Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp kỹ thuật, đề xuất phát triển rừng trồng quế (Cinnamomum Cassia) tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 72 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN VĂN CHUYÊN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT, ĐỀ XUẤT
PHÁT TRIỂN RỪNG TRỒNG QUẾ (CINNAMOMUM
CASSIA) TẠI HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN VĂN CHUYÊN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP KỸ THUẬT, ĐỀ XUẤT
PHÁT TRIỂN RỪNG TRỒNG QUẾ (CINNAMOMUM
CASSIA) TẠI HUYỆN BẢO YÊN, TỈNH LÀO CAI
Ngành: Lâm học
Mã số ngành: 8 62 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Thái

THÁI NGUYÊN - 2019



i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
và có sử dụng một phần số liệu của đề tài: “Nghiên cứu chọn giống Quế
(Cinnamomum cassia.Presl) có năng suất và hàm lượng tinh dầu cao phục vụ
trồng rừng kinh tế tại tỉnh Lào Cai” được thực hiện từ năm 2016- 2019 đã
được Chủ nhiệm đề tài cho phép, nếu có gì sai sót tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm.
Học viên

Trần Văn Chuyên


ii
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, tôi được trang bị cho mình kiến thức cơ bản về chuyên môn
dưới sự giảng dạy và chỉ bảo tận tình của toàn thể thầy cô giáo. Để củng cố lại
những kiến thức đã học cũng như làm quen với công tác nghiên cứu thì việc
thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn rất quan trọng, tạo điều kiện cho học viên
cọ sát với thực tế nhằm củng cố lại kiến thức đã tích lũy được trong nhà
trường đồng thời nâng cao tư duy hệ thống lý luận để nghiên cứu ứng dụng
một cách có hiệu quả những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất.
Xuất phát từ nguyện vọng của bản thân, được sự nhất trí của nhà trường, ban
chủ nhiệm khoa Sau Đại học, Khoa Lâm Nghiệp và sự hướng dẫn trực tiếp
của thầy giáo TS. Nguyễn Văn Thái tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu một số giải pháp kỹ thuật, đề xuất phát triển rừng trồng Quế
(Cinnamomum cassia) tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai”.Trong thời gian
nghiên cứu đề tài, được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của TS. Nguyễn Văn Thái
và các thầy cô giáo trong khoa cùng với sự phối hợp giúp đỡ của các ban

ngành lãnh đạo của huyện Bảo Yên và đặc biệt là nhóm nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu chọn giống Quế (Cinnamomum cassia.Presl) có năng suất và
hàm lượng tinh dầu cao phục vụ trồng rừng kinh tế tại tỉnh Lào Cai” chủ
nhiệm đề tài là TS. Vũ Văn Định cùng các cộng tác viên của Trung tâm
Nghiên cứu Bảo vệ rừng đã cùng tôi đi thực địa thu thập số liệu tại địa bàn
huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc
nhất đến các thầy cô giáo trong khoa Lâm Nghiệp, Khoa sau Đại học và đặc
biệt là thầy giáo TS. Nguyễn Văn Thái người thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài,
Tôi xin chân thành cám ơn tới TS. Vũ Văn Định cùng nhóm cộng tác
viên đề tài của Trung tâm Nhiên cứu Bảo vệ rừng – Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam đã cộng tác và thực hiện đề tài. Trong quá trình thực hiện
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để bản luận văn này hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2019
Học viên


iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU ................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. vi
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. vii
Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 3
1.2.1. Mục tiêu tổng quát .................................................................................. 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể ........................................................................................ 3
1.3. Ý nghĩa nghiên cứu khoa học..................................................................... 3
1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học ................................................ 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất ....................................................................... 3
Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU....................................................... 4
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về cây Quế trên thế giới ......................... 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về cây Quế ở trong nước ...................................... 11
1.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu ................................................................ 31
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................... 34
2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 34
2.2. Địa điểm, thời gian nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu .......................... 34
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 34
2.3.1. Điều tra đánh giá thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường tiêu
thụ Quế ở Lào Cai ........................................................................................... 34
2.3.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao ....... 34
2.3.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân .................................................. 34


iv
2.3.4. Điều tra sâu bệnh hại Quế và đề xuất biện pháp phòng trừ .................. 34
2.3.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng Quế phù hợp với địa phương .... 34
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 34
2.4.1. Điều tra đánh giá các giống Quế, thực trạng trồng, khai thác, chế biến
và thị trường tiêu thụ Quế ở Lào Cai .............................................................. 34
2.4.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao ....... 35
2.4.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân .................................................. 36
2.4.4. Điều tra sâu bệnh hại và đề xuất biện pháp phòng trừ .......................... 37
2.4.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng phù hợp ..................................... 38

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................ 39
3.1. Điều tra đánh giá thực trạng trồng, khai thác, chế biến và thị trường tiêu
thụ Quế ở tỉnh Lào Cai .................................................................................... 39
3.2. Chọn cây Quế trội sinh trưởng nhanh và hàm lượng tinh dầu cao .......... 42
3.3. Nghiên cứu mật độ trồng và bón phân ..................................................... 45
3.4. Điều tra sâu bệnh hại và đề xuất biện pháp phòng trừ ............................. 48
3.5. Đề xuất biện pháp kỹ thuật gây trồng phù hợp ........................................ 49
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................... 57
1. Kết luận ....................................................................................................... 57
2. Tồn tại: ........................................................................................................ 57
3. Kiến nghị ..................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59


v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT VÀ CÁC KÝ HIỆU
Chữ viết tắt/ký hiệu

