Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN THI THPT QUỐC GIA CÁC VĂN BẢN THUỘC THỂ KÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.09 MB, 122 trang )

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI THPT QUỐC GIA
ĐỀ TÀI:

HƯỚNG DẪN HỌC SINH ÔN THI THPT QUỐC GIA
CÁC VĂN BẢN THUỘC THỂ KÍ


MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành giáo
dục nước nhà đã có những bước tiến mạnh mẽ trong cải cách, đổi mới nội dung,
phương pháp giảng dạy ở các cấp phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào tạo. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học (…) Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực, chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng”. Vì vậy yêu cầu đổi mới dạy và học là tất yếu của tất cả các môn học nói
chung và đặc biệt là môn Ngữ văn nói riêng.
Bồi dưỡng học sinh ôn thi THPT Quốc gia là một một công việc nhiều khó
khăn và thách thức. Chỉ xét riêng ở một khía cạnh trong quá trình bồi dưỡng là cung
cấp các dạng đề và hướng dẫn cách làm cho từng dạng đề đã đòi hỏi rất cao ở người
thầy một sự tìm tòi, sáng tạo và nhanh nhạy nắm bắt những đổi thay. Thực tế cho
thấy, những năm gần đây, kí là thể loại hay và khó đang xuất hiện nhiều trong kì thi
Tốt nghiệp, THPT Quốc gia, đặc biệt là ở câu Nghị luận văn học (5,0 điểm). Điển
hình như: Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2012, đề bài là: Phân tích hình
tượng sông Đà trong “Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Gần đây
nhất là trong kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019, đề thi ra là: Cảm nhận của anh/ chị về


hình tượng sông Hương trong đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp chân núi
Kim Phụng”. Từ đó, nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông của nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường…
Nhà văn Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là những tác giả xuất sắc
của kí Việt Nam với ngòi bút tài hoa uyên bác có cá tính sáng tạo. Các văn bản kí của
hai ông được đưa vào chương trình Ngữ văn 12 là một việc làm có giá trị, góp phần
tăng cường chất văn và đáp ứng mục tiêu giáo dục mĩ cảm cho học sinh. Nhưng thực
tế khi dạy và học các đoạn trích này đã và đang gặp nhiều khó khăn. Để hiểu được cái
hay, cái đẹp của tác phẩm theo thể loại kí từ đó thấy được cái tôi độc đáo của các nhà
văn là điều không hề dễ dàng bởi:
3


+ Thứ nhất, cả 2 tác phẩm Người lái đò Sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng
sông là 2 tác phẩm kí dài, sách giáo khoa đã lược bớt nội dung ở một số đoạn văn,
điều đó lại gây khó cho học sinh khi tiếp cận văn bản. Ngoài ra, so sánh giữa các thể
loại trong toàn bộ chương trình học bộ môn Ngữ văn thì việc phân bố thời lượng
chính khóa cho 2 văn bản này còn quá ít (4 tiết)… Đây là một thực tế đáng để chúng
ta phải suy nghĩ.
+ Thứ hai, tác phẩm kí thường không hư cấu mà tác giả chỉ lựa chọn ngay
những sự việc, những con người vốn đã có giá trị điển hình trong cuộc sống. Nếu
thầy giáo chỉ thỏa mãn với những kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng
hay được, dẫn đến giờ học bài kí diễn ra rất “khô khan”, học sinh khó tiếp nhận được
tác phẩm.
+ Thứ ba, các tác phẩm văn xuôi thiên về tự sự, các em làm quen với cốt
truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết, tình huống... Trong suốt một quá trình dài trước
đó, học sinh chủ yếu được học các tác phẩm ấy dần dần, cảm xúc và nhận thức của
các em đã quen nương theo cốt truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết… Vì vậy khi gặp
tác phẩm kí giàu chất trữ tình học sinh nào cũng sợ, các em thấy lúng túng, mất
phương hướng với những khái niệm nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, giọng điệu trữ

tình, mạch cảm xúc chủ quan... dẫn đến học sinh khó tiếp nhận được tác phẩm. Vì
không thật sự hứng thú nên việc truyền đạt và tiếp nhận trên lớp học đối với những
nội dung này khó lòng đạt được kết quả như mong muốn.
+ Thứ tư, quan niệm về thể loại và định hướng tiếp cận tác phẩm tùy bút trong
sách giáo khoa và sách giáo viên (do Bộ Giáo dục ấn hành năm 2007) cũng chưa
được trình bày một cách thật sáng rõ và nhất quán. Điều bất cập này chắc chắn có ảnh
hưởng không nhỏ, gây nên khó khăn trước hết đối với người giáo viên khi chuẩn bị
giảng bài. Trong phần hướng dẫn giảng dạy và học tập các tác phẩm tùy bút trong
sách giáo viên và sách giáo khoa đã không trách khỏi thiên lệch, chưa đảm bảo
nguyên tắc cơ bản của việc cảm thụ và bình giá tác phẩm văn chương là phải xuất
phát từ đặc trưng thể loại. Ở bài Người lái đò sông Đà, những câu hỏi gợi ý để tìm
hiểu “cái tôi tài hoa, uyên bác” của tác giả thường chiêm tỉ lệ lớn hơn so với những
câu hỏi gợi ý để tìm hiểu về “cái tôi trữ tình, giàu cảm xúc”; Hay như ở bài Ai đã đặt
tên cho dòng sông thì chỉ có một câu hỏi trong tổng số sáu câu ở phần hướng dẫn học
bài là hỏi về chất trữ tình của đoạn trích. Do đó, ta có thể thấy rằng, ngay cả ở những
4


