Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên tại trường Đại học Tây Bắc đáp ứng nhu cầu tuyển dụng giáo viên mầm non, tiểu học công lập của tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 5 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 11-15

ISSN: 2354-0753

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐÁP ỨNG NHU CẦU TUYỂN DỤNG
GIÁO VIÊN MẦM NON, TIỂU HỌC CÔNG LẬP CỦA TỈNH SƠN LA
Trường Đại học Tây Bắc; 2Sở Nội vụ tỉnh Sơn La
+ Tác giả liên hệ ● Email:

Điêu Thị Tú Uyên1,+,
Nguyễn Thanh Tịnh2

1

Article History
Received: 09/3/2020
Accepted: 20/3/2020
Published: 30/4/2020

ABSTRACT
In recent years, in the context of educational innovation, the task of improving
the quality of preschool and primary school teacher training in the Primary Preschool Faculty, Tay Bac University has been increasingly concerned.
Many solutions to improve training quality are given. However, these
solutions are mainly viewed from the perspective of students' professional
competencies that meet the learning outcomes. To achieve optimal
effectiveness in teacher training, it is necessary to strengthen solutions to
improve the training quality from the perspective of recruitment of preschool
and primary teachers. The research results show a correlation between the


evaluation and forecast of the recruitment of preschool teachers, public
primary teachers and the improvement of the quality of preschool and primary
school teacher training. This is a correlation that needs attention to contribute
to improving the quality of teacher training.

Keywords
improving, quality, teacher
training, teacher recruitment,
public, early childhood
teacher, Son La province.

1. Mở đầu
Chất lượng đào tạo là mục tiêu quan trọng, là yếu tố quyết định sự thành công trong công tác đào tạo giáo viên
(GV) nói chung, đào tạo GV mầm non, tiểu học nói riêng. Trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hiện
nay, người GV không chỉ cần bảo đảm chuẩn chức danh nghề nghiệp mà còn phải có trình độ chuyên môn tốt và
năng lực nghề nghiệp vững vàng. Yêu cầu này đặt ra cho cơ sở đào tạo GV nhiệm vụ quan trọng là phải nâng cao và
bảo đảm chất lượng đào tạo GV. Ở Khoa Tiểu học - Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc, những năm gần đây, việc
nâng cao chất lượng đào tạo GV mầm non, tiểu học đã được quan tâm. Nhiều giải pháp quan trọng được thực hiện
như cập nhật chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường hỗ trợ học tập cho sinh viên (SV),
đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, đổi mới cách kiểm tra, đánh giá… Nhưng để công tác đào tạo GV
mang tính hệ thống, đồng bộ, đạt hiệu quả tối ưu, bên cạnh việc bảo đảm chất lượng học tập, nghiệp vụ sư phạm của
SV, cần quan tâm đến chuẩn đầu ra dưới sự tác động của nhu cầu nhân lực từ thị trường lao động. Công tác tuyển
dụng GV mầm non, tiểu học là một “kênh” tham khảo có giá trị trong việc đánh giá và tìm kiếm giải pháp nâng cao
hơn nữa chất lượng đào tạo GV. Thực tiễn đặt ra từ công tác tuyển dụng cũng như những dự báo nguồn nhân lực GV
sẽ giúp các nhà quản lí giáo dục tìm ra những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng, đào tạo được đội ngũ GV
làm nòng cốt trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Công tác tuyển dụng giáo viên mầm non, tiểu học công lập của tỉnh Sơn La năm 2019
2.1.1. Thuận lợi
Công tác tuyển dụng GV mầm non, tiểu học công lập ở tỉnh Sơn La năm 2019 diễn ra trong bối cảnh nhu cầu về

nguồn nhân lực GV tăng do tăng tỉ lệ huy động trẻ mầm non ra lớp và yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông (ở cấp
tiểu học). Trong năm 2019, tỉnh Sơn La đã tuyển được 443 GV mầm non, 452 GV tiểu học vào các trường công lập
(Sở Nội vụ tỉnh Sơn La, 2019).
Cơ quan tuyển dụng xây dựng kế hoạch tuyển GV phù hợp với nhu cầu thực tế. Nguồn ứng viên là SV tốt nghiệp
từ các cơ sở đào tạo GV dồi dào. Các ứng viên tham gia dự thi về cơ bản bảo đảm các tiêu chuẩn tuyển dụng theo
quy định. Các địa phương làm tốt công tác thông báo tuyển dụng, tổ chức thi tuyển và xét tuyển.
2.1.2. Khó khăn
Tuy nguồn ứng viên dồi dào nhưng cơ quan tuyển dụng không tuyển đủ chỉ tiêu. Nguyên nhân thứ nhất là do một bộ
phận ứng viên không đáp ứng được tiêu chuẩn về trình độ tin học cơ bản và trình độ ngoại ngữ. Nguyên nhân thứ hai, chủ