Giải nghĩa đầy đủ

BNN &PTNT

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

CT

Công thức

D1.3


Đường kính ngang ngực

Do

Đường kính gốc

ĐC

Đối chứng

Hvn

Chiều cao vút ngọn

Hdc

Chiều cao dưới cành

OTC

Ô tiêu chuẩn

P%

Tỷ lệ bị sâu/bệnh

Q

Quế


R

Cấp bị sâu/bệnh

TCN

Tiêu chuẩn ngành

TLS

Tỷ lệ sống

XQ

Xung Quanh


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Sinh trưởng của cây Quế trội tại Bảo Yên, Lào Cai ....................... 43
Bảng 3.2: Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của Quế ở giai đoạn
rừng trồng ........................................................................................................ 46
Bảng 3.3: Ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Quế ở giai đoạn
rừng trồng ......................................................................................................... 47
Bảng 3.4: Danh mục thành phần loài sâu, bệnh hại Quế ................................ 48


vii
DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 3.1: Lá Quế lá to ..................................................................................... 39
Hình 3.2: Cây Quế lá nhỏ................................................................................ 39
Hình 3.3: Lá Quế lá nhỏ .................................................................................. 40
Hình 3.4: Cây Quế lá nhỏ................................................................................ 40
Hình 3.5: Quả Quế lá nhỏ ............................................................................... 40
Hình 3.6: Chọn cây Quế trội tại Bảo Yên Lào Cai ........................................ 45
Hình 3.7: Quế ở giai đoạn rừng trồng 5 tuổi ................................................... 47


1

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây Quế (Cinnamomum cassia) thuộc họ Long não (Lauraceae) là cây
đa tác dụng, cây có thể cao 18 - 20m, đường kính đạt 10 - 45cm. Quế là cây
phân bố rộng, có thể sinh trưởng tốt cả ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam.
Quế thích hợp với vùng núi cao, độ cao địa hình ở đai cao từ 300 – 700m so
với mặt biển. Vùng có khí hậu mát ẩm, nhiệt độ bình quân năm từ 22 – 240C,
lượng mưa bình quân năm trên 2000mm, độ ẩm không khí trên 80%. Quế có
thể trồng trên nhiều loại đất có thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình,
tầng đất dày, ẩm độ đất cao thoát nước tốt (Hoàng Cầu, 1993).
Tinh dầu Quế được sử dụng nhiều trong công nghiệp y dược, công nghiệp chế
biến thực phẩm, hương liệu và chăn nuôi. Trước đây, cây Quế chỉ bán được
vỏ, hiện nay, thân, cành, lá đều bán được với giá cao. Thân Quế sau khi bóc
vỏ được bán cho các cơ sở chế biến gỗ làm ván gép thanh, ván sàn, đồ gia
dụng hoặc làm cột chống… Các sản phẩm từ Quế có thể tổ chức sản xuất
thành nguồn hàng lớn có giá trị xuất khẩu đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn và
gắn liền với đời sống của nhân dân các dân tộc ít người như Dao, Tày….
Ngoài lợi ích về mặt kinh tế, cây Quế còn đóng góp vào việc bảo vệ

môi trường sinh thái, làm tăng độ che phủ rừng, giữ đất, giữ nước ở các vùng
đất đồi núi dốc, bảo tồn và phát triển sự đa dạng các nguồn gen quý cây bản
địa. Theo thống kê diện tích rừng trồng theo từng loài cây của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2011 Lào Cai có diện tích rừng trồng Quế
2.513,8 ha trong những năm gần đây diện tích rừng trồng Quế tăng nhanh,
theo thông tin Chi cục Kiểm Lâm tỉnh Lào Cai năm 2015 diện tích trồng Quế
của toàn tỉnh 11.198,5 ha trong đó huyên Bảo Thắng 1689,1 ha, huyện Văn
Bàn 1.754 ha, huyện Bảo Yên 4.848,2 ha, huyện Bắc Hà 2.907,2 ha. Hiện nay
giá vỏ Quế khô thường ít bấp bênh so với các cây trồng khác, lại bảo quản


2

được lâu nên không lo bị tư thương ép giá. Hiện nay, cây Quế đã khẳng định
là một trong những cây trồng mũi nhọn, góp phần xóa đói, giảm nghèo và làm
giàu cho đồng bào thuộc huyện Bảo Yên, Bảo Thắng... Ủy ban nhân dân tỉnh
Lào Cai đã có quy hoạch mở rộng vùng trồng Quế lên 25.000 ha từ nay đến
năm 2025, trong đó các huyện: Bảo Yên 7.800 ha, Bảo Thắng 5.500 ha, Văn Bàn
4.400 ha, Bắc Hà 7.300 ha, tổng diện tích tăng so với diện tích Quế hiện tại.
Huyện Bảo Yên là địa phương đi đầu trong toàn tỉnh Lào Cai về phát
triển các loài cây lâm nghiệp, hàng năm cung cấp ra thị trường hàng chục
nghìn mét khối gỗ các loại có nguồn gốc từ cây trồng. Qua khảo sát đánh giá
điều kiện khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng thích hợp nên cây Quế ở Bảo Yên
được xem là sản phẩm chất lượng cao, vỏ Quế dày, hương vị thơm ngon, chất
lượng, giá thành sản phẩm không khác Quế được trồng ở vùng huyện Văn
Yên tỉnh Yên Bái. Thực tế lá Quế có chứa tinh dầu mà hàng năm người trồng
Quế có thể tỉa thưa cành, lá cung ứng cho các cơ sở chiết xuất tinh dầu. Đây
có thể được xem là lấy ngắn nuôi dài, giúp người trồng Quế tạo công ăn việc
làm, có thu nhập ổn định, trong khi chờ thu hoạch sản phẩm chính.
Nhìn về điều kiện tự nhiên huyện Bảo Yên nằm về phía Nam của tỉnh

Lào Cai, địa giới hành chính giáp ranh với vùng huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái,
nơi đây được đánh giá nghề trồng Quế đứng thứ nhất, nhì cả nước. Với diện
tích tự nhiên 81.834,3 ha, trong đó diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp
61.770,2 ha, diện tích đất rừng quy hoạch cho sản xuất 46.051,51 ha, địa hình
đồi núi thấp, tài nguyên rừng đa dạng, phong phú phù hợp với các loại cây trồng.
Với những điều kiện tự nhiên như vậy, những người trồng rừng vẫn
chưa phát huy hết khả năng ưu ái của thiên nhiên mang lại, chưa biết lựa chọn
loài cây trồng phù hợp cho năng suất, chất lượng cao, làm giàu từ nghề rừng.
Sản xuất những loài cây lâm nghiệp có chu kỳ ngắn phục vụ ngành công
nghiệp nguyên liệu giấy, ván bóc, xẻ thanh… Ưu điểm nhanh thu hồi vốn,
nhưng nhược điểm hiệu quả tài chính chưa cao bởi thời điểm 5 tuổi đến 7 tuổi


