Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho họcsinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.33 KB, 26 trang )

PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học
sinh lớp 3 .
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Môn Tiếng Việt lớp 3
3. Tác giả:
3.1. Họ và tên: Bùi Thị Thanh Bình

Nam (nữ) : Nữ

3.2. Ngày tháng năm sinh: 16 tháng 12 năm 1978.
3.3. Trình độ chuyên môn : ĐHSP Tiểu học
3.4. Chức vụ, đơn vị công tác :
Giáo viên – Trường Tiểu học An Sơn. Điện thoại : 01665211478
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trường Tiểu học An Sơn– Nam Sách – Hải Dương.
Điện thoại : 03203754959.
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có) :
Trường Tiểu học An Sơn – Nam Sách – Hải Dương.
Điện thoại : 03203754959.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013-2014
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Bùi Thị Thanh Bình

1




TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh
Trong quá trình giảng dạy và tìm hiểu tình hình thực tế ở trường Tiểu học,
tôi không khỏi băn khoăn và lo lắng trước thực trạng học sinh ngày càng yếu môn
văn nhất là phân môn Luyện từ và câu.
Chính vì điều đó tôi đã suy nghĩ, tìm cách lý giải cũng như tìm hiểu qua
thực tế học sinh, tập trung nghiên cứu sau đó đưa ra một số biện pháp, sáng kiến
nhằm khắc phục những tình trạng nêu trên. Từ đó giúp các em có những cái nhìn
mới về môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
Bản thân tôi hằng ngày được tiếp xúc trong môi trường giáo dục, trực tiếp
giảng dạy các em do vậy hơn ai hết tôi là người nắm bắt, nhìn thấy thực trạng học
tập của học sinh. Qua việc khảo sát, đánh giá bài học sinh tôi nhận thấy học sinh
làm bài còn quá yếu, ngôn từ nghèo nàn, câu văn viết khô khan chưa giàu hình
ảnh, ý thức học tập cũng như chất lượng của bài làm là chưa cao. Các em vẫn chưa
nhận biết các biện pháp tu từ so sánh như thế nào. Bên cạnh đó vốn sống, kinh
nghiệm thực tế của các em còn quá ít ỏi. Nội dung chương trình, cấu tạo của sách
giáo khoa thiếu tính khoa học, chưa phù hợp với những đối tượng học sinh. Đó
chính là lý do tôi chọn đề tài Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp
tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 để nghiên cứu.
2. Điều kiện và thời gian áp dụng: - HS khối 3, trường Tiểu học An Sơn.
- Áp dụng trong năm học: 2013 – 2014.
3. Nội dung sáng kiến :
Trong phần này, tôi tập trung nghiên cứu về cơ sở lí luận, lí do chon đề tài,
các mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, đối tượng áp dụng.
Các kiến thức liên quan đến đề tài, thực trạng giảng dạy trên lớp, các biện
pháp nhận biết các biện pháp tu từ so sánh; kết quả đạt được trong quá trình thực
nghiệm.


2


Cụ thể : Các kĩ năng nhận biết các biện pháp tu từ so sánh thực chất là
hướng dẫn học sinh cách xác định các hình ảnh so sánh qua những nét tương đồng
về sự vật hiện tượng trong cuộc sống. Do đó trong khi làm bài tập để đạt được
mục tiêu đề ra, tôi đã dạy và hướng dẫn học sinh học như sau :
a. Phát huy tính tích cực hoá các hoạt động của học sinh :
b. Hướng dẫn học sinh tìm ra các điểm giống nhau của các sự vật trong
cuộc sống để có cách so sánh hợp lý.
c. Cung cấp vốn sống, kinh nghiệm thực tế và những kiến thức về khoa
học, tự nhiên xã hội.
Khi học sinh đã có kĩ năng nhận biết tốt các biện pháp tu từ so sánh học
sinh sẽ biết viết các câu văn tạo ra những hình ảnh cụ thể, sinh động, gợi cảm và
biết viết đoạn văn, bài văn sinh động hơn.
4. Kết quả của kinh nghiệm
- Giờ học sôi nổi hơn, các em đã có kĩ năng nhận biết tốt hơn về biện pháp tu từ
so sánh trong mỗi câu văn, câu thơ.
- Học sinh say mê môn học, tiếp thu bài một cách chủ động, sáng tạo và phát
huy được tính tích cực của học sinh.
- Học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào thực hành, kĩ năng nhận
biết tốt hơn về biện pháp tu từ so sánh trong mỗi câu văn, câu thơ và biết viết các
câu văn có hình ảnh so sánh, đặc biệt là các em không còn nhầm lẫn khi xác định
các biện pháp so sánh
- Chất lượng đại trà của lớp được nâng lên rõ rệt, chất lượng học sinh năng
khiếu cao hơn so với các lớp cùng khối.
5. Kết luận và kiến nghị.
Phần này tôi đưa ra kết luận về tính khả thi của sáng kiến, các bài học kinh
nghiệm, phạm vi, điểu kiện áp dụng và những kiến nghị, đề xuất.