11


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 11-15

ISSN: 2354-0753

yếu là do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận ứng viên chưa đáp ứng được các yêu cầu cụ thể trong thi tuyển,
xét tuyển. Vẫn có sự “vênh nhau” giữa tiêu chuẩn trên hồ sơ dự tuyển và năng lực thực tế của ứng viên. Năm 2019, toàn
tỉnh chỉ tuyển được 895 chỉ tiêu so với 1191 chỉ tiêu cần tuyển theo kế hoạch (đạt 75%). Có một số địa phương, số lượng
GV tuyển được thấp so với yêu cầu đạt ra (huyện Mường La, Sông Mã, Vân Hồ, Thuận Châu). Đây là một khó khăn gây
ảnh hưởng không nhỏ đến việc sắp xếp, bố trí đủ nguồn nhân lực GV cho các trường trên địa bàn tỉnh.
2.2. Dự báo nhu cầu tuyển dụng giáo viên mầm non, tiểu học của tỉnh Sơn La năm 2020
2.2.1. Dự báo về số lượng giáo viên cần tuyển
Trong năm 2020, ở tỉnh Sơn La, nhu cầu nguồn nhân lực GV mầm non, tiểu học trong hệ thống các trường công
lập tiếp tục tăng. Năm 2020, tỉnh Sơn La đề ra chỉ tiêu sẽ tuyển 376 GV mầm non, 233 GV tiểu học (Sở Nội vụ tỉnh
Sơn La, 2019).
Bảng. Dự kiến số lượng GV mầm non và tiểu học cần tuyển năm 2020

Đơn vị cần tuyển dụng
STT
Số lượng GV mầm non
Số lượng GV tiểu học
GV mầm non, tiểu học
1
Huyện Thuận Châu
65
13
2
Huyện Mai Sơn
38
57
3
Huyện Yên Châu
23
09
4
Huyện Mộc Châu
23
12
5
Huyện Sông Mã
58
20
6
Huyện Sốp Cộp
04
03
7

Huyện Quỳnh Nhai
34
13
8
Huyện Bắc Yên
20
24
9
Huyện Phù Yên
23
18
10
Huyện Vân Hồ
26
23
11
Huyện Mường La
62
41
Tổng số
376
233
2.2.2. Yêu cầu về chất lượng giáo viên tham gia dự tuyển viên chức
- SV tốt nghiệp ngành Giáo dục mầm non, tiểu học phải bảo đảm chuẩn đầu ra, bảo đảm các tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp của GV mầm non, tiểu học.
- SV tốt nghiệp cần có hiểu biết vững về các chính sách, quy định tuyển dụng và những thay đổi trong quy định
tuyển dụng; có kiến thức vững về quản lí hành chính nhà nước.
- SV tốt nghiệp cần có kĩ năng tham gia thi tuyển dụng.
- SV tốt nghiệp cần chủ động, sáng tạo trong việc thể hiện ý tưởng đổi mới tổ chức các hoạt động giáo dục trong
nhà trường (Bộ GD-ĐT, 2015a, 2015b).