3

cho sinh khối nhanh thì đã bị khai thác, chuyển đổi chu kỳ kinh doanh rừng.
Một số loài cây trồng cho năng suất, chất lượng cao như Quế thì người trồng
rừng chưa thực sự quan tâm bởi chu kỳ kinh doanh có thể đến hàng chục năm.
Nhằm phát huy những vốn có của tự nhiên mang lại, với mong muốn
đóng góp cho sự phát triển của địa phương, tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu
một số giải pháp kỹ thuật, đề xuất phát triển rừng trồng Quế (Cinnamomum
cassia) tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai” có ý nghĩa cả về khoa học và thực
tiễn sản xuất.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá thực trạng rừng trồng Quế và các yếu tố tác động, đưa ra các
pháp kỹ thuật phát triển rừng trồng Quế một cách bền vững góp phần nâng
cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người trồng rừng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng phát triển rừng Quế tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai

- Tuyển chọn được cây Quế trội có năng suất cao phục vụ công tác
trồng rừng của địa phương
- Đề xuất giải pháp về kỹ thuật gây trồng và phòng trừ sâu, bệnh hại
Quế tại Bảo Yên
1.3. Ý nghĩa nghiên cứu khoa học
1.3.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học
Bổ sung những cơ sở khoa học về kỹ thuật gây trồng và phòng trừ sâu
bệnh hại Quế. Đồng thời giúp cho học viên tiếp cận phương pháp nghiên cứu
khoa học, giải quyết vấn đề thực tiễn của khoa học đặt ra.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
Dựa trên cơ sở khoa học đưa ra các giải pháp kỹ thuật góp phần phát
triển hiệu quả hơn nữa rừng trồng Quế trên địa bàn huyện Bảo Yên.


4

Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về cây Quế trên thế giới
- Phân loại và thực vật học
Chi Quế (tên khoa học: Cinnamomum) là một chi các loài thực vật
thường xanh thuộc họ Nguyệt Quế (Lauraceae). Lá và vỏ cây các loài thuộc
chi này có tinh dầu thơm. Chi này có khoảng hơn 300 loài, phân bố chủ yếu
tại các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam
Mỹ, châu Á, châu Đại Dương và Australasia.
- Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học và kỹ thuật gây trồng
+ Đặc điểm sinh vật học
Quế (Cinnamomum cassia) là cây thường xanh được trồng rộng rãi ở
miền Nam và miền Đông châu Á (Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Đài
Loan, Thái Lan và Việt Nam). Cây cao từ 10-15 m, vỏ màu xám, lá thuôn dài

từ 10-15 cm, trong các bộ phận của cây Quế như: Vỏ, lá, hoa, gỗ, rễ đều có
chứa tinh dầu.
Hoa tự chùm, nhỏ màu trắng, quả Quế khi chưa chín có màu xanh, khi
chín chuyển sang màu tím than, quả mọng trong chứa một hạt, quả dài 1cm
đến 1,2 cm, hạt hình bầu dục, 1 kg hạt Quế có khoảng 2500 – 3000 hạt. Bộ rễ
Quế phát triển mạnh, rễ cọc cắm sâu vào lòng đất, rễ lan rộng, đan chéo nhau.
Vì vậy, Quế có khả năng sinh sống tốt trên các vùng đồi núi dốc.
+ Đặc điểm sinh thái học: Quế C.tamala phân bố ở hầu hết các vùng
Himalaya nhiệt đới, cận nhiệt đới và mở rộng đến vùng Đông Bắc Ấn Độ, đến
độ cao 2000 m. Quế C. tamala được trồng ở vùng Khasi, Jaintia, đồi Garo của
Meghalaya và vùng đồi Cachar Bắc của Assam (Cinnamom and cassia.
CRS.PRESS.2004).
Quế Inđonêsia có phân bố từ mặt biển đến độ cao 2000m. Trung tâm
trồng Quế là vùng Padang, ở độ cao từ 500 – 1300m. Một biến chủng của loài


5

này có lá non màu đỏ sinh trưởng ở độ cao hơn trong vùng núi Korintji (còn
gọi là Kerinci). Loại này chất lượng tốt hơn và được buôn bán trên thị trường
thế giới với tên gọi Quế Korintji (cinnamom and cassia. CRS.PRESS.2004).
+ Kỹ thuật gây trồng: Trên thế giới có nhiều nước trồng Quế rất thành
công cho sản lượng và năng suất cao như ở Ấn Độ, cây được trồng với cự li
3m x 2m. Cây con được gieo trên luống và trồng khi cây 4 – 5 tháng tuổi. Khi
cây 8 – 10 tuổi được khai thác lá cho đến hàng trăm tuổi. Lá già được thu từ
tháng 10 – 12 đến tháng 3 năm sau. Lá được thu hàng năm ở các cây trẻ và
khỏe và luân phiên đối với cây già và yếu. Lá thường được bó thành từng bó,
phơi ngoài nắng, rồi đem bán. Sản lượng mỗi cây khoảng 9 – 19 kg/năm.
Trồng teijat là một bộ phận trong hệ thống nông lâm kết hợp ở Ấn Độ
(cinnamom and cassia. CRS.PRESS.2004).

