Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số định hướng phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong tại các trường đại học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.17 MB, 6 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 - 3/2020), tr 16-21

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG
BÊN TRONG TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hiền - Trường Đại học Thủ Dầu Một
Ngày nhận bài: 31/11/2019; ngày chỉnh sửa: 28/02/2020; ngày duyệt đăng: 01/3/2020.
Abstract: The purpose of this study is to to analyze the internal quality assurance (IQA) system as
well as the need for conducting internal quality assurance at the university. In addition, the research
also aims to analyze and evaluatethe university quality assurance system based on the conception
of some educational organizations in regions around the world, and at the same time, it reviews
some models of internal quality assurance in Vietnamse universities. points out the advantages and
limitations to suggest some solutions for the development of internal quality assurance system for
Vietnamese universities.
Keywords: Quality, university quality assurance, Internal quality assurance system at the
university.
1. Mở đầu
Chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho việc phân tích
chất lượng giáo dục đại học luôn là yếu tố quan trọng có
tác động lớn đến sự phát triển của nhà trường, nhằm đào
tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng, các trường đại học đã
không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng kiểm định,
đánh giá bên trong. Để thực hiện được điều này, xu thế
chung trong những năm gần đây ở các trường đại học đã
chủ động xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong
khá toàn diện. Theo Trần Anh Vũ, từ năm 1990 đến nay,
đảm bảo chất lượng trở thành vấn đề quan trọng trong giáo
dục đại học. Đến năm 2000, thuật ngữ “đảm bảo chất
lượng” trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia và trở
nên phổ biến trong các cơ sở giáo dục đại học tư nhân. Ở


Việt Nam, có thể thống kê rất nhiều bài viết về đảm bảo
chất lượng giáo dục đại học trên các tạp chí, luận án, công
trình nghiên cứu trong khoảng 10 năm trở lại đây [1]. Điều
đó cho thấy, đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ngày
càng trở thành mối quan tâm của các trường đại học trên
thế giới cũng như ở các trường đại học tại Việt Nam.
Ngày 4/11/2013, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết
số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT,
đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế vấn đề đảm bảo chất lượng không chỉ có ý
nghĩa đối với các trường đại học mà còn có ý nghĩa
đối với toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Đặc biệt,
vấn đề đảm bảo chất lượng trong các trường đại học
càng trở nên có ý nghĩa quan trọng trước sự tác động
của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt giữa các trường trong khâu tuyển
sinh đầu vào. Vì vậy, đảm bảo chất lượng, nhất là đảm
bảo chất lượng bên trong là khâu không thể thiếu để
đào tạo được đội ngũ nhân lực có chất lượng phục vụ
quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

16

Theo quan niệm của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hóa Liên Hiệp quốc (UNESCO): “Đảm bảo chất
lượng bên trong là hệ thống cải cách chính sách và cơ chế
để vận hành một trường đại học hoặc một chương trình
giáo dục nhằm đảm bảo rằng nhà trường hoặc chương
trình giáo dục đáp ứng đầy đủ các mục tiêu và chuẩn mực

được áp dụng cho trường đại học hoặc chương trình giáo
dục đó” [2; tr 139].
Quan niệm của mạng lưới các trường đại học Đông
Nam Á cho rằng: “Đảm bảo chất lượng bên trong của các
trường đại học là tổng thể các hệ thống, nguồn lực và
thông tin dành cho việc thiết lập, duy trì và cải thiện chất
lượng và tiêu chuẩn của hoạt động giảng dạy, học tập,
nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Đó là một hệ thống
mà dưới sự tác động của nó, các nhà quản lí và nhân viên
hài lòng với cơ chế kiểm soát đang hoạt động để duy trì
và nâng cao chất lượng giáo dục đại học” [3; tr 45]. Các
quan niệm trên đều chỉ ra những tiêu chí và quy trình
tương đối đa dạng của hệ thông đảm bảo chất lượng bên
trong của trường đại học và hướng vào mục tiêu nâng cao
chất lượng giáo dục đại học.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong một số
trường đại học trên thế giới
Theo Boele, hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong
các trường đại học châu Âu được xây dựng theo các cấp
độ: chất lượng của sản phẩm, quá trình, tổ chức hay chính
chất lượng của hệ thống đảm bảo chất lượng, tức là từ
yếu tố đầu vào tới đầu ra [4].
Tại Ba Lan và châu Âu, đảm bảo chất lượng giáo dục
bên trong các trường đại học thể hiện chính sách và thủ tục
đảm bảo chất lượng, cũng là chiến lược nâng cao liên tục
chất lượng, phê duyệt, giám sát và đánh giá định kì các
chương trình và giải thưởng, đánh giá học sinh theo tiêu
chí được phê duyệt, đảm bảo chất lượng của đội ngũ giảng
Email:



VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 - 3/2020), tr 16-21

viên, tài nguyên học tập và hỗ trợ sinh viên, hệ thống thông
tin để thu thập, phân tích và sử dụng thông tin liên quan để
quản lí hiệu quả các chương trình nghiên cứu, cung cấp
thông tin công khai về các chương trình nghiên cứu [5].
Rõ ràng, mô hình này cũng đi theo cách truyền thống từ
khâu tuyển chọn đầu vào cho đến đầu ra, nhưng các nội
dung chương trình, học thuật được công khai rộng rãi.
Gần đây, UNESCO (2017) đã giới thiệu mô hình
đảm bảo chất lượng bên trong các trường đại học ở 8
nước trải rộng ở nhiều châu lục gồm: Trung Quốc, Áo,
Kenya, Đức, Bahrain, Bangladesh, Nam Phi và Chile
thông qua các nghiên cứu cụ thể, trong đó chỉ ra thế mạnh
của hệ thống giáo dục đại học mỗi nước. Chẳng hạn ở
Bangladesh: Đại học Quốc tế Hoa Kì, ảnh hưởng của
đảm bảo chất lượng bên trong đến chất lượng và việc
làm; Đức: Đại học Duisburg-Essen, từ các công cụ đến
một hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong; Chile: Đại
học Talca, đảm bảo chất lượng bên trong với công tác
quản lí; Trung Quốc: Đại học Hạ Môn, tăng cường dạy
và học thông qua đảm bảo chất lượng bên trong; Áo: Đại
học Kinh tế và Kinh doanh Vienna, phát triển văn hóa
chất lượng thông qua đảm bảo chất lượng bên trong,...
Các mô hình đảm bảo chất lượng khác nhau khá rõ rệt,
song đều nhấn mạnh vào chất lượng đầu ra qua đánh giá

việc làm sau đào tạo và nhấn mạnh vào hệ thống quản lí
diễn ra ngay trong quá trình đào tạo [6].
Martin (2018) - một chuyên gia của
UNESCO và là lãnh đạo dự án nghiên
cứu kế hoạch giáo dục quốc tế về đảm
bảo chất lượng bên trong - cùng với
Viện Kế hoạch Giáo dục Quốc tế (IIEP)
của UNESCO tổ chức một dự án liên
quan đến việc khám phá thực tiễn đổi
mới và các nguyên tắc tốt cho đảm bảo
chất lượng bên trong đã chứng minh tác
dụng của việc đảm bảo chất lượng bên
trong, bên ngoài và điều kiện hoạt động
hiệu quả của các trường đại học để cung
cấp hướng dẫn cho các tổ chức giáo dục
đại học khác trong việc phát triển hệ
thống đảm bảo chất lượng bên trong
của 400 trường đại học. Kết quả cho thấy, động lực
lớn nhất đối với hệ thống đảm bảo chất lượng bên
trong là đáp ứng các yêu cầu của hệ thống đảm bảo
chất lượng bên ngoài, song cũng như các trường đại
học họ đều tập trung vào việc dạy và học. Nghiên cứu
cũng chỉ ra lỗ hổng trong việc phát triển hệ thống đảm
bảo chất lượng bên trong, như việc giám sát các hệ
thống đánh giá sinh viên, môi trường vật lí và mối
quan tâm với việc làm của sinh viên tốt nghiệp chưa
được quan tâm thỏa đáng [7].