3


PHẦN II : MÔ TẢ SÁNG KIẾN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.HOÀN CẢNH NẢY SINH :
Trong quá trình giảng dạy và tìm hiểu tình hình thực tế ở trường Tiểu học,
tôi không khỏi băn khoăn và lo lắng trước thực trạng học sinh ngày càng yếu môn
văn nhất là phân môn Luyện từ và câu.
Chính vì điều đó tôi đã suy nghĩ, tìm cách lý giải cũng như tìm hiểu qua
thực tế học sinh, tập trung nghiên cứu sau đó đưa ra một số biện pháp, sáng kiến
nhằm khắc phục những tình trạng nêu trên. Từ đó giúp các em có những cái nhìn
mới về môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
Bản thân tôi hằng ngày được tiếp xúc trong môi trường giáo dục, trực tiếp
giảng dạy các em do vậy hơn ai hết tôi là người nắm bắt, nhìn thấy thực trạng học
tập của học sinh. Qua việc khảo sát, đánh giá bài học sinh tôi nhận thấy học sinh
làm bài còn quá yếu, ngôn từ nghèo nàn, câu văn viết khô khan chưa giàu hinh
ảnh, ý thức học tập cũng như chất lượng của bài làm là chưa cao. Các em vẫn chưa
nhận biết các biện pháp tu từ so sánh như thế nào. Bên cạnh đó vốn sống, kinh
nghiệm thực tế của các em còn quá ít ỏi. Nội dung chương trình, cấu tạo của sách
giáo khoa thiếu tính khoa học, chưa phù hợp với những đối tượng học sinh. Nhất
là ở chương trình lớp 3 biện pháp tu từ so sánh, đó chính là lý do tôi chọn đề tài
Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh
lớp 3 để nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI :
- Góp phần giúp học sinh củng cố lý thuyết về cách dùng từ so sánh, từ đó học
sinh biết phân biệt, biết cách nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
- Giúp học sinh tiếp cận kịp thời với sách giáo khoa đồng thời giúp giáo viên
có được các phương pháp rèn luyện học sinh kỹ năng sử dụng biện pháp tu từ so
sánh.

- Giúp cho giáo viên nâng cao được trình độ, năng lực chuyên môn.
4


III. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI :
- Thực hiện ở lớp 3C do tôi chủ nhiệm.
- Phần nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hình thành và viết chuyên đề sáng kiến, tôi đã sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp tra cứu tập hợp hồ sơ tài liệu.
- Phương pháp điều tra thực trạng.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích kết quả.
- Phương pháp thực nghiệm.

5


B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức
của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam.. Bởi thế, dạy Tiếng Việt
có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống cộng đồng và đời sống của mỗi con
người. Những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội , văn hoá giáo
dục, thành tựu khoa học đều có liên quan đến việc dạy Tiếng Việt mà trong đó
biện pháp tu từ so sánh góp một phần không nhỏ để làm nên điều đó .
Mặt khác, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ
làm nên một hình thức miêu tả sinh động, so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói
rõ ràng, cụ thể, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. Có ai sinh ra mà không biết
rằng:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Chỉ cần sử dụng biện pháp tu từ so sánh trong câu ca dao trên , tâm tư tình
cảm của con người sẽ được bộc lộ một cách kín đáo và tế nhị. Nó gửi gắm vào đó
cả một niềm tâm sự thầm kín .Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ cũng đã sử
dụng Biện pháp so sánh tương đồng để viết : “ Tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền mà không ai có thể xâm
phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Như vậy đối với tác phẩm văn học nói chung, so
sánh mang chức năng nhận thức và biểu cảm.
Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia
nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến
trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi. So sánh tu từ giúp các em hiểu và
cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang tri thức làm
phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức, yêu quý Tiếng
Việt giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho học sinh.
6