bộ sách cơ bản nhất trong nhà trường là sách giáo khoa và sách giáo viên, thì nội
dung liên quan đến những vấn đề giảng dạy kí cũng chưa đạt được yêu cầu so với
những thể loại khác, hoặc có đề cập thì cũng chỉ mang nội dung khái quát. Từ đó
chúng ta có thể khẳng định thêm rằng, lĩnh vực nghiên cứu về phương pháp giảng
dạy kí hiện nay đang còn bị bỏ ngỏ.
Hơn thế, để cung cấp thêm tư liệu dạy học cho giáo viên trao đổi, học tập kinh
nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh ôn thi THPT quốc gia đạt hiệu quả hơn,
đáp ứng yêu cầu giáo dục chất lượng cao, hàng năm Sở giáo dục và Đào tạo Vĩnh
Phúc thường xuyên chỉ đạo các cụm trường trong tỉnh tổ chức hội thảo chuyên đề ôn
thi THPT Quốc gia. Trong những hội thảo đó, đã xây dựng được hệ thống các chuyên
đề bồi dưỡng học sinh ôn thi THPT quốc gia phong phú làm tài liệu dùng chung cho
người dạy. Có nhiều giáo viên đã đề xuất những phương pháp hiệu quả, tích cực

hướng dẫn học sinh giải quyết đề nghị luận văn học trong cấu trúc đề thi THPT Quốc
gia. Song chưa có chuyên đề nào đi sâu vào hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm
theo đặc trưng của thể kí.
Trong khi đó chỉ còn vài tháng nữa là các em sẽ bước vào kì thi THPT Quốc
gia - kì thi quan trọng có tính chất bước ngoặt trong cuộc đời của các em. Chính vì
vậy, việc giúp học sinh nắm bắt được cách thức tiếp cận một tác phẩm/ đoạn trích kí
là vô cùng cần thiết.
Nhận thức rõ điều đó, là một giáo viên môn Ngữ văn, người viết luôn trăn trở
làm sao để giúp chính bản thân mình cùng đồng nghiệp và học sinh có thêm những
hiểu biết cơ bản về thể kí; biết cảm thụ được cái hay, cái đẹp, giá trị của mỗi tác phẩm
văn học từ đó chủ động trong quá trình học, ôn thi và có kết quả tốt nhất cho kì thi
THPTQG năm học 2019 - 2020 và những năm tiếp theo. Xuất phát từ mong muốn đó,
chúng tôi đã lập kế hoạch, chương trình và đề xuất với tổ chuyên môn Ngữ văn của
nhà trường thực hiện đề tài: Hướng dẫn học sinh ôn thi THPT Quốc gia các văn
bản thuộc thể kí. Với hi vọng góp một vài kinh nghiệm nhỏ có tính ứng dụng cụ thể
đối với giáo viên và học sinh trong quá trình ôn thi THPT Quốc gia.
Trong chuyên đề này, chúng tôi xin được trình bày Một số phương pháp về
việc giảng dạy kí hiện đại. Củng cố kiến thức cơ bản. Đặc biệt, Hướng dẫn một số
đề văn thuộc câu 5 điểm trong đề thi THPT Quốc gia thường gặp liên quan đến hai
đoạn trích kí trong Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 theo đề minh họa của Bộ Giáo dục
5


và Đào tạo đã chính thức công bố ngày 24/01/2018. Ngoài ra, đề xuất một số đề tự
giải cho học sinh…
2. Mục đích nghiên cứu
* Kiến thức
- Giúp học sinh: Nắm được những đặc trưng cơ bản của thể loại kí (trong đó có tùy
bút và bút kí). Phát hiện và cảm nhận được vẻ đẹp của đối tượng thẩm mỹ qua các
đoạn trích/ tác phẩm ấy. Đồng thời nắm được đặc điểm cái “tôi” của mỗi nhà văn.

* Năng lực
- Giúp hình thành ở các em các năng lực: Năng lực tự học. Năng lực tự giải quyết
vấn đề, thu thập thông tin liên quan đến văn bản. Năng lực sáng tạo. Năng lực giao
tiếp, trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa của văn bản. Năng lực hợp
tác, trao đổi, thảo luận. Năng lực sử dụng ngôn ngữ bày tỏ quan điểm, cảm nhận sau
khi đọc văn bản. Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ. Năng lực vận dụng
kiến thức liên môn: lịch sử, địa lý, âm nhạc, hội họa, du lịch, thi ca, phong tục tập
quán; Tích hợp kiến thức sách vở và đời sống; Tích hợp tự thân: Đọc văn - Tiếng việt
- Làm văn.
* Kĩ năng
- Nhận diện được văn bản thuộc thể loại tùy bút.
- Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm kí hiện đại Việt Nam theo đặc trưng thê loại.
- Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn học.
* Thái độ
- Biết trân quý những giá trị văn hóa truyền thống mà kí hiện đại đem lại
- Có ý thức tìm tòi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh trong kí hiện đại Việt Nam .
- Tình yêu và cảm xúc trước vẻ đẹp của các đối tượng thẩm mĩ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, cần hoàn thành những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu lịch sử khái niệm kí, để từ đó đưa ra một khái niệm khoa học và chính xác.
- Khảo sát trên diện rộng các loại đề và cấu trúc đề liên quan đến kí.
- Đối chiếu so sánh loại đề cũ với loại đề mới để tìm ra kỹ năng mới học sinh cần đáp
ứng.
- Cung cấp hệ thống đề minh họa phong phú, chính xác có kèm theo gợi ý.
6