Bên cạnh các nghiên cứu trên, đảm bảo chất lượng
bên trong theo mang lưới Hệ thống các trường đại học

Đông Nam Á (The ASEAN University Network - AUN)
gồm 3 cấp, từ cấp cơ sở giáo dục (QA at Institutional),
đảm bảo chất lượng bên trong (Internal QA system) đến
cấp độ chương trình đào tạo (QA at Programme Level),
gồm cả đảm bảo chất lượng bên trong và đảm bảo chất
lượng bên ngoài (xem mô hình 1).

Mô hình 1. Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong
của AUN
Nguồn: Dẫn theo Trần Anh Vũ, 2015 [8; tr 28-30]
Với việc đảm bảo chất lượng bên trong ở cấp cơ sở
giáo dục, AUN đưa ra mô hình (xem mô hình 2):

Qua mô hình của AUN, đảm bảo chất lượng ở cấp trường
bắt đầu từ các bên có liên quan phụ thuộc vào tầm nhìn, sứ
mệnh, mục tiêu và mục đích cuối cùng là thành tựu đạt được.
Có thể khẳng định, mô hình đảm bảo chất lượng ở nhiều trường
đại học trên thế giới hiện đi theo hướng khá toàn diện, đồng thời
chú trọng vào sự tham gia của các bên có liên quan, song trọng
tâm đi theo mô hình chú trọng vào cấp chương trình đào tạo với
việc liên tục cập nhật tri thức mới trong đào tạo, gắn kết chặt
chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, học viên và giảng
viên, đồng thời tham gia vào quá trình nghiên cứu khoa học,
chứng minh cho chính phủ và xã hội thấy trường đại học là nơi

17


VJE


Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 - 3/2020), tr 16-21

cung cấp dịch vụ giáo dục có chất lượng tốt. Chất lượng giáo
dục xứng đáng nhận kinh phí đảm bảo từ chính phủ và sự đóng
góp kinh phí của người học cũng hoàn toàn xứng đáng, các cơ
sở tuyển dụng là những người hưởng lợi và các cơ sở hoàn toàn
có thể tham gia vào việc tài trợ cho nhà trường.
Mô hình giáo dục chú trọng vào mô hình cấp chương
trình đào tạo thể hiện rõ điểm mạnh vào tính mới của tri
thức, thương hiệu của nhà trường còn được gắn với những
công bố. Đồng thời, hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong,
thông tin quản lí, nâng cao chất lượng, kết quả dịch vụ, kết
quả tài chính và thị trường được công khai, khẳng định được
vị thế của giáo dục đại học, là cơ sở nghiên cứu và đào tạo,
các trường có thể nhận được sự tài trợ rất lớn của xã hội.
Tuy có những ưu điểm như vậy, nhưng vẫn bộc lộ hạn chế
là khi học phí quá cao, người học khó có thể tiếp cận, tính
dân chủ trong trường học có thể không được đánh giá cao.
2.2. Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong một số
trường đại học ở Việt Nam
Mô hình đảm bảo chất lượng bên trong các trường đại
học ở Việt Nam được quan tâm trên nhiều bình diện, được
xây dựng trên cơ sơ học tập kinh nghiệm của nhiều nước
trên thế giới, trong đó có các nước có nền giáo dục đại học
hàng đầu thế giới như: Mạng lưới các tổ chức đảm bảo chất
lượng giáo dục đại học (INQAAHE), Hiệp hội đảm bảo
chất lượng giáo dục đại học châu Âu (ENQA), Mạng lưới
chất lượng châu Á Thái Bình Dương (APQN), Hệ thống
đảm bảo chất lượng của mạng lưới các trường đại học Đông
Nam Á (AUN-QA) [8; tr 28-30]. Mô hình đảm bảo chất

lượng của các trường đại học hiện dựa trên Chỉ thị số
46/2008/CT-BGDĐT về việc tăng cường công tác đánh giá
và kiểm định chất lượng giáo dục của Bộ GD-ĐT (2008)
với 9 nội dung, đồng thời đảm bảo chất lượng giáo dục bên