2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học đáp ứng yêu cầu tuyển dụng
Nhìn từ góc độ nhu cầu tuyển GV mầm non, tiểu học công lập trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2020 và những năm
tiếp theo cũng như những khó khăn trong công tác tuyển dụng, có thể thấy vấn đề cốt lõi là phải nâng cao chất lượng
đào tạo GV ngay từ trong các cơ sở đào tạo. Chỉ khi cơ sở đào tạo có chất lượng đào tạo tốt, SV tốt nghiệp mới được
tăng cơ hội việc làm và phát triển năng lực nghề nghiệp.
Khoa Tiểu học - Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc có nhiệm vụ đào tạo GV hai ngành: Giáo dục mầm non,
Giáo dục tiểu học từ trình độ cao đẳng trở lên. Khoa chủ yếu đào tạo SV khu vực Tây Bắc (Sơn La chiếm khoảng
90 %) và lưu học sinh các tỉnh phía Bắc của Lào. Năm học 2019-2020, Khoa đào tạo 984 SV hệ chính quy. Trong
số SV cuối khoá của khoa, hằng năm có khoảng 25-30% SV tốt nghiệp sớm (học vượt tiến độ). Năm học 2019 2020, khoa có 62/280 SV khoá cuối tốt nghiệp sớm 1 học kì (tốt nghiệp tháng 2/2020), chiếm 22,1%. Chất lượng
đào tạo của khoa những năm gần đây đã và đang được nâng cao. Khoa chú trọng đổi mới phương pháp dạy học,
nghiên cứu khoa học, công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm nhằm nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu khoa
học, rèn nghề của SV. Các hoạt động hỗ trợ học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm sớm cho SV cũng được đẩy
mạnh. SV được tăng cường cơ hội tham gia, trải nghiệm các hoạt động giáo dục ở trường mầm non, tiểu học để bồi
dưỡng, nâng cao năng lực nghề nghiệp. SV đạt học lực khá, giỏi chiếm 70%. SV đạt kết quả thực hành nghề đợt 1
(năm học 2019-2020) loại khá, giỏi chiếm 85%. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, tăng cường các giải pháp nâng cao chất
lượng đào tạo GV mầm non, tiểu học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, bảo đảm chuẩn đầu ra và cơ hội việc làm
tốt nhất cho SV của Khoa Tiểu học - Mầm non trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa cấp thiết.

12


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 11-15

ISSN: 2354-0753

Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn trong công tác tuyển dụng và nhu cầu tuyển dụng GV công lập
tỉnh Sơn La, Khoa Tiểu học - Mầm non cần quan tâm thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
- Tham vấn với Nhà trường điều chỉnh kế hoạch tuyển sinh phù hợp:

Theo Điều 72 của Luật Giáo dục năm 2019, trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo quy định: “có bằng tốt
nghiệp cao đẳng sư phạm trở lên đối với GV mầm non; có bằng cử nhân thuộc ngành đào tạo GV trở lên đối với GV
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông” (Quốc hội, 2019); theo Thông tư số 09/2020 của Bộ GD-ĐT ban
hành Quy chế tuyển sinh trình độ đại học, tuyển sinh trình độ cao đẳng ngành giáo dục mầm non thì năm 2020 chính
thức dừng tuyển sinh trung cấp sư phạm, chỉ tuyển sinh cao đẳng ngành giáo dục mầm non và đại học các ngành
khác (Bộ GD-ĐT, 2020). Thực hiện quy định của Luật Giáo dục, từ năm 2020, tỉnh Sơn La xây dựng kế hoạch tuyển
GV bảo đảm trình độ đạt chuẩn. Vì vậy, Khoa cần tham vấn với Nhà trường kịp thời điều chỉnh kế hoạch tuyển sinh,
không tuyển và đào tạo GV tiểu học không đạt chuẩn về trình độ; đồng thời, cần có kế hoạch tuyển sinh liên thông
chính quy từ cao đẳng lên đại học đối với ngành giáo dục tiểu học để bảo đảm quyền lợi được đào tạo đạt chuẩn cho
SV khối cao đẳng giáo dục tiểu học đang học tập tại khoa hiện nay.
Trong những năm gần đây, nguồn tuyển sinh của Khoa sụt giảm do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chủ yếu là do cạnh tranh trong đào tạo GV mầm non, tiểu học giữa các cơ sở đào tạo; do học sinh có xu hướng thi
vào các trường dạy nghề hoặc đi làm ngay cho các doanh nghiệp sau khi tốt nghiệp phổ thông. Năm học 2019-2020,
Khoa tuyển được 88/135 chỉ tiêu đối với ngành đại học giáo dục tiểu học (65,19%); 84/90 chỉ tiêu đối với ngành đại
học giáo dục mầm non (93,33%), 41/45 chỉ tiêu đối với ngành cao đẳng giáo dục tiểu học (91,11%), 34/45 chỉ tiêu
đối với ngành cao đẳng giáo dục mầm non (Trường Đại học Tây Bắc, 2019). SV tốt nghiệp ngành giáo dục mầm
non, giáo dục tiểu học vẫn có nhiều cơ hội việc làm, nên việc sụt giảm nguồn tuyển sinh cũng là một vấn đề mà lãnh
đạo Khoa và Nhà trường cần quan tâm, có những biện pháp mạnh mẽ hơn trong công tác quảng bá tuyển sinh.
Khác với những năm trước đây, hiện nay, nguồn tuyển sinh của Khoa và Nhà trường tập trung chủ yếu ở địa bàn
tỉnh Sơn La. Năm 2019, số SV K60 của Trường tuyển được trên địa bàn tỉnh Sơn La chiếm 70,78%. Trên cơ sở nắm
bắt xu hướng dịch chuyển nguồn tuyển sinh và những dự báo về nhu cầu tuyển GV mầm non, tiểu học của địa
phương, Khoa cũng cần xây dựng các phương thức quảng bá tuyển sinh phù hợp nhằm thu hút người học.
- Rà soát, đánh giá, chỉnh sửa, xây dựng chương trình đào tạo GV, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được
những thay đổi trong chính sách tuyển dụng GV; những yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông; đáp ứng được nhu
cầu của xã hội về nguồn nhân lực GV chất lượng cao:
Năm 2018, Bộ GD-ĐT đã chính thức công bố Chương trình Giáo dục phổ thông mới. Chương trình được thực hiện theo
định hướng đổi mới giáo dục, chuyển từ chú trọng dạy kiến thức sang chú trọng dạy kĩ năng, hình thành phẩm chất, năng lực
cho người học (Bộ GD-ĐT, 2018a); Quyết định số 1677/QĐ-TTg ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Phát triển
giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025” (Bộ GD-ĐT, 2018b). Trong bối cảnh giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông đang
thực hiện đổi mới chương trình, Khoa Tiểu học - Mầm non cũng đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới công tác đào tạo,