4. Đối tượng áp dụng và phạm vi đề tài nghiên cứu
- Chuyên đề áp dụng cho học sinh khối 12 ôn thi THPT Quốc gia.
- Chuyên đề tập trung vào Hướng dẫn học sinh ôn thi THPT Quốc gia các đoạn

trích kí trong SGK Ngữ văn 12 cơ bản là Người lái đò Sông Đà của Nguyên
Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu lí luận về thể kí và phương pháp
giảng dạy kí để nắm được đặc trưng và cách thức dạy học.
- Phương pháp điều tra và khảo sát: Khảo sát sách giáo khoa, sách giáo viên, sách
tham khảo; các bài viết, bài phân tích của một số nhà giáo, nhà nghiên cứu về các tác
phẩm kí trong chương trình ngữ văn ở trường phổ thông. Dự giờ lên lớp của thầy
giáo, cô giáo ở trường để nắm bắt tình hình dạy học văn nói chung cũng như dạy học
các tác phẩm/ đoạn trích kí nói riêng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng để xử lý các tư liệu và ý kiến nghiên cứu
của các nhà giáo, nhà phê bình, nghiên cứu nhằm làm rõ các quan điểm trong việc
giảng dạy tác phẩm kí.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thiết kế giáo án thực nghiệm, hướng dẫn học
sinh chữa các dạng đề nhằm tìm ra phương pháp tốt nhất cho việc giảng dạy thể loại
kí trong nhà trường phổ thông…
6. Cấu trúc chuyên đề
Ngoài Mục lục, Đặt vấn đề, Kết luận, Tư liệu tham khảo, Phụ lục; Nội dung
chuyên đề gồm có:
Phần 1: Cở sở lí luận
Phần 2: Hướng dẫn học sinh tiếp cận tác phẩm kí
I. Củng cố kiến thức cơ bản
II. Hướng dẫn một số đề văn thuộc câu 5 điểm trong đề thi THPT Quốc gia
III. Một số bài tập tự giải.
Phần 3: Kết quả triển khai chuyên đề tại đơn vị
Phần 4: Đề xuất

NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
7



Phần 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái quát về thể kí
1.1. Khái niệm
Kí là một loại hình văn học bao gồm nhiều thể loại chủ yếu là văn xuôi tự sự,
dùng để ghi chép, miêu tả và biểu hiện những sự vật, sự việc, con người có thật trong
cuộc sống… theo sự cảm nhận, đánh giá của tác giả từ những điều mắt thấy, tai nghe.
Kí thường không có cốt truyện rõ ràng, thậm chí có khi không có cả nhân vật.
Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, kí là thể loại văn học có đặc điểm “tôn trọng
sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu”.
Còn các tác giả của Từ điển tiếng Việt thì cho rằng kí là loại “thể văn tự sự có
tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất”.
1.2. Đặc trưng cơ bản của kí
- Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung
thực, chính xác. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa
điểm, hành động và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh gợi không khí.
- Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tư tưởng, cảm thụ, nhận
xét, đánh giá. Vì vậy sức hấp dẫn của kí là khả năng tái hiện sự thật một cách sinh
động của tác giả. Kí chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng,
tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống.
- Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ quan, chất trữ tình sâu đậm
của cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của cái
tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo…)
- Ngôn ngữ bút kí giàu hình ảnh và giàu chất thơ. Trước hết, ngôn từ nghệ
thuật của kí hướng vào miêu tả phong tục qua những đặc điểm môi trường hoặc
những nét tính cách tiêu biểu của cuộc sống. Vì thế nó vừa cụ thể, sinh động, đậm
chất đời thường, vừa khái quát. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí thường rất linh
hoạt về giọng điệu. Kí thường không chỉ trần thuật, mà cùng với trần thuật là phân
tích, khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống được đề cập, phản ánh trong tác

phẩm.
1.3. Phân loại kí

8


Kí cũng đa dạng về kiểu loại và kết cấu. Theo đó, người ta chia kí thành hai
nhóm lớn. Nhóm thứ nhất thiên về tự sự gồm các thể chính như: kí sự, phóng sự, nhật
kí, hồi kí. Nhóm thứ hai nghiêng về trữ tình với các thể chính như: tùy bút, bút kí, tản
văn…
Kí sự: Là một thể của kí thiên về tự sự, thường ghi chép các sự kiện, hay kể lại
một câu chuyện khi nó mới xảy ra. Kí sự có cốt truyện hoàn chỉnh hoặc tương đối
hoàn chỉnh, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận, nhưng khuynh hướng
của tác giả được toát ra từ tình thế và hành động. Yếu tố phi cốt truyện của những
loại kí này không nhiều. Tác phẩm kí sự cũng cấu tạo theo phương thức kết cấu thông
thường của một tác phẩm nghệ thuật: mở đầu và phát triển sự kiện, sự biến phát triển
đến cao độ - hoặc căng thẳng nhất - và kết thúc. Kí sự là bức tranh toàn cảnh trong đó
sự việc và con người đan chéo, những gương mặt của nhân vật không thật rõ nét.
Phóng sự: Là một thể kí nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi dào và nóng
hổi, không chỉ đưa tin mà còn dựng lại hiện trường cho mọi người quan sát, đánh giá,
do đó nó nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự thật. Nội dung chủ yếu của
phóng sự lại thiên về vấn đề mà người viết muốn đề xuất và giải quyết. Do đó phóng
sự, mặc dù có chất liệu chủ yếu là người thật việc thật, nhưng có màu sắc chính luận.
Nhật kí: Là một thể loại kí mang tính chất riêng tư, đời thường nhiều nhất.
Nếu hầu hết các tác phẩm văn học là để giao lưu với người khác, thì nhật kí lại chỉ để
giao lưu với chính mình. Là ghi chép của cá nhân về sự kiện có thật đã, đang và tiếp
tục diễn ra theo thời gian, nhật kí thường bao gồm cả những đoạn trữ tình ngoại đề và
những suy nghĩ có tính chất chủ quan về sự kiện. Một nhật kí có phẩm chất văn học
khi nó thể hiện được một thế giới tâm hồn, khi qua những sự việc và tâm tình cá nhân
tác giả giúp người đọc nhìn thấy những vấn đề xã hội trọng đại.