trong thể hiện khá rõ tính đặc thù như các nội dung về tổ
chức Đảng, và đoàn thể, quyền dân chủ trong trường học,
việc rèn luyện tư tưởng, đạo đức cho người học [9]. Như
vậy, việc đảm bảo chất lượng bên trong các trường đại học
vẫn theo những tiêu chuẩn mà Bộ GD-ĐT đã đưa ra, có thể
thấy rõ điều này qua mô hình 3.
Tuy nhiên, mô hình đảm bảo chất lượng của từng
trường đại học hiện có những biến thể mới, vừa có sự chỉ
đạo của Bộ GD-ĐT, đồng thời có sự tiếp thu, kế thừa một
số mô hình của các tổ chức, các trường đại học trên thế
giới. Trường Đại học Cần Thơ có ứng dụng mô hình
Deming (PDCA), mô hình đảm bảo chất lượng của AUN
để đảm bảo chất lượng, quản lí chất lượng và kiểm định
chất lượng (xem mô hình 4, trang bên).
Mô hình này chưa cho cho thấy có sự hợp tác quốc tế
trong đảm bảo chất lượng theo như quan điểm của Bộ
GD-ĐT, chưa chỉ ra sự hợp tác với Mạng lưới chất lượng
Châu Á - Thái Bình Dương (APQN), Mạng lưới quốc tế
các tổ chức đảm bảo chất lượng giáo dục đại học
(INQAAHE), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), Hiệp hội quốc tế về đánh giá và các thành tựu
giáo dục (IEA). Cách triển khai thực hiện đảm bảo chất
lượng vừa có yếu tố chung của Bộ GD-ĐT, vừa có yếu
tố riêng, chưa thể hiện rõ một tiêu chuẩn nào cụ thể.
Mô hình đảm bảo chất lượng của Trường Đại học

Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng cho thấy cách tiếp cận theo
hướng đầu vào và đầu ra. Điều này khá tương đồng với
mô hình đảm bảo chất lượng của các trường đại học tiên
tiến trên thế giới, đặc biệt là mô hình đảm bảo chất lượng
do AUN đưa ra, song có thể thấy mô hình này không quá
nhấn mạnh vào cấp chương trình đào tạo, nên điều mà
lâu nay chúng ta cần đến chương trình giáo dục tiên tiến

Hệ thống ĐBCL bên trong trường đại học Việt Nam

- Công khai
các thông tin
về giảng dạy,
chương trình
và kết quả
đào tạo

18


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 - 3/2020), tr 16-21

không thể hiện rõ, trong khi đó với nhiều trường đại học
tiên tiến trên thế giới thì đây lại là điểm nổi trội dễ nhận
thấy (xem mô hình 5). Cho nên, khó tìm thấy “điểm
nhấn” đảm bảo chất lượng bên trong để khi nói đến đảm

bảo chất lượng bên trong của trường mọi người sẽ nhận

biết được đặc sắc là gì không thể hiện rõ.
Tóm lại, hệ thống đảm bảo chất lượng của một số
trường đại học được đề cập hiện vẫn tuân theo khá chặt

Mô hình 5. Hệ thống ĐBCL của Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
Nguồn: Dẫn theo Phan Thị Yến (2017) [10; tr 23]

19


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 - 3/2020), tr 16-21

chẽ tiêu chuẩn kiểm định của Bộ GD-ĐT, đồng thời có sự
kế thừa, kết hợp với hệ thống đảm bảo chất lượng của một
số tổ chức, một số trường đại học trên thế giới, song vẫn
thể hiện khá rõ tính đặc thù của Việt Nam theo xu hướng
chung, có thể khái quát thành: 1) Giá trị cốt lõi, với sứ
mệnh; 2) Tổ chức và nhân sự đảm bảo chất lượng bên
trong; 3) Thể chế và quy định; 4) Thông tin đảm bảo chất
lượng; 5) Văn hóa đảm bảo chất lượng. Hệ thống đảm bảo
chất lượng nội bộ này cho thấy còn những hạn chế, chủ
yếu trong phạm vi nội bộ của trường đại học, chưa có sự
kết nối, liên thông trong kiểm định, điều này, chưa tương
xứng với vị thế của các trường đại học trước yêu cầu CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, chưa có sự kết nối với các tổ
chức giáo dục và trường đại học lớn trên thế giới.
2.3. Một số định hướng phát triển hệ thống đảm bảo
chất lượng bên trong các trường đại học