nâng cao chất lượng đào tạo GV mầm non, tiểu học đáp ứng được yêu cầu của chương trình giáo dục mới.
Năm học 2019-2020, Khoa đã tiến hành rà soát, tự đánh giá chương trình đào tạo giai đoạn 2016-2020. Bước
tiếp theo, lãnh đạo Khoa cần chỉ đạo đẩy mạnh việc điều chỉnh, xây dựng chuẩn đầu ra chương trình đào tạo. Theo
đó, chuẩn đầu ra phải sát với yêu cầu chuẩn chức danh nghề nghiệp của GV mầm non, tiểu học; bổ sung thêm những
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ mới như năng lực thiết kế, tổ chức các hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học theo
định hướng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; năng lực kiến tạo môi trường học tập hợp tác, thân thiện,
bình đẳng, dân chủ; năng lực dạy học phân hoá; năng lực đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục (Phạm Hồng
Quang và cộng sự, 2019; Đoàn Thị Minh Trinh và Nguyễn Hội Nghĩa, 2014).
Chương trình đào tạo cũng cần được điều chỉnh, xây dựng theo hướng phù hợp với những yêu cầu của chương
trình giáo dục phổ thông mới, giảm tải kiến thức lí thuyết hàn lâm, tăng cường rèn luyện phương pháp, nghiệp vụ sư
phạm, phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn cho SV. Chỉ khi công tác rèn
luyện năng lực nghề nghiệp cho SV được chú trọng mới có thể thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo với thực tế, giữa
năng lực đầu ra của SV với chuẩn nghề nghiệp của GV (Bộ GD-ĐT, 2016). Ở góc độ công tác tuyển dụng GV, việc
rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho SV cũng có ý nghĩa quan trọng (Bùi Văn Quân, 2016). Cấu trúc của đề thi tuyển
dụng GV ở Sơn La những năm gần đây, nhất là năm 2019 đã có sự thay đổi. Nội dung lí thuyết giảm xuống chỉ còn
40%, 60% nội dung đề thi yêu cầu ứng viên thể hiện trực tiếp năng lực nghề nghiệp. Đây là phần nội dung để các
nhà tuyển dụng đánh giá và lựa chọn những GV có đủ năng lực nghề nghiệp, đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo
dục. Nếu được rèn luyện năng lực nghề nghiệp vững vàng, SV có nhiều cơ hội hơn trong quá trình dự tuyển GV.