Hồi kí: Những ghi chép có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ, một
dạng gần như tự truyện của tác giả. Hồi kí cung cấp những tư liệu của quá khứ mà
đương thời tác giả chưa có điều kiện nói được. Khác với nhật kí, do đặc thù thời gian
đã lùi xa, sự kiện trong hồi kí có thể bị nhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm mà người
viết không tự biết.
Bút kí: Là một thể của kí, bút kí thiên về ghi lại một cảnh vật mà nhà văn mắt
thấy tai nghe, thường trong các chuyến đi. Bút kí tái hiện con người và sự việc một
cách phong phú, sinh động, nhưng qua đó biểu hiện khá trực tiếp khuynh hướng cảm
9


nghĩ của tác giả, có màu sắc trữ tình. Kết hợp linh hoạt các phương thức nghị luận, tự
sự, trữ tình nhưng tùy theo độ đậm nhạt khác nhau của các phương thức mà ta có bút
kí chính luận, bút kí tùy bút v.v..
Tùy bút: Là một thể của kí, tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái
tôi của tác giả. Hình thức thể loại này cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm
hứng, tùy cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày v.v. Những chi
tiết, con người cụ thể trong tác phẩm chỉ là cái cớ để tác giả bộc lộ cảm xúc, suy tư và
nhận thức, đánh giá… (Bản thân Nguyễn Tuân từng định nghĩa một cách khôi hài:
Tùy bút là tùy theo bút mà viết).
2. Một số phương pháp về việc giảng dạy kí hiện đại Việt Nam trong chương
trình Ngữ văn 12 qua Người lái đò Sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân và Ai đã
đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2.1. Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại vừa là một yêu cầu vừa là một nguyên
tắc của quá trình phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học nói chung. Với thể loại kí,
việc tìm hiểu đặc trưng thể loại lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Nắm vững và
bám sát vào đặc trưng của thể kí, người đọc sẽ khám phá được cái hay, cái đẹp của
tác phẩm. Dưới đây là một vài phương pháp cơ bản khi tiếp cận thể loại kí:
a) Cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của đối tượng được tác giả

phản ánh trong 2 tác phẩm kí so với đối tượng tương tự có thật ở ngoài đời.
Vì kí viết về sự thật, người thật, việc thật nên đòi hỏi phải chính xác, trung
thực. Việc cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của đối tượng được
tác giả phản ánh trong 2 tác phẩm kí so với đối tượng tương tự có thật ở ngoài đời là
rất cần thiết.
Ví dụ:
+ Sông Đà nếu chỉ được Nguyễn Tuân ghi chép bằng những số liệu đơn thuần
như một nhà địa lý (tên khai sinh, độ dài…) thì cái phần hồn hung bạo và thơ mộng
của nó sẽ không được phát hiện.
+ Dòng sông Hương của xứ Huế thơ mộng cũng vậy. Nếu Hoàng Phủ Ngọc
Tường chỉ ghi lại các khúc đoạn trong dòng chảy của nó từ thượng nguồn về với Huế
không thôi thì sẽ không có gì hấp dẫn, mà cái hấp dẫn chính là ở chỗ tác giả tưởng
tượng sông Hương như một con người có số phận, có tâm hồn (cô gái Digan) có hành
10


động cụ thể dưới những điểm nhìn khám phá khác nhau. Khi thì sông Hương như một
cô gái mang trong mình tình yêu tha thiết với thành phố Huế, khi lại là một người mẹ
sản sinh cho xứ Huế những giá trị văn hóa truyền thống cùng âm nhạc, thi ca, khi lại
là một nhận chứng của lịch sử đầy oai hùng hiển hách.
b) Học sinh phát hiện và đánh giá óc quan sát, trí liên tưởng, tưởng tượng năng lực
sử dụng ngôn ngữ của 2 nhà văn.
Sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách sinh động của
tác giả. Nếu chỉ đơn thuần là ghi chép thì tác phẩm kí hết sức khô khan không gây
được ấn tượng với người đọc.
Ví dụ:
+ Người lái đò sông Đà: Khi khám phá vẻ đẹp hung bạo của con sông, Nguyễn
Tuân đã vận dụng tri thức của nhiều ngành để miêu tả tính cách của con sông mà ông
gọi là “loài thủy quái khổng lồ” là “kẻ thù số một” của con người. Nhà văn đã huy
động vốn kiến thức của điện ảnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, thậm chí cả lĩnh vực