Rừng Quế ở đây được chăm sóc như đối với cây rừng. Ngoài chăm sóc
về lâm sinh và phân bón, tác động duy nhất là tỉa các cành thấp ở thân cây.
Phân bón được khuyến cáo là NPK với tỷ lệ 15-15-15, liều lượng 40 –
100kg/ha tùy thuộc tuổi cây, nhưng người trồng Quế hiếm khi sử dụng phân
bón (Akahil Baruah và Subhan C. Nath, 2004).
- Giá trị sử dụng
Dầu Quế được chiết xuất từ lá, vỏ cây, cành cây bằng cách chưng cất
hơi nước. Các thành phần hóa học chính của dầu Quế là aldehyd cinnamic,
cinnamyl acetate, benzaldehyde, linalool và chavicol.
Các đặc tính chữa bệnh của dầu Quế là chống đầy hơi, chống tiêu chảy,
chống vi khuẩn và chống nôn. Dầu Quế được sử dụng cho các bệnh cảm lạnh,
cúm, sốt, viêm khớp và thấp khớp…( />Vỏ Quế được dùng làm gia vị trong công nghiệp chế biến thực phẩm
(ướp thịt, cá, làm bánh kẹo, sản xuất đồ hộp, nước giải khát). Tinh dầu từ vỏ
và lá được sử dụng nhiều trong công nghiệp dược phẩm và hoá mỹ phẩm. Tại


6

các nước châu Âu, tinh dầu từ vỏ Quế quan được dùng để uống với chè vì nó
có đặc tính kích thích và diệt khuẩn.
Ngoài tinh dầu trong vỏ Quế còn chứa tanin, nhựa dầu (oleoresin),
protein, pentosan, chất keo, xơ và các chất khoáng. Tinh dầu lá Quế thành
phần chính là eugenol (70-95%), ngoài ra còn khoảng 50 hợp chất khác, trong
đó các hợp chất có hàm lượng đáng kể là linalool, cinnamyl acetat, βcaryophyllen, (E)-cinnamic aldehyd, benzyl benzoat…. Do có hàm lượng
eugenol cao, nên tinh dầu lá Quế quan được dùng làm nguyên liệu để chuyển
hoá thành iso-eugenol và tổng hợp vanilin. Hạt chứa dầu béo (hàm lượng
khoảng 30%) nên được dùng làm dầu thực phẩm tại Ấn Độ và Sri Lanka.
- Sâu bệnh hại Quế
Johns và cộng sự (1961) đã nghiên cứu và phát hiện 3 loài sâu gây hại
chính cho Quế ở miền Bắc nước Mỹ như: Sâu cuốn lá (Homona coficaria

Niet), Sâu róm Quế (Dasvchira mendose Nunb), Sâu ăn lá (Attacus atlas L).
Boror và cộng sự (1976) đã công bố một số loài sâu gây hại Quế như
loài Bọ rầy (Pauropsylla depressa) chích hút chồi non gây ra các u bướu trên
ngọn chồi. Rệp sáp (Linsoma stellifera Westw) chích hút gây úa vàng lá. Sâu
non sâu vẽ bùa (Phyllocnistic chrysophthaline) đào những đường hầm trong lá
Quế ảnh hưởng đến quá trình quang hợp của lá.
Theo Singh và cộng sự (1978), ghi nhận tại Ấn Độ loài sâu Orthaga
vitialis thuộc bộ Lepidoptera gây hại trên lá và chồi cây Quế , sâu non loài
này hoạt động rất mạnh, loài sâu này sống và gây hại ở chồi cây làm chồi biến
dạng dẫn đến chồi mọc thành cụm. Trong mỗi cụm chồi có thể có một vài sâu
non, chúng sống thành đàn và ăn toàn bộ bề mặt lá. Giai đoạn nhộng thường
nằm ở trong các cụm chồi. Còn loài sâu róm Euproctis fraterna ăn lá Quế, sâu
non mới nở chỉ ăn phần diệp lục. Sau đó sâu non lớn dần và ăn toàn bộ lá làm
rụng lá. Chu kỳ sâu non loài này kéo dài trong 13-29 ngày và thời gian nhộng
kéo dài 9-20 ngày. Tổng chu kỳ sống kéo dài 6-7 tuần.


7

Theo Rajapakse và Kulasekera (1982) Thành phần loài sâu hại trên cây
Quế ở SriLanka như: Sâu ăn lá Attacus atlas, Agroploce aprobola, Rệp sáp
Ceroplastes rubens, bọ xít chích hút chồi Quế Coptosoma pygmaeum,
Leptocentrus obliquus, loài bọ xít Leucopholis pinguis. Một số loài thuộc bộ
cánh cứng gây hại trên lá và chồi cây Quế như: Cryptocephalus snillus,
Cryptocephalus virgula và Podagrica badia
Theo Rajapakse và Wasantha (2007) cây Quế trồng ở SriLanka và một
số quốc gia khác ở Đông Nam Á đã bị một số loài côn trùng gây hại chính
như: Rệp nhảy Trioza cinnamoni, nhện lông nhung Eriophyes boisi, sâu đục
thân, cành Synanthedon spp.. Các loài côn trùng loại nhỏ như: Sâu hại lá
thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera) như: Chilasa clytia, Graphium sarpedon,

Orthaga vitialis, Dasychira mendosa. Sâu đục quả Alcides sp. Và sâu vẽ bùa
Acrocercops spp..
Theo Vander và cộng sự (2004) đã chỉ ra 2 loài sâu gây hại Quế chính ở
SriLanka là sâu hại lá Chilasa clytia và Graphium sarpedon. Loài Chilasa
clytia sâu trưởng thành có kích thước lớn, đẻ trứng đơn lẻ ở cả mặt trên và
dưới của lá non. Trứng có hình cầu, màu sáp và màu cam vàng. Sâu non màu
đen hoặc xanh đen, ăn cả lá non và lá bánh tẻ, chúng ăn toàn bộ lá và chỉ chừa
lại gân lá. Sâu non tuổi lớn có màu vàng nhạt với sọc đen ở hai bên và có
chiều dài khoảng 2,5 cm. Nhộng có hình trụ được bọc trong kén trông giống
một cành củi gãy. Đối với loài sâu ăn lá Graphium sarpedon cũng là một loài
sâu hại Quế phổ biến. Trưởng thành có màu đen với các hoa văn màu xanh
đặc trưng. Trứng được đẻ ở mặt dưới của lá, hình tròn có màu vàng nhạt.
Theo Le (1992) loài Bọ xít (Pseudodoniella chinensis Zheng) gây hại
trên cành bánh tẻ và gây chết cả cây Quế tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây, Trung Quốc.
Dharmadasa và Jayasinghe (2000) phát hiện loài sâu (Synanthedon spp.) hại
thân, cành Quế, làm cho các cành chết. Sâu non dài khoảng 2,5cm khi trưởng