Biện pháp nghệ thuật so sánh đã chính thức đưa vào phân môn Luyên từ và
câu lớp 3. Điều đó cũng khẳng định vai trò trách nhiệm của mỗi giáo viên trong
việc hình thành cho học sinh kĩ năng nhận biết và sử dụng. Giúp học sinh phát
triển kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện để học sinh phát triển một cách toàn diện
đồng thời giúp giáo viên có được các phương pháp rèn luyện học sinh về kỹ năng
sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Đó chính là mục đích của đề tài này.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thực trạng:
a. Về sách giáo khoa:
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và phân môn Luyện từ
và câu nói riêng còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý: Mặc dù SGK đã chú trọng

phương pháp thực hành nhưng những bài tập sáng tạo vẫn còn ít, đơn điệu, kiến
thức dạy học sinh còn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh hoạ nên học sinh
còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình lĩnh hội các kiến thức mới.
b. Về phía giáo viên:
Người giáo viên còn gặp khó khăn như cơ sở vật chất, phương tiện dạy học
và tài liệu tham khảo còn ít. Một số bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa chú trọng
quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học giữa các phân môn của môn
Tiếng Việt với nhau, để khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tò mò của phân môn
này với phân môn khác trong môn Tiếng Việt.
c. Về phía học sinh:
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản,
trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế. Vốn kiến thức
văn học của học sinh còn nghèo .Một số em chưa có khả năng nhận biết về nghệ
thuật, học sinh chỉ mới biết các sự vật một cách cụ thể. Nên khi tiếp thu về nghệ
thuật so sánh tu từ rất khó khăn. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần hướng dẫn
một cách tỉ mỉ thực tế.

7


Qua khảo sát chất lượng về kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh của
học sinh lớp 3C năm học 2013 - 2014 tôi đã thu được kết quả như sau:
Số học sinh

Số học sinh đạt yêu

Số học sinh chưa có

Số học sinh


tham gia

cầu về nhận biết tu

kỹ năng nhận biết tu

không nhận biết

đánh giá

từ so sánh
SL
%
10
32,5

từ so sánh
SL
%
15
48,5

tu từ so sánh
SL
%
6
19

31


2. Các kiến thức liên quan:
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề tài, tôi thống kê phân tích các
hướng nghiên cứu biện pháp so sánh trong phân môn: "Luyện từ và câu" của
chương trình SGK lớp 3 phục vụ cho việc giảng dạy.
Kiến thức về so sánh tu từ được đưa vào giảng dạy trong chương trình lớp
3 ở phân môn: "Luyện từ và câu". Toàn bộ chương trình Tiếng Việt 3 - Tập I đã
dạy về so sánh gồm 8 bài ở các tuần: Tuần 1,3,5,7, 10,12,15 và tuần ôn tâp 18 với
các mô hình sau:
a) Mô hình 1:
So sánh: Sự vật - Sự vật.
b) Mô hình 2:
So sánh: Sự vật - Con người.
c) Mô hình 3:
So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
d) Mô hình 4:
So sánh: Âm thanh - Âm thanh.
Tác giả SGK đã giúp học sinh nhận diện dạng, loại và phân biệt hiệu quả so
sánh qua các dạng bài tập.
Trong quá trình dạy của GV và học của HS còn hay mắc phải những tồn tại
vướng mắc. Xuất phát từ thực tế và những lí do được trình bày ở trên tôi muốn
đưa kinh nghiệm : Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so
8


sánh cho học sinh lớp 3 .Với hi vọng sẽ giúp cho các bạn đồng nghiệp đang dạy
Tiếng Việt lớp 3, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu có một tài liệu tham khảo
trong quá trình dạy học, trang bị thêm cho mình những cách thức, những kinh
nghiệm trong quá trình hướng dẫn học sinh nhận biết biện pháp tu từ so sánh. Trên
cơ sở đó tạo cơ hội cho học sinh phát triển năng khiếu của bản thân thông qua việc
viết các câu văn giàu hình ảnh, góp phần nâng cao chất lượng cảm thụ văn học và

viết văn cho học sinh.
Sáng kiến này tôi đã nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy trong những năm
học trước thấy có hiệu quả thiết thực. Năm học 2013 – 2014 tôi đã tiếp tục sử
dụng cách dạy này vào lớp tôi trực tiếp giảng dạy.
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NHẬN BIẾT BIỆN PHÁP
TU TỪ
1. Dạy đúng quy trình :
Để học sinh học tốt dạng bài tu từ so sánh . Bất cứ một bài tập nào, GV cần
làm theo các yêu cầu sau:
- Đọc kỹ đề bài
- Xác định đúng yêu cầu của bài
- Phân tích yêu cầu của bài
- Học sinh làm bài
- So sánh đối chiếu kết quả của học sinh với đáp án ( HS phải lí giải được đáp án
của mình )
- GV phải giải thích cho học sinh rõ vì sao có đáp án đó .
* Ví dụ : Bài tập 2 (Trang 8): Tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ sau:
Ơ cái dấu hỏi
Trông ngộ ngộ nghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe
- Giáo viên yêu cầu HS đọc yêu cầu của đề
9


- Giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật.
- HS gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật vào SGK
- Học sinh trình bày ( Giáo viên có thể hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do lại
sao em chọn từ đó )
- Giáo viên đưa ra đáp án