quân sự, võ thuật, thể thao để miêu tả
Khi khám phá vẻ thơ mộng, trữ tình của con sông, lại cần phát hiện ra sự thay
đổi, di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Dòng sông ấy được chiêm ngưỡng từ trên
cao nhìn xuống. Hình dáng con sông Đà được ví như một “sợi dây thừng ngoằn
ngoèo” và dễ thương, đáng yêu biết bao, qua phép so sánh liên tưởng độc đáo “sông
Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”..
Với hình tượng ông lái đò: Nhân vật này không được khắc họa thành số phận
như trong tác phẩm tự sự. Thực ra đó chỉ là một khoảnh khắc trên sông nước để qua
đó Nguyễn Tuân tôn vinh con người lao động trong thời kỳ mới - thời kỳ miền Bắc
xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông? Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương là kết quả
của nguồn tri thức phong phú thuộc các lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hóa và khả năng
quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Ở đây Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều rất “tài hoa”, luôn nhìn
cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện, góc độ văn hóa thẩm mỹ, nên phát hiện
ra nhiều vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống. Đồng thời cả 2 nhà văn cũng rất “uyên bác”:
hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể cung cấp, đóng góp, lí giải
những kiến thức đó cho người khác
11


c) Học sinh phát hiện được đặc điểm của “cái tôi” tác giả trong mỗi bài kí.
Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của
cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của cái tôi
ấy.
Ví dụ:
+ “Cái tôi” của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân:
Đó là một cái tôi tài hoa, một cái tôi “uyên bác”.
+ “Cái tôi” trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
“Cái tôi” say mê kiếm tìm cái đẹp, dạt dào cảm xúc và luôn gắn bó với thiên nhiên.

“Cái tôi” yêu quê hương đất nước hướng về cội nguồn. Một “cái tôi” tài hoa uyên
bác.
2.2. Rèn luyện phương pháp đọc hiểu cho học sinh
Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn trong tiếp nhận văn bản. Hoạt động đọc hiểu của học sinh cần
được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đọc đúng, đọc
thông, đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc
hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên
tưởng, tưởng tượng và tư duy.
Trong quá trình đọc hiểu học sinh cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:
- Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân - là những hiểu biết về chủ đề
hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề, thể loại của văn
bản.
- Thể hiện những hiểu biết về văn bản: Tìm kiếm thông tin, đọc lướt để tìm ý chính,
đọc kỹ tìm các chi tiết. Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, phân tích, kết nối,
tổng hợp… thông tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản. Phản hồi và đánh giá
thông tin trong văn bản
Học sinh cần làm nổi bật được: Đề tài. Thể loại. Cảm hứng sáng tạo. Đọc và
tìm hiểu bố cục của văn bản. Nội dung của văn bản. Đặc sắc nghệ thuật của văn
bản…
Như vậ, việc đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho học sinh đọc - hiểu văn bản mà
còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Viết sáng
tạo là khả năng trình bày, thể hiện những cảm nhận, suy nghĩ của cá nhân về đối
12


tượng, vấn đề được đặt ra… Viết sáng tạo được thể hiện ở nhiều phương diện khác
nhau, với các mức độ khác nhau, vì vậy cần tạo ra được những cơ hội để học sinh thể
hiện ngay trong quá trình đọc hiểu, đồng thời phát triển các năng lực khác trong học
tập.

2.3. Sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy.
Sơ đồ tư duy là phương pháp ghi nhớ chi tiết để tổng hợp hay để phân tích một
vấn đề thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Vì vậy giúp cho học sinh dễ nhớ và
dễ ôn tập hơn:
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng
- Quan hệ hỗ trợ tương ứng giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan
trọng thì sẽ nằm vị trí càng gần ý chính.
- Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị giác.
- Ôn tập và ghi nhớ sẽ rất hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin (ý) dẽ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
- Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
- Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bát
chap thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng và
linh hoạt cho việc ghi nhớ.
Như vậy, sơ đồ tư duy là một công cụ lý tưởng cho việc giảng dạy và trình bày
các khái niệm trong lớp học. Sơ đồ tư duy giúp cho giáo viên tập trung vào các vấn
đề cần trao đổi cho học sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về chủ đề mà không có
thông tin thừa. Học sinh sẽ không phải tập trung vào việc đọc chép dài dòng, mà thay
vào đó sẽ lắng nghe những gì mà thầy cô giáo diễn đạt. Hiệu quả bài học sẽ tăng.

13


Phần 2: HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP CẬN HAI VĂN BẢN KÍ
TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12 CƠ BẢN, TẬP 1
I. CỦNG CỐ KIẾN THỨC CƠ BẢN
Bài 1: “Người lái đò Sông Đà” (Nguyễn Tuân)
Một số nhận định hay
* Của Nguyễn Tuân
1. Văn chương trước hết phải là văn chương. Nghệ thuật trước hết là nghệ thuật. Sau

đó mới là cuộc đời…Đã là nghệ thuật phải có phong cách độc đáo.
2. Nghề văn là nghề chữ, là nghề dùng chữ nghĩa “sinh sự” để mà “sự sinh”
3. Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập
ngôn ngữ mà có sáng tạo. Không nên ăn bám vào ngôn ngữ người khác. Giàu ngôn
ngữ thì văn sẽ hay. Trường vốn sẽ đi được xa. Cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử
dụng có tìm tòi sáng tạo thì văn sẽ bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử
dụng thì chỉ như nhà giàu giữ của.
4. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn
phải linh hoạt, văn không linh hoạt là văn cứng đơ thấp khớp.
* Của các đồng nghiệp đánh giá Nguyễn Tuân
1. Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi
là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo, vô
song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện
riêng (Anh Đức)
2. "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa" (Nguyễn Minh Châu).
3. “Ông có một vốn từ vựng cực kì phong phú, một lối hành văn độc đáo, tinh tế và
rất có duyên. Câu văn của ông dường như chứa đựng mọi âm thanh, sắc màu của
cuộc sống, hay nói cách khác là sự hòa quyện của thõ ca, nhạc, họa, Nguyễn Tuân
xứng đáng là một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ, một nhà văn độc đáo vô song”
(Tôn Thảo Miên)