13


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 11-15

ISSN: 2354-0753

Bên cạnh việc rà soát, điều chỉnh, xây dựng chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo, lãnh đạo Khoa cũng cần chú trọng
hơn đến công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV. Với mô hình đào tạo gắn kết với thực tiễn, ngoài kế hoạch rèn

luyện nghiệp vụ sư phạm của Nhà trường, Khoa chủ động tăng cường mối quan hệ với các trường mầm non, tiểu học
trên địa bàn tỉnh để thực hiện các hoạt động kết nối cho SV trải nghiệm các hoạt động giáo dục tại các trường, bồi dưỡng
kiến thức, kĩ năng sư phạm. Được trải nghiệm môi trường sư phạm sớm, SV sẽ chủ động, tự tin, đáp ứng tốt các yêu
cầu về chuyên môn, nghiệp vụ khi tham gia thi tuyển dụng và khi trở thành GV. Kết hợp với nhiệm vụ rèn nghề tại
trường phổ thông cho SV, Khoa cũng phải xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hoá hình thức
dạy học, nhất là đối với các môn giáo học pháp. Chủ động, tăng cường cử giảng viên các môn phương pháp đi tập huấn,
hội thảo, cập nhật thay đổi của chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông để thay đổi quan niệm, tư duy dạy
học, trang bị cho SV kĩ thuật dạy học tích cực, kĩ năng sư phạm năng động, linh hoạt, sáng tạo.
Mặt khác, cần quan tâm đẩy mạnh và đổi mới công tác nghiên cứu khoa học của SV, coi nghiên cứu khoa học là
một nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo. Đa số SV của Khoa Tiểu học - Mầm non tham gia nghiên cứu
khoa học đều theo định hướng nghiên cứu ứng dụng. Trong các đề tài khoa học của SV nhiều năm qua, các giải pháp
ứng dụng dạy học tích cực, đổi mới phương pháp dạy học các môn, các lĩnh vực, đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh…
đã được nghiên cứu, thực nghiệm sư phạm, thể hiện tính khả thi nếu được ứng dụng vào thực tiễn. Để đáp ứng được
yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, Khoa cần đặt ra nhiệm vụ cho giảng viên tích cực hơn trong công tác hướng dẫn
nghiên cứu khoa học; phát huy trí tuệ của các giảng viên dày dặn kinh nghiệm nghiên cứu khoa học để định hướng
nghiên cứu mũi nhọn cho SV. Đó là tập trung vào đề xuất các giải pháp xây dựng mô hình dạy học mới, phân hoá, hình
thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh gắn với thực tiễn giáo dục tại các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng
xa, vùng cao biên giới. Những kết quả nghiên cứu theo định hướng ứng dụng này vừa góp phần cung cấp tư liệu để phát
triển giáo dục miền núi vừa là kinh nghiệm SV đúc kết, phục vụ cho quá trình công tác sau này.
- Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho SV:
Trước đây, công tác kiểm tra, đánh giá chủ yếu nhằm mục đích đánh giá kết quả học tập của SV. SV đáp ứng
được các yêu cầu của bài kiểm tra, bài thi, các kỳ thực hành nghiệp vụ sư phạm trong suốt quá trình học là bảo đảm
chất lượng đào tạo. Những năm gần đây, khi yêu cầu chuẩn đầu ra được xây dựng một cách chặt chẽ, hệ thống thì
công tác đánh giá kết quả học tập của SV cũng thay đổi nhằm bảo đảm phù hợp với mức độ của chuẩn đầu ra. Tiêu
chí, hình thức, phương pháp, quy mô của kiểm tra, đánh giá đã hướng đến việc đánh giá được năng lực của SV, tạo
cơ hội để SV phát huy năng lực, sở trường cá nhân trong học tập, thực hành nghề nghiệp.
Trong bối cảnh Nhà trường đang đẩy mạnh thực hiện công tác kiểm định và bảo đảm chất lượng giáo dục như hiện
nay, đổi mới kiểm tra, đánh giá SV để nâng cao chất lượng đào tạo càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Mặt khác,
chính thực tiễn chất lượng công tác tuyển dụng GV mầm non, tiểu học tại địa phương cũng đặt ra vấn đề cần phải tích
cực đổi mới hơn nữa phương pháp kiểm tra, đánh giá SV. Để khi tốt nghiệp, tham gia tuyển dụng, SV phải chủ động,