Sự vật so sánh
Từ so sánh
Sự vật so sánh
Cái dấu hỏi
như
vành tai nhỏ
+ Giáo viên có thể vẽ lên bảng hoặc giải thích cho học sinh hiểu Dấu hỏi cong
cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai. (Giáo viên có thể
cho học sinh nhìn vào vành tai bạn).
* Chú ý : Phương pháp này có hiệu quả nhất là sử dụng khi tìm hiểu bài .
2. Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các môn học:
2.1. Tích hợp trong môn Tiếng Việt :
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt , giáo viên cần lồng ghép
giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang
7). Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để
gây hứng thú cho tiết tiếp theo của môn: "Luyện từ và câu". Giáo viên có thể cho
học sinh tìm các câu thơ có sử dụng biện pháp tu từ so sánh .
Ví dụ 2 : Khi dạy bài Tập đọc “ Cửa Tùng ”, để giải thích từ ngữ (chiếc thau
đồng, bờ biển Cửa Tùng) GV có thể cho học sinh tìm câu văn có sử dụng biện
pháp so sánh . Học sinh sẽ rất dễ dàng tìm ra câu :
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển .
- Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi
cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và
sẽ áp dụng tốt trong việc viết văn của nình .
2.2. Tích hợp Biện pháp tu từ so sánh qua các môn học khác :
a) Dạy Tự nhiên xã hội :
10



Khi dạy bài “ Các thế hệ trong gia đình’’ Giáo viên có thể cho học sinh tìm
những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về tình cảm của những ngưòi thân trong
gia đình . Học sinh đại trà tìm tự do . Học sinh giỏi , giáo viên có thể yêu cầu cao
hơn( có sử dụng biện pháp so sánh )
- Anh em như thể tay chân
- Con hơn cha là nhà có phúc
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
b) Dạy Toán : Tích hợp biện pháp so sánh khi dạy Toán qua các dạng về
nhiều hơn, ít hơn , điền dấu < , >, =., So sánh số lớn gấp mấy lần số bé, Số bé
bằng một phần mấy số lớn …
3. Dạy theo mô hình :
Bài tập về so sánh lớp 3 được chia làm 2 dạng:
-

Dạng 1: Bài tập theo mẫu (Bài tập nhận biết ). Trọng tâm

-

Dạng 2: Bài tập sáng tạo ( Bài tập vận dụng )

3.1.Dạng 1 : Giúp học sinh nhận biết các từ chỉ sự vật so sánh . Dạng bài tập này
rất đơn giản. Chủ yếu là nhận biết các sự vật so sánh thông các bài tập . Dạng này
chiếm đa số trong chương trình . Nó được xây dựng dựa trên 4 mô hình sau:
a) Mô hình 1: So sánh: Sự vật - Sự vật.
b) Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.
c) Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
d) Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh.

Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh
vững vàng đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới .
Dựa vào các mô hình như ta vừa phân tích .
a.Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật:

Mô hình này cách nhận dạng rất dễ

vì trong câu thường xuất hiện các từ so sánh (như, là , giống , tựa, chẳng bằng ...)
Mô hình này có các dạng sau:
11


A như B.
A là B.
A chẳng bằng B
a1. Tìm hiểu dạng A như B: Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của
chương trình và xuyên suốt đến cuối chương.
* Ví dụ: Bài 2( SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu
văn dưới đây:
"Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành"
(Huy Cận)
"Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch"
(Vũ Tú Nam)
"Cánh diều như dấu á
Ai vừa tung lên trời"
(Phạm Như Hà)
Để làm tốt bài tập này, học sinh phải phát hiện các từ chỉ sự vật được so sánh
từ đó học sinh sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên
Có 2 phương án: Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các

câu trên bằng bút chì vào SGK
Phương án 2: Giáo viên phát phiếu học tập nhóm đôi. Các nhóm điền vào phiếu
Câu
Sự vật 1
a)
Hai bàn tay
b)
Mặt biển
c)
Cánh diều
Học sinh trình bày :

Từ so sánh
như
như
như

+ "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành"
+ "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ".
+ "Cánh diều" so sánh với "dấu á"
+ "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ".
12

Sự vật 2
hoa đầu cành
tấm thảm khổng lồ
dấu “ á”


Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa

đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó giáo viên
phải hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau,
chẳng hạn:
+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
(Giáo viên có thể vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á")
a2. Tìm hiểu dạng A là B: Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh
với câu giới thiệu . Bởi lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ”
Ví dụ :(Bài 1c, d trang 24,25): Tìm các hình ảnh so sánh trong câu :
c/ Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung
d) Những đêm trăng sáng , dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng .
Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong câu
thơ : ( trời mùa đông – tủ ướp lạnh ), ( trời mùa hè – bếp lò nung)
Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được so
sánh .
-

Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh

-

Trời mùa hè nóng như bếp lửa lò nung

Trong câu : Mẹ tôi là giáo viên ( từ là có tác dụng giới thiệu. Trong trường
hợp này , học sinh phải hiểu nghĩa của từ và của câu )
b. Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người.