14


4. “Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái Thật và cái Đẹp (Nguyễn Đình Thi)
Nguyễn Tuân là bậc thầy tiếng Việt Nam và ông làm công việc tạo ra những cái chưa
có (Nguyễn Đình Thi)
5. “Ngôn ngữ tiếng Việt khi ở trong tay Nguyễn Tuân trở thành yêu ngôn gây ra cho
người đọc một sự say mê gần như ma quái” (Phan Ngọc)
6. “Chúng ta vừa mất đi một bậc thầy ngôn ngữ. Một nhà văn mà khi ta gọi là bậc

thầy nghệ thuật ngôn từ ta không thấy ngại miệng. Một nhà văn độc đáo vô song mà
mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra dưới đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”
(Anh Đức)
7. “Nguyễn Tuân là người thợ kim hoàn của chữ” (Tố Hữu)
8. Nguyễn Tuân viết văn mà giống như thợ kim hòan điêu khắc cần cù chạm trổ vào
mặt đá quý những hình nét trác tuyệt. (Tạ Tỵ).
9. “Cái đẹp của Nguyễn Tuân không phải là cái đẹp mơ mộng, nhàn nhạt, phẳng
lặng, mà là cái đẹp tạo hình, có góc cạnh, nhiều khi dữ dội”. “Nguyễn Tuân người
nghệ sĩ ngôn từ đưa cái đẹp đến thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học
Việt Nam” (Hoài Anh)
10. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức (Vũ Ngọc Phan).
* Một số câu thơ về dòng sông và Tây Bắc
1. Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc…….còn đâu (Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên).
2. Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu…sông xuôi (Đất Nước - Nguyễn Khoa
Điềm).
3.

Cái tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy
Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường
Sống ở thủ đô mà dạ để ngàn phương
Nghìn khát vọng chất chồng mơ ước lớn (Lên miền Tây - Bùi Minh Quốc).

4.

Thác Lửa, thác Đá, thác Chông
Thác Đài, thác Khó, thác Ông, thác Bà
Thác, bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Bài ca xuân 61 - Tố Hữu).


1. Giới thiệu chung
1.1. Tác giả
15


- Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Ông là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Ở
Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao.
- Nguyễn Tuân là nghệ sỹ lớn suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng: thấy cái đẹp
trong quá khứ, trong những con người xuất chúng. Sau cách mạng: thấy cái đẹp ở
hiện tại, trong những con người bình dị.
- Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác. Năm 1996, ông được Nhà
nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Ông có sự đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt
thành công ở thể tùy bút.
(Mở rộng: Những đặc điểm cơ bản của tùy bút Nguyễn Tuân
+ Tùy bút của ông thường phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng, liên tưởng,
so sánh để dựng cảnh, dựng truyện, có mô tả tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật ở
một chừng mực nhất định.
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân rất đậm chất kí: Ghi chép sự thật và thông tin thời
sự, chính xác. Đó là nét riêng của tùy bút Nguyễn Tuân.
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân giàu tính trữ tình. Những trang tùy bút của ông
giàu tính cảm xúc, lắng thấm những cảm nghĩ của tác giả, thông qua cái “tôi” chủ
quan của nhà văn mà phản ánh hiện thực cuộc sống.
+ Ở tùy bút của Nguyễn Tuân, mạch văn cứ theo dòng suy nghĩ mà tràn chảy
miên man từ truyện nọ tạt sang truyện kia trong sự liên tưởng so sánh.
+ Câu văn có kiến trúc đa dạng, giàu nhạc tính. Văn tùy bút của Nguyễn Tuân
là cả một kho tu từ đầy ắp và thú vị những ví von, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng…
+ Tùy bút của Nguyễn Tuân là sự kết tinh tài hoa và uyên bác, huy động vốn
liếng tri thức chuyên môn cực kỳ giàu có của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác

nhau (sử học, địa lí học, quân sự, tri thức về võ thuật, nghệ thuật văn chương, hội
họa, điêu khắc âm nhạc, điện ảnh…))
1.2. Khái quát về tác phẩm
a) Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó
là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống
Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất
16


khác nhau, sống với bộ đội và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống
mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Tùy bút Người lái đò Sông Đà được in trong tập Tuỳ bút sông Đà (1960)
b) Chủ đề
- Nguyễn Tuân đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt
của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Nhà văn
phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất
vàng mười của đất nước trong xây dựng Chủ nghĩa xã hội qua hình ảnh người lái đò
sông Đà.
2. Nội dung đoạn trích
2.1. Hình tượng con sông Đà
Sông Đà là một con sông độc đáo. Sự độc đáo ấy được thể hiện ngay qua hai
câu thơ của Nguyễn Quang Bích mà Nguyễn Tuân trích dẫn ở phần đề từ của tác
phẩm: “Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu” (có nghĩa mọi dòng sông
đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà chảy về hướng bắc).
Dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một
nhân vật sống động với hai tính cách nổi bật: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ
mộng.
a) Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo
- Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, mặt sông chỗ