8

thành, đầu màu nâu sẫm và thân màu trắng đậm. Sâu non thường ăn phần gỗ
để sống và có xu hướng ăn theo chiều ngang. Sâu trưởng thành, đẻ trứng vào
các vết nứt hoặc vết thương trên vỏ cây và trứng nở trong khoảng 1- 4 tuần.
Theo Amalendu và cộng sự (2014) loài sâu Cricula trifenestrata ăn lá
hại một số loài cây thuộc họ Lauraceae, cụ thể như loài Cinnamomum
glanduliferum, C. glaucescens ở Đông Bắc Ấn Độ, loài C. zeylanicum ở vùng
Đông Bắc Á và SriLanka, loài Persea bombycina ở vùng Đông Nam Ấn Độ,
Nepal và loài Litsea cubeba ở Ấn Độ.
Nghiên cứu biện pháp phòng trừ sâu hại Quế

Theo Singh và cộng sự (1978), phòng trừ loài sâu hại lá, chồi Orthaga
vitialis và sâu ăn lá Euproctis fraterna thì cần thiết phải kiểm tra cắt tỉa các
cụm chồi Quế bị sâu hại là biện pháp phòng trừ chủ yếu và phun thuốc trừ sâu
Carbaryl (0.1%), hoặc Quinalphos (0.05%) hoặc Endosulphan (0.05%), từ đó
có thể kiểm soát sâu hại trên cây Quế, việc phun thuốc được lặp lại trong
khoảng 10-12 ngày hiệu quả đạt cao hơn.
Devashayam và cộng sự (1993) chỉ ra rằng sâu đục lá Conopomorpha civica
đã gây hại cho 20,2% số cây Quế tuổi nhỏ ở Kerala, Ấn Độ và phòng trừ loài
sâu này bằng cách phun thuốc trừ sâu Quinalphos 0,05% ngay khi chúng vừa
xuất hiện mới có hiệu quả trong việc ngăn ngừa sự xâm nhập
Theo Rajapakse and Wasantha (2007), việc phòng trừ sinh học cho các
loài nhện gây u bướu lá Quế là rất khó khăn vì chúng sống và ăn trong các u
của lá. Việc cắt tỉa thường xuyên có thể kiểm soát rệp Trioza và nhện
Eriophyes.

Sử

dụng

thuốc

monocrotophos,

lannat

(methomyl)



methamidiphos ở trên, ở giữa và ở gốc của cây trồng, việc sử dụng 30 ml

monocrotophos/25 L trong khoảng thời gian 4 ngày làm giảm lượng u bướu
đến mức thấp nhất. Quinalphos 0,05% hoặc Dimethoate 0,06% cũng được
khuyến cáo sử dụng để kiểm soát lá và chồi bị u bướu.
Nghiên cứu bệnh hại Quế


9

Ở Ấn Độ và SriLanka cho biết, Quế có thể bị các bệnh thối đen do nấm
Phellinus lamaensi, mục trắng do Fomes lignosus, đốm khảm do nấm phấn
hồng Corticium salmonicolor, thán thư do Glomerella cingulata và gỉ sắt do
tảo Aecidium cinnamoni, Cephaleuros virescens, Diplodia spp., Exobasidium
spp…. Cũng đã gặp một số loài sâu hại vỏ, chồi non và lá như Phyllocnistis
chrysophthalma, Sorolopha archimedias, Acrocercops spp, Eriophyes bois,
Eriophyes doctersi, Typhlodromus spp… Một số loài tuyến trùng như
Meloidogyne spp…. xâm nhập từ đất vào rễ cũng có thể gây hại đối với các
quần thể Quế (Akhtar Husain et al.,1988).
Karunakaran and Chandrasekharan (1980) đã nghiên cứu bệnh đốm lá
và khô cành ngọn cây Quế Cinnamomum Zeylanicum do nấm
Collectotrichum gloeosporides. Trên những cây mới bị bệnh từ 3 – 5 thì triệu
chứng phát triển chưa rõ ràng, nhưng tới khi 8- 10 ngày triệu chứng bị bệnh
rất đặc trưng. Một số bệnh hại ảnh hưởng tới Quế như đốm xám trên lá vào
tháng 6, 7 ở nhiều vùng của Kerala, Ấn Độ. Triệu chứng xuất hiện là những
điểm nhỏ màu nâu vàng và sau đó chuyển thành trắng tới xám với những viền
màu nâu đậm. Ban đầu vết đốm có hình bầu dục sau đó nó có dạng vết đốm
hoại tử lớn, kích thước từ 14 – 42 mm. Lá bị nặng dẫn tới bị khô và rụng
(Karunakaran et al., 1993)
Theo Zheng và cộng sự (2004) bệnh đốm tảo do Cephaleuros virescens
lây nhiễm vào cây chủ bằng bào tử động trong điều kiện mưa và trong không
khí, từ tháng 3 tới tháng 10 ở vùng Hua’an tỉnh Fujian là bệnh rất nghiêm

trọng đối với Quế. Đây là bệnh đơn chu kỳ, mầm bệnh qua đông bằng bào tử
túi xâm nhiễm trên lá.
Rajapakse and Wasantha (2007) đã công bố một số loại bệnh gây hại
nghiêm trọng cho cây Quế ở Sri Lanka như: Bệnh đốm lá do nấm
Collectotrichm gloeospoirides gây ra và được tìm thấy ở hầu hết các vùng
trồng Quế ở đây, gây ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng cho rừng trồng. Bệnh


