải là hành vi tấn
công người bị hại, mức độ tấn công tới mức người bị hại không thể chống cự
được.
- Hậu quả và mối quan hệ nhân quả: Tội cướp tài sản là tội phạm có
cấu thành tội phạm hình thức và được coi là hoàn thành từ thời điểm người
phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực, đe dọa dùng ngay
tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được, không kể người phạm tội có chiếm đoạt được
tài sản hay không.
Do khách thể của tội cướp là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân nên
hậu quả của tội cướp tài sản có thể là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là
những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm.
1.2.1.2. Mặt chủ quan của tội phạm


9


Tội cướp tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Theo đó, khi xác
định hành vi của một người phạm tội cướp tài sản thì chắc chắn lỗi của người
đó là lỗi có ý trực tiếp, người thực hiện hành vi cướp tài sản với mong muốn
chiếm đoạt tài sản và chắc chắn nhận thức được việc cướp, dùng vũ lực có thể
gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của bị hại, mất mát về tài sản nhưng
người phạm tội vẫn cố ý thực hiện và mong muốn hậu quả trực tiếp là thiệt
hại về tài sản xảy ra.
1.2.1.3. Khách thể tội phạm
Khách thể của tội cướp tài sản chính là quyền sở hữu hợp pháp về tài
sản và quyền được bảo hộ về sức khỏe. Đây là đặc trưng riêng của tội cướp
tài sản so với các tội xâm phạm sở hữu khách khi xâm phạm 02 khách thể là
quyền sở hữu và sức khỏe của người khác. Trong đó khách thể trực tiếp
hướng tới chính là chiếm đoạt tài sản của người khác, để đạt được mục đích
trên thì người phạm tội có thể xâm phạm sức khỏe của bị hại dưới nhiều hình
thức có thể là đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực ngay tức khắc.
1.2.1.4. Chủ thể của tội phạm
Người phạm tội cướp tài sản phải là người đủ từ 14 tuổi trở lên và khi
thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Bởi vì,
tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được thực hiện do lỗi cố ý và theo
quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì có liệt kê đây là tội danh mà người từ
đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.2.2. Hình phạt
Điều 168 BLHS quy định 5 khung hình phạt đối với người phạm tội
cướp tài sản như sau:
10



- Quy định phạt tù từ 03 năm đến 10 năm đối với người phạm tội không
có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.
- Quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Phạm tội có tổ chức: là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng
tham gia phạm tội cướp tài sản và có sự thống nhất với nhau về ý chí, có sự
cấu kết chặt chẽ với nhau trong quá trình phạm tội. Trong đó có một hoặc một
số người thực hành; và có thể có người tổ chức, người xúi giục, người giúp
sức.
+ Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 11% đến 30%:
+ Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác:
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
triệu đồng:
+ Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người
già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ:
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội:
+ Tái phạm nguy hiểm:
- Quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
11


+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

- Quy định hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân áp
dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe
của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
+ Làm chết người;
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Trong đó:
- Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội cướp tài sản,
thì tại khoản 5 Điều 168 BLHS quy định người chuẩn bị phạm tội này, thì bị
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 BLHS, thì
chuẩn bị phạm tội cướp tài sản là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham
gia nhóm tội phạm.
- Hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 6 Điều 168 BLHS là
người phạm tội cướp còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu
đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản./.
1.3. Những điểm mới của BLHS 2015 về tội cướp tài sản
Thứ nhất: Loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi khung hình phạt.
Về cơ bản khung hình phạt qui định tại Điều 133 BLHS 1999 và Điều
168 BLHS 2015 không có sự thay đổi ở các Khoản 1, 2, 3 của Điều luật:
khoản 1 vẫn là mức phạt tù từ 3 năm đến 10 năm; khoản 2 từ 7 năm đến 15
năm; khoản 3 từ 12 năm đến 20 năm. Điểm khác biệt lớn nhất về hình phạt
12