tự tin, thể hiện tốt các năng lực nghề nghiệp đã được trang bị từ trong nhà trường, đáp ứng được yêu cầu lựa chọn những
GV tốt nhất cho ngành giáo dục. Muốn vậy, lãnh đạo khoa cần chỉ đạo giảng viên thống nhất quan điểm: SV là người
tham gia chủ động vào quy trình kiểm tra, đánh giá. Trong quy trình đó, giảng viên phải đa dạng các tiêu chí kiểm tra,
đánh giá, theo hướng mở sao cho đánh giá đúng được năng lực, sở trường của SV, để SV được chủ động thể hiện kiến
thức, kĩ năng, năng lực sáng tạo của bản thân. Đặc biệt, trong quá trình kiểm tra, đánh giá, cần khuyến khích đối với
những SV có khả năng tạo ra các “sản phẩm học tập” đáp ứng được yêu cầu dạy học sau này như thiết kế đồ dùng dạy
học, thiết kế mô hình tổ chức các hoạt động giáo dục… Đổi mới công tác kiểm tra, đánh giá còn phải đạt được mục tiêu
hỗ trợ SV học tập. Kết quả của việc kiểm tra, đánh giá theo năng lực là căn cứ để giảng viên phân hoá được SV, từ đó
có giải pháp hỗ trợ học tập kịp thời, hiệu quả đối với SV chưa đạt yêu cầu về kiến thức, kĩ năng.
- Quản lí chặt chẽ tiến độ học tập của SV và nắm bắt kế hoạch tuyển dụng GV thường quy nhằm tăng cường tư
vấn học tập và tư vấn đăng kí tuyển dụng cho SV:
Theo Quy chế đào tạo hệ cao đẳng, đại học theo hệ thống tín chỉ của Bộ GD-ĐT hiện nay, SV có thể đăng kí học
vượt tiến độ và tốt nghiệp sớm từ 6 tháng trở lên. Đồng thời, từ năm học 2019-2020, chương trình đào tạo trình độ
đại học tại Trường Đại học Tây Bắc đã áp dụng khung 135 tín chỉ. SV được đào tạo theo khung chương trình này rút
ngắn thời gian đào tạo đại học chỉ khoảng 3,5 năm. Như vậy, việc quản lí chặt chẽ tiến độ học tập của SV giúp Khoa
và Nhà trường tư vấn kịp thời cho SV chủ động chuẩn bị tốt điều kiện để tham gia tuyển dụng GV khi tốt nghiệp,
như: điều kiện về trình độ tin học, trình độ ngoại ngữ đạt chuẩn; về chuẩn chức danh nghề nghiệp GV mầm non, GV
tiểu học; kĩ năng nghề nghiệp phù hợp với xu hướng đổi mới giáo dục; kĩ năng lựa chọn môi trường công tác, vị trí
việc làm phù hợp với năng lực; kĩ năng tham gia phỏng vấn dự tuyển GV.

14


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 11-15

ISSN: 2354-0753

Mặt khác, việc theo dõi và quản lí chặt chẽ tiến độ học tập của SV còn giúp Khoa nắm bắt được chất lượng