Dạng của mô hình so sánh này là:
b1. Dạng A như B:

+ A có thể là con người.
+ B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
13


Ví dụ: Bài tập 1/trang58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây:
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan"
(Hồ Chí Minh)
"Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng".
(Võ Thanh An)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người
nhưng các em chưa giải thích được"Vì sao?". Chính vì thế điều đó giáo viên giúp
học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người, chẳng hạn:
"Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang
phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng.
"Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ
già giặn có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng.
b2.Dạng A là B: Ví dụ : Bài tập 1/ trang 42,43( phương pháp dạy như mô hình 1)
"Ông



Sự vật 1 (người)

buổi trời chiều

Sự vật 2(Sự vật )

Cháu là

ngày rạng sáng"

Sự vật 2( người )

Sự vật 2( Sự vật) )

b3. Dạng A chẳng bằng B: Ví dụ: Bài tập 1c/trang 43 : Tìm các hình ảnh so
sánh trong câu :
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đem nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời
Trần Quốc Minh
Dạng bài tập này chỉ cần học thực hiện được hai yêu cầu :
- Xác định sự vật so sánh ( ngôi sao - mẹ ) , ( mẹ - ngọn gió )
14


- Xác định từ so sánh ( chẳng bằng , là )
Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh so sánh .
c. Mô hình 3:So sánh: Hoạt động - Hoạt động.
Mô hình này có dạng như sau: + A x B.
+ A như B.
* Ví dụ bài tập 2 /trang 98: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào
được so sánh với nhau:
+


"Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đạp đất"
(Trần Đăng Khoa)

+

"Cau cao, cao mãi
Tàu vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi"
(Ngô Viết Dinh)
Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó

học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn:
+ Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như".
+ Hoạt động “ Vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “ vẫy” tay của con người
d. Mô hình 4:So sánh: Âm thanh - Âm thanh:
Mô hình này có dạng sau:
A như B:

+ A là âm thanh thứ 1.
+ B là âm thanh thứ 2.

Ví dụ: (Bài tập 2 trang117): Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong
mỗi câu thơ văn dưới đây:

15



Với dạng bài tập này giáo viên giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ
nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn:
+

"Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai"
(Nguyễn Trãi)
Âm thanh của "Tiếng suối" được so sánh với âm thanh của "Tiếng đàn cầm"

qua từ "như".
3.2) Dạng 2 : Bài tập sáng tạo
Mục tiêu: Giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh .
Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn.tuy nhiên , dạng bài tập này
trong SGK rất ít . Nó tập trung ở cuối chương trình HKI gồm 2 bài tập .
2.1: Nhìn tranh đặt câu
Tương tự Bài tập 3/SGKtrang126: Ta có thể đưa ra bài tập sau :
Ví dụ : Quan sát từng cặp tranh rồi viết các câu có hình ảnh so sánh

-

Xe ô tô lao nhanh như tên bắn .

-

Bóng đèn điện toả sáng như mặt trăng.
16



-

Cây thông cao như ngọn tháp .

-

Nụ cười của cô ấy xinh như hoa hồng .

-

Thỏ thì hiền hơn báo.

2.2: Dạng bài tập điền khuyết :
Ví dụ : Bài tập 4 / SGKtrang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào chỗ
trống :
a)

Công cha nghĩa mẹ được so sánh như..., như...

b)

Trời mưa, đường đất sét trơn như...

c)

Ơ thành phố có nhiều toà nhà cao như ....

Ở mỗi câu , giáo viên nên để học sinh xác định sự vật đã cho để cho học sinh
có thể tìm nhiều từ cần điền .
Ví dụ : a) như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy, như sông như biển

b) như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu ...
c) núi ,những ngọn tháp ...
Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, nhất là các
tiết Tiếng Việt (Tăng cường) Giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự hai
dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức .
Ngoài các mô hình so sánh trên học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh:
Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ sơ sánh như : Tựa,
giống , giống như , không thua, không khác. ( So sánh bằng ) và các từ hơn ,kém,
thua , chẳng bằng ( so sánh hơn kém ).
4. Trò chơi học tập : Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện ,
học là mục đích . Thông qua hình thức chơi mà học ,học sinh sẽ được hoạt động ,
tự củng cố kiến thức .Tuy nhiên, muốn tổ chức trò chơi có hiệu quả, cần xác định
mục đích của trò chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi cần phải đơn
giản, dễ hiểu.
Ví dụ : Trò chơi “ Thử tài so sánh”
Mục đích:
17


- Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cum từ có hình ảnh
so sánh đúng .
- Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng, liên tưởng về hoạt động
hay đặc điểm, tính chất ...của sự vật.
Chuẩn bị :
- Làm các bộ phiếu bằng giấy ( Kích thước : 3 x 4 cm)
- Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng thái , đặc điểm, màu
sắc ...
của sự vật ( Tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học ) . Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ hoạt
động, trạng thái , đặc điểm , tính chất
Ví dụ :

+ Bộ phiếu A( 5 từ chỉ hoạt động,trạng thái) : Đọc , viết cười ,nói , khóc
( Dành cho Tiết 7: ôn tập từ chỉ trạng thái , tính chất )
+ Bộ phiếu B ( 5 từ chỉ màu sắc )Trắng , xanh, đỏ, vàng , đen
( Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh )
+ Bộ phiếu C ( 5 từ chỉ đặc điểm , tính chất ): đẹp, cao, khoẻ, nhanh, chậm
( Dành cho tiết 14 , 17: ôn tập từ chỉ đặc điểm )
- Phiếu được gấp tư để “bốc thăm”
- Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi .
Tiến hành :
- Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xung phong lên thử tài so
sánh ( 1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”).
- Học sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe rồi nêu
thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó.
- Ví dụ: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cum từ so sánh: trắng
như tuyết, trắng như vôi, ( hoặc : trắng như trứng gà bóc ).
- Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng- Sai
+ Đúng được bao nhiêu kết quả được bấy nhiêu điểm .
18


+ Trọng tài đếm từ 1-5 vẫn không nêu được kết quả thì không có điểm .
- Lần lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài .Hết 5 phiếu thì về chỗ , thư kí
công bố kết quả .
- Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có tài so sánh cao nhất là người thắng
cuộc.
 Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh động của giáo viên . Cũng
có thể mỗi học sinh lần lược bốc cả 5 phiếu . Mỗi phiếu chỉ cần nêu 1
cụm từ . Người thứ không được nêu lặp cụm từ của người trước . Hoặc
cũng có thể bốc cả 5 phiếu và tiến hành theo nhóm . Nhóm nào tìm được
nhiều cụm từ nhất thì nhóm đó thắng .

Tham khảo:
1/ Gợi ý các cụm từ có hình ảnh so sánh nêu ở mục chuẩn bị
Bộ phiếu A: ( 5 từ chỉ hoạt động, trạng thái)
- Đọc : Đọc như đọc kinh, đọc như rên rỉ, đọc như cuốc kêu, đọc như nói
thầm ...
- Viết : viết như gà bới , viết như giun bò , viết như rồng bay phượng múa,
viết như in,...
- Cười : cười như nắc nẻ, cười như pháo nổ , cười như mếu, ...
- Nói : nói như khướu, nới như vẹt, nói như Trạng Quỳnh, nói như thánh
tướng ,...
- Khóc : khóc như mưa, hkhóc như ri, hkhóc như cha chết , ...
Bộ phiếu B ( 5 phiếu từ chỉ màu sắc ):
- Trắng : trắng như trứng gà bóc , trắng như tuyết , trắng như vôi, trắng như
bột lọc , trắng như ngà voi ,...
- Xanh: xanh như tàu lá, xanh như pha mực, xanh như nước biển ...
- Đỏ : Đỏ như máu , đỏ như son, đỏ như gấc , đỏ như mận chín , đỏ như ớt ,
đỏ như quả cà chua,...

19


- Đen : đen như than, đen như gỗ mun, đèn như cột nhà cháy , đen như bồ
hóng , đen như quạ , đen như cuốc ,...
- Vàng: vàng như nghệ, vàng như mật ong, vàng như tơ, vàng như nắng ,
vàng như lụa ,...
Bộ phiếu C: ( 5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất )
- Đẹp : đẹp như tiên, đẹp như hoa, đẹp như tranh,đẹp như mơ,...
- Cao: cao như núi , cáo như ngọn tháp , cao như sếu , cao như cây sào ,..
- Khoẻ : khoẻ như voi, khoẻ như trâu, khoẻ như bò mộng , khoẻ như hổ,
khoẻ như lực sĩ ,...