được áp dụng là qui định tại khoản 4: khoản 4 Điều 133 Bộ BLHS năm 1999
qui định hình phạt tù “từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình”, còn tại khoản 4 Điều 168 BLHS năm 2015 qui định hình phạt

tù “từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân”.
Như vậy, theo qui định của Bộ luật hình sự năm 1999, mức hình phạt
cao nhất của tội Cướp tài sản là “Tử hình ”, thì đến Bộ luật hình sự năm 2015
qui định mức hình phạt cao nhất chỉ là “Tù chung thân”, hình phạt tử hình
không còn được áp dụng đối với người phạm tội Cướp tài sản. Tội Cướp tài
sản là một trong 07 tội danh trong Bộ luật hình sự năm 2015 được loại bỏ
hình phạt tử hình (ngoài tội cướp tài sản (Điều 168) còn có 06 tội danh khác
được loại bỏ hình phạt tử hình là: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương
thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội tàng trữ trái phép chất
ma túy (Điều 249), Tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy (Điều 252); Tội phá
huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303);
Tội chống mệnh lệnh (Điều 394) và Tội đầu hàng địch (Điều 399)). Việc loại
bỏ hình phạt tử hình này là cần thiết nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và
Nhà nước về giảm hình phạt tử hình, góp phần bảo vệ quyền con người theo
tinh thần Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
cải cách tư pháp, thể hiện tính nhân văn của pháp luật hình sự XHCN, phù
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm và hội nhập quốc tế đồng thời tạo cơ hội cho
người phạm tội được phục thiện, tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, Bổ sung và loại bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng.
Những tình tiết định khung mới được bổ sung trong tội Cướp tài sản
qui định tại Điều 168 BLHS 2015 là:

13


Điểm e, khoản 2: Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết
là có thai, người già yếu hoặc không có khả năng tự vệ.

14



Điểm g, khoản 2: Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội.
Điểm c, khoản 3: Lợi dung thiên tai, dịch bệnh.
Điểm d khoản 4: Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Việc bổ sung những tình tiết định khung tặng nặng này là cần thiết để
răn đe cũng như xử lý nghiêm khắc những đối tượng phạm tội nhằm vào
người bị xâm phạm là những người yếu thế như trẻ em, phụ nữ có thai, người
già yếu, đồng thời, thể hiện rõ hơn quan điểm xử lý đối với hành vi phạm tội
có những ảnh hưởng xấu, gây tổn hại về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh trật tự, an toàn xã hội,...
Bên cạnh việc bổ sung các tình tiết định khung mới cụ thể, rõ ràng hơn,
Điều luật đã loại bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng được qui định tại
Điều 133 BLHS năm 1999 là:
Điểm g, khoản 2: : Gây hậu quả nghiêm trọng.
Điểm c, khoản 3: Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Điểm c, khoản 4: Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Đây là những tình tiết định khung mang tính chất định tính không rõ
ràng, thiếu tính minh bạch, khi áp dụng trên thực tế đã nảy sinh nhiều khó
khăn, vướng mắc, các cơ quan tố tụng và cơ quan hữu quan đã phải ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết, trong đó nhiều trường hợp phải tiến hành
giám định, định giá và chờ kết quả mới có cơ sở định tội, định khung hình
phạt, gây ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh, xử lý tội phạm. Việc loại bỏ các
tình tiết định khung trên ra khỏi điều luật nhằm bảo đảm minh bạch và áp

15


dụng thống nhất, việc luật hóa các quy định hướng dẫn hiện hành nhằm cụ thể

các tình tiết định tính, định lượng trong BLHS là hết sức cần thiết. Hiện trong
BLHS năm 2015 chỉ còn giữ lại một số các tình tiết định tính, định lượng cần
thiết phải quy định ở Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia và Chương
các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân… để xử lý các trường
hợp phạm tội mang tính đặc thù của các nhóm tội phạm này.
Thứ ba, Qui định cụ thể việc xử lý hình sự đối với người chuẩn bị phạm
tội trong Điều luật.
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn của tội phạm mà người phạm tội
tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện, tạo ra những điều kiện cần thiết để
thực hiện hành vi phạm tội, hành vi này tuy chưa xâm hại trực tiếp đến khách
thể mà pháp luật bảo vệ song là nguy hiểm cho xã hội cần phải được xử lý
bằng pháp luật hình sự.
Theo qui định của Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1999, thì “Người
chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc đặc biệt nghiêm
trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện”. Qui định này
nằm trong phần qui định chung của Bộ luật hình sự năm 1999 và trên thực tế
việc áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi chuẩn bị
phạm tội là rất ít, có nơi hầu như không có do qui định không cụ thể, rõ ràng.
Khắc phục hạn chế này, Bộ luật hình sự năm 2015 đã qui định rõ 20 tội danh
mà người chuẩn bị phạm tội bị xử lý hình sự trong đó có tội Cướp tài sản.
Khoản 5, Điều 168 BLHS năm 2015 qui định: “Người chuẩn bị phạm
tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.
Việc bổ sung qui định này vào điều luật là cần thiết vì tội Cướp tài sản
là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và cùng một lúc xâm
phạm hai khách thể là quyền sở hữu và tính mạng, sức khỏe của con người.
15


×