ấy chỉ lúc “đúng ngọ” (lúc giữa trưa) mới có mặt trời. Có vách đá chẹt lòng sông
“như một cái yết hầu”, có quãng con nai, con hổ có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Vì
lòng sông hẹp, bờ sông là vách đá cao, nên ngồi trong khoang đò ở quãng sông ấy
“đang mùa hè mà cũng thấy lạnh.”
- Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với hàng
cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm”. Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận
trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
- Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như cái giếng bê tông
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở và kêu như của cống
cái bị sặc”. Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào dám men gần những cái
17


“hút nước” ấy. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay “cây
chuối ngược” rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới. Tác giả đã tưởng tượng: có người quay phim
táo tợn, ngồi trên chiếc thuyền thúng, rồi xuống đáy “cái hút” Sông Đà mà thu hình
thì sẽ có những thước phim ấn tượng, gây cảm giác sợ hãi cho người xem.
- Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh dữ
dội, nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe
thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước thác
nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là “khiêu khích”, rồi rống lên “như
tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm thét khi bị cháy rừng.
- Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ,
nhưng mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”. Sông Đà
hình như đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để gây khó khăn,
nguy hiểm cho những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba vòng vây. Vòng thứ
nhất, thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh” nằm lập

lờ ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh
lừa con thuyền”, cũng chỉ có một “cửa sinh” nhưng lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn nhưng bên phải, bên trái đều là “luồng chết” cả,
cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
=> Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm địa độc
ác. Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã trở thành
“kẻ thù số một” của con người.
b) Con sông Đà trữ tình, thơ mộng
- Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều
góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao, Sông
Đà có dòng chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm.
Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo
đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng:
mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Những chi tiết miêu tả
của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của
18


thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu
nữ đương độ xuân thì.
- Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm
“như một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường
thi”, cùng với hình ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm
bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông
bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”
- Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm
màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương ngô “nhú lên

mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn búp”, có “đàn
hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có một liên tưởng độc
đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm
cổ tích tuổi xưa”. Dòng sông quãng này “lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác
xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai
đặc điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông
Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của
mình với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc
suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà tặng
vô giá của thiên nhiên giành cho con người.
(Sơ đồ tư duy: phần Phụ lục 1.3)
2.2. Hình tượng người lái đò
a) Bối cảnh cho ông đò xuất hiện
Ngay khi miêu tả dòng sông Đà hung bạo khúc thượng nguồn, Nguyễn Tuân đã
có ý thức tạo dựng một nền thiên nhiên dữ dội kì vĩ, một không gian hào tráng, lớn
lao xứng đáng với sự xuất hiện của người anh hùng sông nước. Đó là một không gian
của thác ghềnh hiểm trở, của sóng gió cuồn cuộn thét gào với hàng cây số nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió… một không gian của những hút nước ghê rợn, những
thác đá dữ dằn, hiểm ác, của đá dựng vách thành bí ẩn thâm nghiêm.
b) Lai lịch và ngoại hình người lái đò
19


Ông lái đò Lai Châu, quê ông ở ngay ngã tư sông, năm nay đã bảy mươi tuổi,
làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. Nhưng mười năm
người lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái
sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng
tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù. Những dòng này

được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca
ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén
câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ
chỉ ở một tầng hiển ngôn.
c) Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm
- Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt thác sông Đà. Thác Sông
Đà bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Nhưng người lái đò
dũng cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây của thác.
+ Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm của trận”, có bốn “cửa tử”,
một “cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện,
phối hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai
phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách thức” cái
thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay giữ mái
chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy con
thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán chèo”, võ
khí của người lái đò. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách mà “đá trái
mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Nước bám
lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Ông đò đã
bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt lấy cuống lái”.
Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn
âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy
“ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong cái “trùng vi thạch
trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
+ Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh lừa con
thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập lờ phía tả
20


ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn”. Đó

chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã “thuộc qui
luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi lên thác Sông
Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở vòng thứ hai
đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái bám chắc lấy
luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một đường chéo” về
phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái liền
“xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt. Nhưng ông lái đò
vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”, đứa thì ông “đè sấn
lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền, chỉ
còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy, bọn chúng vẫn “không
ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã “tiu nghỉu cái mặt xanh
lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
+ Vòng vây thứ ba, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là
“luồng chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ.
Ông lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó.
Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng
vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy lão
luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt thác
leo ghềnh.
Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa
thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh
nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với
những phẩm chất cao quí. Qua nhân vật thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh
hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta
suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu
quí.
(Sơ đồ tư duy: phần Phụ lục 1.4)

3. Tổng kết
21


a. Nội dung
Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp thể hiện những nét đặc sắc nhất trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân, một nhà văn tài hoa uyên bác luôn quan sát,
khám phá, diễn tả thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ; miêu tả con người ở
phương diện tài hoa nghệ sĩ. Với việc thể hiện nhuần nhuyễn những nét phong cách
ấy, tác phẩm đã thực sự thành công khi phát hiện và miêu tả chất vàng trong vẻ đẹp
hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc cùng chất vàng mười quý giá trong tâm
hồn, tính cách những người lao động bình dị miền Tây Bắc.
Tùy bút Người lái đò sông Đà đã trở thành một thiên anh hùng ca ca ngợi vẻ
đẹp hào tráng của con người trong cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên.
b. Nghệ thuật đoạn trích
- Nguyễn Tuân sử dụng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất
ngờ và thú vị.
- Nguyễn Tuân sử dụng vốn từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và có sức
gợi cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, co duỗi nhịp nhàng, có lúc hối hả, gân
guốc, có lúc chậm rãi trữ tình
- Nguyễn Tuân đã tạo được tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất
của mình.
- Vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều ngành: lịch sử, thơ ca, hội hoạ, quân
sự, thể thao... đã đem đến cho người đọc những trang viết hấp dẫn, lý thú.
(Sơ đồ tư duy bài học: phần Phụ lục 1.1)
Bài 2: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)
* Những nhận định hay
1. Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có "rất nhiều ánh lửa" (Nguyễn Tuân)
2. Anh là một người ham sống đến mê mải, sống và đi, đi để được sống, với đất nước,

với nhân dân, với con người, đi say mê và say mê viết về họ... (Nguyên Ngọc)
3. Hoàng Phủ Ngọc Tường có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình.
Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như
22


đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải
mái ngòi bút được... (Hoàng Cát)
4. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước
ta vài chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm
lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là
những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình... (Ngô Minh)
5. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn đạt được 7 chữ “ T” - thứ nhất là có Tâm, rồi
có Tình, có Tài, có Thực Tiễn, và Trung Thực. (Tô Hoài)
* Thơ về sông Hương
- Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên (Nguyễn Trọng Tạo)
- Con sông dung dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu ( Thu Bồn)
- Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ (Nguyễn Bính)
- Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền,
Trường giang như kiếm lập thanh thiên.
(Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt
Dòng sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh) (Cao Bá Quát)
* Bài hát về Huế, sông Hương
- Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương
Nước sông Hương còn vương chưa cạn

Chim núi Ngự tìm bạn bay về

-

Người tình quê ơi người tình quê thương nhớ lắm chi
(Ai ra xứ Huế - Duy Khánh)
Ðã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt
Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư
(Huế Tình Yêu Của Tôi - Trương Tuyết Mai)

-

Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón...
Em cầm trên tay ra đứng bờ sông.

23


Sông Hương nước chảy thuyền trôi lững lờ,
Em trao nón đợi và em hẹn hò.
( Huế thương - An Thuyên)
1. Giới thiệu chung
1.1. Tác giả
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế.
- Quê: Làng Bích Khê, xã Triệu Phong, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Là một trí thức yêu nước có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần

nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều
được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí... Tất cả
được diễn đạt trong lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm, tài hoa. Năm 2007, ông
được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm bút kí tiêu biểu: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971), Rất
nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1986)...
(Mở rộng: Những đặc điểm cơ bản của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường
+ Kí của ông bộc lộ một trí tuệ sắc sảo, uyên bác: hiểu sâu sắc về văn hóa, triết
học, lịch sử, địa lý, âm nhạc, điện ảnh, văn chương nghệ thuật…
+ Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường thiên về tùy bút, thấm đẫm chất trầm tư, trữ tình.
+ Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có chất tự do, tản mạn. Sự kiện đôi khi chỉ là
cái cớ để nhà văn bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ chủ quan của mình. Cách tổ chức
văn bản mang tính nghệ thuật cao, văn phong giàu chất thơ, hình ảnh gợi cảm.
+ Xuyên suốt các tác phẩm kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là lòng yêu quê
hương đất nước, là tâm huyết với tinh hoa dân tộc. Ông luôn gắn cái đẹp, gắn nghệ
thuật với những truyền thống văn hóa dân tộc.
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông có sở trường đặc biệt về thể bút ký, tùy bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông
là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với
những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn
hóa, lịch sử, địa lý…)
1.2. Tác phẩm
24


- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài tùy bút suất sắc viết tại Huế, ngày 4/1/1981, rút
từ tập bút ký cùng tên.
- Bài tùy bút có ba phần:
+ Phần 1: Cảnh quan thiên nhiên xứ Huế.
+ Phần 2 + 3: Phương diện lịch sử và văn hóa của sông Hương.

1.3. Đoạn trích
- Vị trí: Đoạn trích nằm ở Phần 1 và Lời kết của tác phẩm.
- Bố cục:
+ Đoạn 1: Từ đầu đến… dưới chân núi Kim Phụng”: Sông Hương ở thượng nguồn.
+ Đoạn 2: Tiếp theo đến… quê hương xứ sở”: Sông Hương khi chảy qua đồng bằng,
ngoại vi và thành phố Huế rồi đổ ra biển.
+ Đoạn 3: Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời, thi ca.
- Chủ đề: Bài kí miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ nhiều góc độ: từ tự nhiên, lịch sử
đến văn hóa nghệ thuật. Thông qua đó thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào của tác
giả về non sống gấm vóc, về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân
tộc.
2. Nội dung đoạn trích
2.1. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề Ai đã đặt tên cho dòng sông? lấy từ câu hỏi bâng khuâng của một nhà thơ
Hà Nội khi lặng ngắm dòng sông.
- Để trả lời cho câu hỏi đặt ra của nhà thơ Hà Nội, tác giả đã ghi lại một huyền thoại:
Vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước trăm loài
hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.
- Với cách lí giải này tác giả muốn thể hiện tình yêu tha thiết của người dân cố đô với
dòng sông quê hương đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn chân thành, sự thán phục,
ngưỡng mộ của tác giả và mọi người đối với những người khai phá mảnh đất này.
Với nhan đề như vậy, tác giả muốn lưu ý mọi người về một cái tên đẹp của
dòng sông và cũng là cái cớ để tác giả ngợi ca vẻ đẹp của quê hương. Nhan đề gợi sự
tò mò, mong muốn khám phá của người đọc, vì thế đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn
cho bài kí.
2.2. Dòng sông Hương trong góc nhìn địa lý
a) Dòng sông nơi thượng nguồn
25



×