Hiện nay, trong các trường đại học đều có trung tâm
hoặc phòng khảo thí và đảm bảo chất lượng. Song, cách
kiểm định chưa đồng bộ hoặc chưa theo kịp với yêu cầu
của thực tiễn, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa
thực sự đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, chưa đáp
ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH và
hội nhập quốc tế. Để có cơ sở xác định năng lực và phẩm
chất người học chắc chắn rất cần đến các hoạt động kiểm
định, đánh giá chất lượng bên trong. Đó cũng là một
trong rất nhiều lí do làm cho các trường đại học của Việt
Nam ý thức được việc đảm bảo chất lượng bên trong là
nhiệm vụ quan trọng mà bản thân mỗi trường luôn phải
chủ động nâng cao hiệu quả đảm bảo chất lượng bên
trong trước khi có các hoạt động đánh giá bên ngoài.
2.3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách đảm bảo
chất lượng bên trong mạnh về chất lượng
Đội ngũ cán bộ chuyên trách về đảm bảo chất lượng
của các trường đại học về cơ bản có thể đáp ứng được
những yêu cầu về kiểm định trong phạm vi kiểm định
của một trường đại học, nhưng trong bối cảnh hội nhập
quốc tế về giáo dục ngày càng sâu rộng. Hiện một số
trường đã thiết lập quan hệ hợp tác, liên kết đào tạo, kiểm
định với các trường đại học tiên tiến trên thế giới, cần
thường xuyên và có sự phối hợp chặt chẽ, và tăng cường
các hội thảo chuyên môn, giới thiệu cán bộ khảo thí đến
học tập, nghiên cứu, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm
định am hiểu về công tác kiểm định, có khả năng sử dụng
được các phần mềm tiên tiến vào công tác kiểm định,
đánh giá chất lượng bên trong và phối hợp kiểm định
đánh giá bên ngoài. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập

quốc tế, các trường đại học không ngừng xây dựng đội
ngũ cán bộ chuyên trách về đảm bảo chất lượng bên trong
có khả năng làm việc độc lập với các chuyên gia, các nhà
khoa học quốc tế, đội ngũ ngày có thể tiếp nhận chuyển
giao công nghệ từ các chuyên gia nước ngoài.

20

2.3.2. Thực hiện các hoạt động đảm bảo chất lượng theo
định hướng chuẩn mực của các nước có nền giáo dục đại
học tiên tiến
Từng bước xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng
theo những tiêu chuẩn quốc tế đa dạng, nhiều chiều. Hiện
công tác đảm bảo chất lượng bên trong chủ yếu theo các
quy định của Bộ GD-ĐT, theo quy định của Mạng lưới
các trường đại học Đông Nam Á. Trong tương lai gần,
cần vươn tới những tiêu chuẩn kiểm định chất lượng ở
các nước có nền giáo dục tiên tiến, có như vậy các trường
đại học mới có thể vươn tầm ảnh hưởng ra phạm vi khu
vực và thế giới.
Hơn nữa, các trường đại học có thể có nghiên cứu
trường hợp như một số trường đại học trên thế giới đã
làm, để tìm ra điểm cốt lõi trong công tác đảm bảo chất
lượng như các trường đại học Bahrain chú trọng vào
phân cấp ra quyết định đảm bảo chất lượng bên trong,
các trường đại học của Nam Phi tích hợp đảm bảo chất
lượng bên trong với các quy trình cốt lõi học thuật để kết
quả được tạo ra từ hệ thống đảm bảo chất lượng có thể
trực tiếp đưa vào kế hoạch học tập, Đại học Talca ở Chile
đã tích hợp đảm bảo chất lượng bên trong với quản trị