10

phấn hồng do nấm Corticum salmonicolor gây ra và nó là bệnh nguy hiểm ở
Sri Lanka, Ấn Độ và Indonesia. Bệnh đốm xám do nấm Pestalotia cinnamomi
gây hại. Bệnh thối rễ do nấm Phytopthora cinnamomi gây ra, bệnh mục rễ do
nấm Phellinus lamaensis. Bệnh loét xọc gây ra bởi Phytophthora cinnamomi,
nấm tấn công vào chồi và thân non của Quế. Bệnh này phổ biến trên những
lập địa đất xấu khô cằn.
Theo Jayasinghe và cộng sự (2017) Bệnh sần vỏ ở SriLanka là bệnh
gây hại nghiêm trọng bệnh này gây thiệt hại năng suất to lớn trên những vùng
trồng Quế Cinnamomum zeylanicum Blume và được tìm thấy trên tất cả
những diện tích trồng Quế của SriLanka. Những nghiên cứu được tiến hành
tại trung tâm nghiên cứu và đào tạo Quế, Palolpitiya, Thihagoda, Sri Lanka từ
tháng 5 đến tháng 12/2015 đã tìm ra mối quan hệ giữa mức độ bị bệnh và tình
trạng dinh dưỡng của cây. Nấm gây bệnh được phân lập từ những cành nhánh
bị nhiễm bệnh trên cây Quế và nó đã sản sinh ra pycnidia chứa α-conidia rất
giống với Phomopsis sp. trên môi trường PDA ở 290C. Các thử nghiệm về
khả năng gây bệnh cho thấy khi tiêm bào tử nấm bệnh (106-107/ ml) vào
những cành nhánh khỏe mạnh thì những triệu chứng bệnh giống với sự lây
nhiễm tự nhiên trong 6 tuần. Những kiểu khác nhau của phần cắt ngang và
dọc của những phần thân khỏe mạnh và thân bị nhiễm bệnh được quan sát
dưới kính hiển vi quang học và điện tử. Các mô sáp bao gồm mô xylem của

những thân cây bị nhiễm bệnh thì chuyển màu nâu tối hoặc màu đen, báo hiệu
cái chết của mô sau sự xâm nhập của nấm. Mô xylem của của cây bị tắc
nghẽn và sự vận chuyển dinh dưỡng bị gián đoạn bởi nấm bệnh Phomopsis
sp. Ở giai đoạn này, gân lá úa vàng, điển hình ở những lá bánh tẻ giống như
triệu chứng của bệnh. Phủ định mối quan hệ giữa mức độ bị bệnh và sự xáo
trộn hấp thụ những chất dinh dưỡng chính (N, P, K) của lá.
Nghiên cứu biện pháp phòng trừ bệnh hại Quế


11

Kiểm soát bệnh đốm tảo do Cephaleuros virescens bằng hỗn hợp hợp
1% Bordeaux, 50% Topsin và 50% Carbendazim lần lượt là 66,2%, 45,9%, và
33,8% (Zheng et al. (2004).
Rajapakse and Wasantha (2007), để khống chế bệnh đốm lá do C.
gloeesporioides bằng cách phun Chlorothalonil 75% WP, Carbendazim 50%
WP, Mancozeb 80%WP or Thiphanatemethyl 70% WP khoảng 7 -10 ngày,
có thể cải thiện bệnh. Bệnh Phấn hồng do Corticicum salmonicolor chưa có
biện pháp hóa học nào được đề xuất quản lý loại bệnh này mà đốt cháy cành
hoặc phần của cây bị nhiễm bệnh là biện pháp làm giảm tỷ lệ bị bệnh. Phòng
trừ bệnh loét sọc bằng cách cải thiện hệ thống thoát nước làm cho tỷ lệ bị
bệnh thấp đi. Việc loại bỏ và tiêu hủy các bộ phận bị nhiễm bệnh và băng vết
thương bằng nhựa đường cũng được đề xuất để kiểm soát bệnh.
1.2. Tình hình nghiên cứu về cây Quế ở trong nước
- Phân loại và thực vật học
Tên khoa học: Cinnamomum cassia. BL
Thuộc chi: Cinnamomum
Họ: Lauraceae
Tên Việt Nam: Cây Quế
Tên địa phương: Quế Thanh, Quế Quỳ, Quế Quảng, Quế Yên Bái, Quế

Bì, Mạy Quế.
Tên tiếng Anh: Cinnamo
- Về giá trị cây Quế
Ở Việt Nam, cây Quế được ghi chép trong các sử sách trong lịch sử
triều cống của nước ta như một trong các sản phẩm quan trọng và quý giá.
Từ thế kỷ XIV, Tuệ Tĩnh đã có những ghi chép ban đầu về đặc điểm
cây Quế và công dụng làm thuốc của loài cây này. Tiếp theo đó, Lê Quý Đôn
trong “Vân đài loại ngữ” và Nguyễn Trứ trong “Việt Nam thực vật học” cũng
đã mô tả lại hình thái và công dụng của cây Quế. Trong bộ sách “Y tông tâm


12

lĩnh” gồm 66 quyển của Hải Thượng Lãn Ông (1721 - 1792) có nhiều bài
thuốc sử dụng vỏ Quế. Cũng trong khoảng thời gian này, khi người Pháp đến
Việt Nam, Joanis de Loureiro (1730) đã mô tả 1257 loài cây cỏ ở Nam Bộ
trong cuốn Floria Cochichinensis và xác định tên khoa học cho cây Quế là
Luarus cinnamomum Lour. Từ đó cho đến đầu thế kỷ XIX hầu như không có
công trình nào nghiên cứu thêm về cây QSuế (Trần Hợp, 1984).
Từ xa xưa nhân dân các dân tộc nước ta đã nhận biết được lợi ích của
cây Quế và sử dụng Quế vào nhiều mục đích. Trước hết Quế được sử dụng
làm thuốc chữa bệnh, vỏ Quế được mài ra trong nước đun sôi để nguội để
uống, hoặc trong các bài thuốc có Quế để chữa một số bệnh đường tiêu hoá,
đường hô hấp, kích thích sự tuần hoàn của máu, lưu thông thuyết mạch, làm
cho cơ thể ấm lên. Chống lại giá lạnh và có tính chất sát trùng. Quế được nhân
dân coi như một trong bốn vị thuốc rất có giá trị: Sâm, Nhung, Quế, Phụ.
Theo tác giả Lê Trần Đức trong: “Cây thuốc Việt Nam” Nhục Quế vị
ngọt cay tính nóng, thông huyết mạch, làm mạnh tim, tăng sức nóng, chữa các
chứng trúng hàn, hôn mê, mạch chạy chậm, nhỏ, tim yếu (trụy mạch, huyết áp
hạ) và bệnh dịch tả nguy cấp…”