- Nhanh: nhanh như sóc , nhanh như điện, nhanh như cắt, nhanh như gió ,
nhanh như chớp ,...
- Chậm: chậm như sên, chậm như rùa, ...
2/ Gợi ý thêm một số bộ phiếu để “ thử tài so sánh”
Bộ phiếu D: ( 5 từ chỉ trạng thái)
- Buồn : buồn như đưa đám, buồn như mất của, buồn như cha chết ,...
- Vui: vui như tết, vui như hội, vui như bắt được vàng, vui như mở cờ trong
bụng ,...
- Sướng : sướng như tiên , sướng như vua, sướng như ông Hoàng(vua)
- Khổ : khổ như trâu ngựa, khổ như ăn mày, khổ như nô lệ,...
- Im: im như thóc , im như hến , im như ngủ,...
Bộ phiếu E: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất )
- Lạnh : lạnh như tiền, lạnh như đồng , lạnh như ướp đá , lạnh như băng,...
- Nóng : nóng như thiêu, nóng như lửa đốt, nóng như bếp lò nung,...
- Chua: chua như dấm , chua như mẻ, chua như khế ,...
- Ngọt : ngọt như đường cát, ngọt như mía lùi , ngọt như mật ong,...
- Đắng : đắng như bồ hòn, đắng như mật gấu,
Bộ phiếu G: (5 phiếu từ chỉ đặc điểm, tính chất )

20


- Gầy : gầy như cò hương, gầy như hạc, gầy như que tăm, gầy như cây củi,
gầy như ống sậy,...
- Hiền : hiền như phật, hiền như bụt, hiền như cô Tấm , hiền như đất ,...
- Dữ : dữ như báo, dữ như cọp, dữ như hổ, dữ như chó sói ,...
- Tròn : tròn như bi ve, tròn như cái đĩa, tròn như quả bóng ,...
- Cong: cong như lưỡi liềm, cong như cầu vồng, cong như con tôm, cong
như cánh cung,..
5. Kết quả đạt được: Khi hướng dẫn học sinh tìm biện pháp tu từ so sánh và sử

dụng triệt để các biện pháp trên . Tập trung trò chơi ở phần củng cố và các tiết tăng
cường, Tôi khảo sát học sinh lớp 3C đạt kết quả như sau:
Số học sinh

Số học sinh có kĩ năng

tham gia

nhận dạng và sử dụng

đánh giá

tốt tu từ so sánh
SL
%
21
67,5

31

Số học sinh có kỹ

Số học sinh chưa

năng nhận dạng và sử có kỹ năng nhận
dụng được .
SL
%
10
32,5


dạng
SL
0

%
0

Qua bảng thống kê cho thấy kết quả thu được khi dạy theo biện pháp này thật
khả quan. 100% học sinh lớp 3C do tôi chủ nhiệm làm bài đạt yêu cầu bài học, có
nhiều học sinh nói, viết được những câu văn giàu hình ảnh.
\

PHẦN III. KẾT LUẬN
21


I. KẾT LUẬN :
Sau khi nghiên cứu tôi đã mạnh dạn triển khai sáng kiến này cho các ban đồng
nghiệp, được tập thể sư phạm nhà trường đồng tình cao và đưa vào áp dụng. Qua
quá trình thực nghiệm, sáng kiến này có tính khả thi cao và mang lại hiệu quả thiết
thực trong giảng dạy về nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
1. Đối với học sinh:
- Giờ học sôi nổi hơn, các em đã có kĩ năng nhận biết tốt hơn về biện pháp tu từ
so sánh trong mỗi câu văn, câu thơ.
- Học sinh say mê môn học, tiếp thu bài một cách chủ động, sáng tạo và phát
huy được tính tích cực của học sinh.
- Học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào thực hành, kĩ năng nhận
biết tốt hơn về biện pháp tu từ so sánh trong mỗi câu văn, câu thơ và biết viết các
câu văn có hình ảnh so sánh, đặc biệt là các em không còn nhầm lẫn khi xác định

các biện pháp so sánh
- Chất lượng đại trà của lớp được nâng lên rõ rệt, chất lượng học sinh năng
khiếu cao hơn so với các lớp cùng khối.
2. Đối với giáo viên:
- Giáo viên không còn lúng túng và thấy tự tin hơn trong khi giảng dạy. Biết vận
dụng các hình thức và phương pháp dạy học linh hoạt hơn.
- Biết cách khai thác bài nhằm gây hứng thú và phát huy tính tích cực học tập
cho học sinh.
- Ngôn ngữ của giáo viên được trau chuốt hơn, thể hiện được trọng tâm của bài
dạy. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
- Các bạn đồng nghiệp đang dạy Tiếng Việt lớp 3 đã sử dụng sáng kiến này như
một tài liệu tham khảo trong quá trình dạy học, trang bị thêm cho đồng nghiệp
những cách thức, những kinh nghiệm trong quá trình hướng dẫn học sinh nhận
biết tốt hơn về biện pháp tu từ so sánh.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
22


Qua kinh nghiệm rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3.
Bản thân tôi thấy rằng cần hướng và rèn cho học sinh những kỹ năng sau:
* Về phía học sinh:
- Chuẩn bị kĩ bài trước khi đến lớp .
- Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách báo phù
hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh...
- Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường sau mỗi bài
học: "Luyện từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức.
- Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài,
phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài.
- Khi quan sát sự vật, cần quan sát thận tinh tế để tìm ra những điểm giống nhau,
những nét tương đồng .