học tập của SV. Đối với những SV học lực yếu, bị cảnh báo học tập, Khoa phải kịp thời xây dựng kế hoạch hỗ
trợ học tập, hỗ trợ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, bảo đảm cho SV có trình độ đạt chuẩn khi tốt nghiệp để tham
gia tuyển dụng.
- Tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và cơ quan tham mưu tuyển dụng GV:
Cơ quan chịu trách nhiệm tuyển dụng GV mầm non, tiểu học là Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố thông
qua cơ quan tham mưu là phòng nội vụ. Từ trước đến nay, mối liên hệ giữa cơ sở đào tạo GV và cơ quan tham mưu
tuyển dụng rất mờ nhạt. Các cơ sở đào tạo chủ yếu quan tâm đến việc đào tạo SV đáp ứng chuẩn đầu ra. Khi SV tốt
nghiệp thì mới chỉ quan tâm khảo sát tình hình việc làm của SV. Một khoảng trống cần được quan tâm là công tác
tư vấn, dự báo cho SV về nhu cầu của thị trường lao động để SV chủ động chuẩn bị các điều kiện về trình độ, năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ cũng như sự lựa chọn khu vực, vị trí việc làm phù hợp (trường công lập hay ngoài công
lập; trong ngành hay ngoài ngành giáo dục…). Muốn làm tốt công tác này, Khoa và Nhà trường cần tăng cường mối
quan hệ với các phòng nội vụ huyện, thành phố là cơ quan tham mưu về công tác tuyển dụng GV. Một mặt, nắm bắt
thông tin tuyển dụng, khảo sát thị trường lao động (ở khu vực giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học) để làm tốt công
tác tư vấn cho SV; mặt khác, trên cơ sở khảo sát, trưng cầu ý kiến của cơ quan tuyển dụng về chất lượng ứng viên
để đánh giá đúng thực trạng đào tạo GV mầm non, tiểu học của đơn vị, từ đó đề ra các giải pháp phối hợp thực hiện
tốt công tác đào tạo và sử dụng GV. Trong cơ cấu của Khoa, Ban chủ nhiệm khoa và Ban Tư vấn hướng nghiệp và
việc làm chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện giải pháp này. Trên phương diện công tác hành chính, sự vụ,
Khoa chưa đủ thẩm quyền để thực hiện liên hệ trực tiếp với cơ quan nội vụ. Khi cần thiết, Khoa cần tham vấn với
Nhà trường có sự liên hệ trực tiếp với cơ quan nội vụ để thuận lợi trong công tác.
3. Kết luận
Đối với công tác đào tạo GV, kết quả đầu ra là yếu tố cốt lõi, bảo đảm sự “sống còn” của một mô hình đào tạo.
Để có kết quả đầu ra tốt, quá trình đào tạo GV mầm non, tiểu học cần gắn với việc nghiên cứu, nắm bắt thực tế công
tác tuyển dụng GV để có những giải pháp kịp thời, phù hợp, hiệu quả nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được
yêu cầu, nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực GV chất lượng cao. Đối với Khoa Tiểu học - Mầm non, Trường Đại
học Tây Bắc, đây là một hướng đi tất yếu để phát triển và để góp phần thực hiện được công cuộc đổi mới căn bản,
toàn diện GD-ĐT ở Việt Nam hiện nay.
Tài liệu tham khảo
Bộ GD-ĐT (2015a). Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học (Ban hành kèm theo Thông tư số 21/2015/
TTLT-BGDĐT-BNV ngày 16/9/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Nội vụ).
Bộ GD-ĐT (2015b). Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non (Ban hành kèm theo Thông tư số 20/2015/

TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/9/2015 của Bộ GD-ĐT - Bộ Nội vụ).
Bộ GD-ĐT (2016). Phát triển chương trình đào tạo đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng (Dự án phát triển
giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng ở Việt Nam giai đoạn 2). NXB Đại học Sư phạm.
Bộ GD-ĐT (2018a). Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TTBGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
Bộ GD-ĐT (2018b). Quyết định số 1677/QĐ-TTg ngày 03/12/2018 ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Đề án
“Phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2018-2025.
Bùi Văn Quân (2016). Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên: Thực trạng và quan điểm đổi mới. Kỉ yếu Hội thảo Khoa học
Quốc gia - Đào tạo giáo viên tại các trường đại học đa ngành đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, Trường
Đại học Thủ đô Hà Nội, tr 445-454.
Đoàn Thị Minh Trinh, Nguyễn Hội Nghĩa (2014). Hướng dẫn thiết kế và phát triển chương trình đào tạo đáp ứng
chuẩn đầu ra. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Quang, Hà Trần Phương, Nguyễn Danh Nam (2019). Mô hình đào tạo giáo viên của một số nước trên
thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Giáo dục, số 466, tr 6-11.
Quốc hội (2019). Luật Giáo dục. Luật số 43/2019/QH14 ngày 14/6/2019.
Sở Nội vụ tỉnh Sơn La (2019). Báo cáo số 494/BC-SNV ngày 12/12/2019 về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2019
và phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 ngành Nội vụ.
Trường Đại học Tây Bắc (2019). Báo cáo số 1393/BC-ĐHTB ngày 10/12/2019 tổng kết công tác tuyển sinh đại học,
cao đẳng năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2020.

15



×