Quế Giao chỉ (Quế Việt Nam) trước đây được coi là sản vật quý giá, có
giá trị như ngà voi, chim công… sử dụng để làm quà ngoại giao, biếu tặng
trong và ngoài nước. Nhân dân Thanh Hoá còn gọi Quế địa phương là Ngọc
Quế Châu Thường. Quế được sử dụng một khối lượng lớn để làm gia vị vì
Quế có vị thơm, cay và ngọt có thể khử bớt được mùi tanh, gây của cá, thịt,
làm cho các món ăn hấp dẫn hơn, kích thích được tiêu hoá. Quế còn được sử
dụng trong các loại bánh kẹo, rượu: như bánh Quế, kẹo Quế, rượu Quế được
sản xuất và bán rất rộng rãi.
Quế được sử dụng làm hương vị, bột Quế được trộn với các vật liệu
khác để làm hương khi đốt lên có mùi thơm được sử dụng nhiều trong các lễ
hội, đền chùa, thờ cúng trong nhiều nước châu á nhất là các nước có đạo phật,


13

đạo Khổng Tử, đạo Hồi. Gần đây nhiều địa phương còn sử dụng gỗ Quế, vỏ
Quế để làm ra các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như bộ Khay, ấm, chén bằng
vỏ Quế, đĩa Quế, đế lót dầy có Quế. Bột Quế còn được nghiên cứu thử
nghiệm trong thức ăn gia súc để làm tăng chất lượng thịt các loại gia súc, gia
cầm. Ngoài ra, gỗ Quế còn được sử dụng làm ván ghép thanh, cột chống,
đóng đồ gia dụng, làm đũa và làm tăm suất khẩu…
Cây Quế có giá trị rất lớn trong đời sống sinh hoạt của nhân dân ta
trong nhiều thế kỷ qua. Trước hết đây là một vị thuốc quý cả về thuốc Nam
lẫn thuốc Bắc (một trong bốn vị thuốc đầu bảng Sâm – Nhung – Quế - Phụ).
Nghiên cứu về giá trị dược liệu của cây Quế, Đỗ Tất Lợi (1970) chỉ rõ trong
Tây y, Quế và tinh dầu Quế được coi là một vị thuốc có tác dụng kích thích
làm cho sự tuần hoàn máu được lưu thông, hô hấp cũng mạnh lên. Đông y coi
Quế như là một vị thuốc bổ, có nhiều công dụng có khi chữa cả đau mắt, ho
hen, bồi bổ cho phụ nữ sau khi sinh nở, chữa bệnh đau bụng, đi tả nguy hiểm
đến tính mạng.

Từ vỏ và lá Quế chúng ta có thể chưng cất lấy tinh dầu. Tinh dầu Quế
là mặt hàng có giá trị trong xuất khẩu. Trong y dược, tinh dầu Quế là chất sát
trùng mạnh, trong tinh dầu có eugenol thường dùng để tổng hợp vanilin.
Trong các loài cây lâm sản ngoài gỗ của rừng nhiệt đới nước ta cây Quế
có thể tổ chức sản xuất thành nguồn hàng lớn, ổn định lâu dài và có giá trị,
nhất là giá trị xuất khẩu. Cây Quế là nguồn lợi kinh tế lớn và gắn liền với đời
sống của nhân dân các dân tộc ít người nước ta như đồng bào Dao, Mông,
Tày… (Lào Cai), Thái, Mường (Nghệ An, Thanh Hoá) Cà tu, Cà toong
(Quảng Nam, Quảng Ngãi) và Thanh Y, Thanh Phán (Quảng Ninh).
Ngoài lợi ích về mặt kinh tế, cây Quế còn đóng góp vào bảo vệ môi
trường sinh thái, làm tăng độ che phủ rừng, giữ đất, giữ nước ở các vùng đất
đồi núi dốc, bảo tồn và phát triển sự đa dạng các nguồn gen quý cây bản địa -


14

cây Quế còn đóng góp vào định canh - đinh cư, xoá đói giảm nghèo tạo thêm
công ăn việc làm cho nông dân miền núi nước ta.
Về công dụng của các bộ phận trên cây Quế chủ yếu là làm thuốc, giá
trị dược liệu của các bộ phận này phụ thuộc vào kỹ thuật khai thác, chế biến
vỏ Quế.
- Đặc điểm sinh vật học, sinh thái học và kỹ thuật gây trồng
+ Đặc điểm sinh vật học
Cây Quế là loài cây thân gỗ, sống lâu năm, ở cây trưởng thành có thể
cao trên 15m, đường kính ngang ngực (1,3m) có thể đạt đến 40cm. Quế có lá
đơn mọc cách hay gần đối lá có 3 gân gốc kéo dài đến tận đầu lá và nổi rõ ở
mặt dưới của lá, các gân bên gần như song song, mặt trên của lá xanh bóng,
mặt dưới lá xanh đậm, lá trưởng thành dài khoảng 18 – 20 cm, rộng khoảng 6
– 8 cm, cuống lá dài khoảng 1 cm. Quế có tán lá hình trứng, thường xanh
quanh năm, thân cây tròn đều, vỏ ngoài màu xám, hơi nứt rạn theo chiều dọc.

Trong các bộ phận của cây Quế như vỏ, lá, hoa, gỗ, rễ đều có chứa tinh dầu,
đặc biệt trong vỏ có hàm lượng tinh dầu cao nhất, có khi đạt đến 4 – 5%. Tinh
dầu Quế có màu vàng, thành phần chủ yếu là Aldehyt Cinamic chiếm khoảng
70 – 90%. Cây Quế khoảng 8 đến 10 tuổi thì bắt đầu ra hoa, hoa Quế mọc ở
nách lá đầu cành, hoa tự chùm, nhỏ chỉ bằng nửa hạt gạo, vươn lên phía trên
của lá, màu trắng hay phớt vàng. Quế ra hoa vào tháng 4,5 và quả chín vào
tháng 1,2 năm sau. Quả Quế khi chưa chín có màu xanh, khi chín chuyển sang
màu tím than, quả mọng trong chứa một hạt, quả dài 1 đến 1,2 cm, hạt hình
bầu dục, 1 kg hạt Quế có khoảng 2500 – 3000 hạt. Bộ rễ Quế phát triển mạnh,
rễ cọc cắm sâu vào lòng đất, rễ bàng lan rộng, đan chéo nhau vì vậy Quế có
khả năng sinh sống tốt trên các vùng đồi núi dốc.
+ Đặc điểm sinh thái học
Đây là lĩnh vực nghiên cứu được nhiều tác giả quan tâm và được tiến
hành trên nhiều vùng trồng Quế khác nhau ở nước ta.