* Về phía giáo viên :
- Sau mỗi bài học , giáo viên phải dành thời gian cho phần dặn dò bài sau thật cụ
thể . Có như vậy học sinh mới chuẩn bị tốt bài mới .
- Luôn có sự kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh . Nhận xét cụ thể.
- Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy . Định hướng cụ thể phương pháp và hình thức tổ
chức cho từng hoạt động .Phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động .
- Luôn gắn lí thuyết với thực hành.
- Phải trực quan, không thể thiếu đồ dùng dạy học ( Mô hình, kí hiệu, đồ dụng,
- Hệ thống ngôn ngữ phải trong sáng , gần gũi, dễ hiểu
- Nếu dự định tổ chức trò chơi học tập thì phải chuẩn bị kĩ . Lường trước các tình
huống sư phạm có thể xảy ra.( Học sinh có thể dùng từ thiếu tính sư phạm ,...)
không chơi ngẫu hứng , tuỳ tiện .
III. PHẠM VI, ĐIỀU KIỆN VÀ HƯỚNG TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU:
Việc dạy các bài toán nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3 là vấn
đề còn nhiều vướng mắc. Vì thời gian có hạn nên tôi mới chỉ nghiên cứu tìm ra
một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3.
23


Sáng kiến này tôi tiếp tục vận dụng vào giảng dạy trong năm học 2014-2015 để
giúp học sinh viết câu văn giàu hình ảnh hơn và cao hơn nữa là viết đoạn văn, bài
văn hay có sử dụng các câu văn có hình ảnh so sánh Đó là dạng bài tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứu trong những năm học sau.
IV. NHỮNG KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT:
- Các nhà trường cần cập nhật các tập san, tạp chí giáo dục để cho giáo viên có
điều kiện tiếp cận với các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học.
- Mỗi giáo viên cần tích cực tự hoc, tự bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình
độ chuyện môn; vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
để tiết học diễn ra nhẹ nhàng mà hiệu quả.
- Nhà trường và Phòng Giáo dục tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về

dạy Tiếng Việt theo từng mảng nhỏ để giáo viên được tham dự, học hỏi kinh
nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong quá trình giảng dạy mà tôi thấy có
hiệu quả và tôi đã mạnh dạn viết lại những việc làm của mình. Tuy nhiên đó chỉ là
ý kiến của cá nhân nên còn có nhiều hạn chế, chưa bao quát được hết tất cả các
vấn đề, chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong các cấp quản lí và
các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để tài liệu này thêm phong phú và có hiệu
quả hơn trong giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
24


STT
1
2
3
4
5
6
7

Tài liệu tham khảo
Ngữ pháp Tiểu học- Diệp Quang Ban - Nhà Xuất bản GD năm 2005
Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt 3.
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học
Sách bồi dưỡng Tiệng Việt 3 - Lê Hải Châu, Nguyễn Xuân Quỳ
Luyện tập về Cảm thụ văn học - Nhà Xuất bản giáo dục năm 2003
Tạp chí Văn học tuổi trẻ, thế giới trong ta, tạp chí giáo dục.

Từ điển bách khoa Việt Nam – Nhà xuất bản từ điển bách khoa HN
năm 2003.

MỤC LỤC
PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
Thông tin chung về sáng kiến
Tóm tắt sáng kiến
PHẦN 2 : MÔ TẢ SÁNG KIẾN
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
II. Mục đích của đề tài
III. Phạm vi của đề tài
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Một số biện pháp rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ
1. Dạy đúng quy trình
2. Dạy biện pháp so sánh tích hợp vào các môn học
3. Dạy theo mô hình
3.1. Dạng 1: Bài tập theo mẫu (Bài tập nhận biết). Trọng tâm
3.2. Dạng 2: Bài tập sáng tạo (Bài tập vận dụng).
4.Trò chơi học tập
5. Kết quả đạt được
PHẦN 3 : KẾT LUẬN
I. Kết luận
II. Bài học kinh nghiệm
III. Phạm vi, điều kiện và hướng tiếp tục nghiên cứu
IV. Những khuyến nghị và đề xuất
Danh mục tài liệu tham khảo- Mục lục


25

TRANG
1
1
2
4
4
4
4
5
5
6
6
7
9
9
10
11
11
16
17
21
22
22
23
23
24
25



×