15

Nghiên cứu ảnh hưởng của ánh sáng đến sinh trưởng của cây Quế con
trong vườn ươm, Vũ Đại Dương (2002), cho rằng độ che sáng có ảnh hưởng
rõ rệt đến tỷ lệ cây sống ở giai đoạn này.
Trần Hợp (1991), tại các điểm nghiên cứu Đài Sơn (Yên Bái), Quất
Động (Quảng Ninh) và Hom Cán (Thanh Hóa) cho thấy khi còn non, Quế là
cây chịu bóng tuổi vườn ươm, che bóng bằng nứa đan lọt ánh sáng là tốt nhất.
Nghiên cứu qua các ô dạng bản (1m2) trong rừng tự nhiên thì thấy Quế con
tái sinh nhiều dưới tán cây mẹ, ra chỗ hết che bóng thì hầu như không thấy
nữa; mặc dù hạt Quế có thể phát tán khá xa gốc cây mẹ, nhưng có lẽ chỉ nảy
mầm và thành cây Quế con trong điều kiện dưới tán cây. Như vậy, dưới 1 tuổi
cây Quế là cây chịu bóng cao.
Nghiên cứu phân vùng sinh thái: Công trình nghiên cứu của Hoàng Cầu

(1993), phân chia nước ta thành 4 vùng trồng Quế đó là:
- Vùng Yên Bái;
- Vùng Trà My, Trà Bồng;
- Vùng Quế Phong, Quỳ Châu và Thường Xuân;
- Vùng Quế Hải Ninh, Quảng Hà, Bình Liêu, Tiên Yên (Quảng Ninh)
Tác giả cũng cho rằng do nhu cầu xuất khẩu Quế ngày càng tăng nên
việc mở rộng vùng trồng Quế là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi mở rộng vùng
trồng rừng ở một số địa phương kết quả đạt được còn thấp, Quế sinh trưởng
chậm, vỏ mỏng, hàm lượng tinh dầu thấp và đời sống của cây Quế cũng ngắn.
Nguyên nhân chủ yếu có thể là do sự thay đổi của điều kiện sinh thái giữa các
vùng. Từ kết quả nghiên cứu đặc điểm tự nhiên của các vùng Quế lâu đời ở
nước ta, tác giả nêu một số vấn đề tham khảo trong quá trình mở rộng vùng
gây trồng ra ngoài vùng phân bố tự nhiên cây Quế như sau:
- Những vùng trồng Quế có triển vọng cần chú ý kiểm tra chất lượng vỏ
Quế đạt được qua từng giai đoạn. Có thể 5 năm là 1 cấp tuổi để khảo nghiệm
các chỉ tiêu chất lượng như hàm lượng tinh dầu trong vỏ và độ dày của vỏ để


16

so sánh với các chỉ tiêu chất lượng vùng phân bố tự nhiên và tiêu chuẩn vỏ
Quế xuất khẩu hiện hành.
- Những vùng có lượng mưa thấp dưới 2000 mm/năm hoặc các vùng có
mùa khô kéo dài, ít mưa, mực nước ngầm sâu, cần chú ý theo dõi các mùa
sinh trưởng của Quế, đề phòng Quế bị chết hàng loạt do thiếu độ ẩm.
- Đất vùng đồi núi trọc, đất bị thoái hóa, bị bào mòn, đất bị đá ong, chặt
bí... không nên trồng Quế.
- Những vùng có độ cao 800m trở lên cây Quế sinh trưởng chậm và cho
năng suất thấp. Với độ cao dưới 300m Quế cho vỏ mỏng, hàm lượng dầu
trong vỏ thấp và dễ bị sâu bệnh.

Những nhận xét trên hầu hết mang tính định tính, ví dụ như việc chia 5
năm thành 1 cấp tuổi đối với Quế mới chỉ dựa vào kinh nghiệm, mặc dù vậy
có thể xem đây là một tài liệu có giá trị tham khảo tốt.
Từ những nghiên cứu trên cho thấy phần lớn các tác giả đều thống nhất
Quế là cây chịu bóng ở giai đoạn tuổi nhỏ, từ 5 tuổi trở lên cây Quế ưa sáng
hoàn toàn. Quế được trồng dưới tán rừng, hoặc trồng theo nhiều phương thức
và phương pháp khác nhau. Cây Quế có thể dẫn giống để mở rộng phạm vi
phân bố tự nhiên của nó ra những vùng khác có điều kiện khí hậu và đất đai
tương tự như nơi nó đã phát sinh. Nhìn chung cây Quế ít bị sâu bệnh khi trồng
ngoài khu vực phân bố tự nhiên của nói; nhưng bệnh tua mực có thể xuất hiện
ở độ cao trên 400m tại miền Trung (Nguyễn Trung Tín, 1999). Tuy nhiên,
chất lượng vỏ Quế ở các vùng này chưa có cơ sở để kết luận. Những nghiên
cứu so sánh và định lượng quá trình sinh trưởng của Quế ở các vùng trồng
Quế tập trung trong nước chưa được các tác giả trên quan tâm, trong đó có
vùng Thanh Hóa.
Đỗ Thanh Hoa (1977) cho rằng loài Cinnamomum cassia thích hợp ở
các tỉnh phía Bắc Việt Nam nơi có nhiệt độ bình quân năm tương đối thấp,
nhiệt độ cao tập trung vào mùa hè. Lượng mưa và số ngày mưa cũng tập trung


×