chiến lược.
2.3.3. Xây dựng chuẩn chất lượng đào tạo và đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học
Chất lượng đào tạo gắn liền với toàn bộ quy trình đào
tạo, từ việc xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, đội ngũ cán
bộ quản lí, đội ngũ giảng viên, quản lí hoạt động đào tạo,
chuẩn đầu ra,..., điều này có ý nghĩa quan trọng đến chất
lượng đầu ra của sinh viên. Đây là việc làm đòi hỏi mất
nhiều thời gian và công sức nhưng có ý nghĩa quyết định
đến sứ mệnh và tầm nhìn của nhà trường.
Thường xuyên rà soát, đánh giá lại nội dung chương
trình đào tạo, cập nhật chương trình giáo dục mới và có
thể phối hợp đào tạo với các nước có nền giáo dục đại
học tiên tiến để hợp tác giảng dạy, trao đổi học thuật và
đi liền với đó là tăng cường công tác kiểm định đảm bảo
chất lượng bên trong, kết hợp với đánh giá bên ngoài.
Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và có
những công bố trên các tạp chí có uy tín trên thế giới.
Chất lượng kiểm định của một trường đại học không thể
thiếu các công bố, do vậy, cùng với hoạt động giảng dạy,
nhà trường cần đầu tư mạnh mẽ cho hoạt động nghiên
cứu khoa học, qua đó giảng viên có sự gắn kết giữa
nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
3. Kết luận
Hệ thống đảm bảo chất lượng trong các trường đại học
hiện được quan tâm tương đối toàn diện, mặc dù đều dựa
trên sự chỉ đạo chung của Bộ GD-ĐT, song cách tổ chức
triển khai còn có nhiều điểm khác biệt, hoạt động các trung



VJE

Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 - 3/2020), tr 16-21

tâm, phòng khảo thí còn những hạn chế trong kiểm định,
đánh giá, phân tích chất lượng giáo dục. Do vậy, các trung
tâm, các phòng này cần được đầu tư mạnh mẽ hơn nữa,
đặc biệt là sự quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phát triển và mở rộng hợp tác quan hệ với các các bộ
phận kiểm định ở các trường đại học uy tín trên thế giới,
nhằm đánh giá chất lượng bên trong ngày càng hiệu quả,
góp phần nâng cao vị thế, uy tín các trường đại học của
Việt Nam đạt tầm khu vực và ngày càng khẳng định vị thế
lớn mạnh trên thế giới về chất lượng giáo dục.
Tài liệu tham khảo
[1] Trần Anh Vũ (2017). Đánh giá hoạt động đảm bảo
chất lượng bên trong ở một số trường đại học công
lập Việt Nam dựa theo tiêu chí đánh giá chất lượng
của AUN-QA. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2] Nguyễn Tiến Dũng - Nguyễn Thanh Trọng - Nguyễn
Minh Trí (2015). Phát triển và vận hành hệ thống
đảm bảo chất lượng bên trong trường đại học - Thực
tiễn tại trường Đại học Kinh tế - Luật. Kỉ yếu hội
thảo Chất lượng đào tạo của trường Đại học Kinh tếLuật 15 năm xây dựng và phát triển (tr 134-139).
Thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Hồ Tấn Sinh (2014). Hoàn thiện hệ thống đảm bảo
chất lượng bên trong Trường Đại học Ngoại ngữTin học Thành phố Hồ Chí Minh (HUFLIT). Kỉ yếu
hội thảo Đảm bảo chất lượng Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh,
(tr 45). Thành phố Hồ Chí Minh.

[4] Boele, E.B (2007). Handbook internal quality
assurance in higher education. Retrieved from
/>AEC%20Internal%20Quality%20Assu~.pdf
[5] Agnieszka Piasecka (2014). “Elements of Internal
Quality Assurance at Polish Universities,” Human
Capital without Borders: Knowledge and Learning for
Quality of Life. Proceedings of the Management,
Knowledge and Learning International Conference 2014.
[6] UNESCO (2017). Internal quality assurance: eight
universities share their experiences. Retrieved from
/>[7] Michaela Martin (2018). How internal quality
assurance can drive success. Retrieved , from
ttps://www.universityworldnews.com/post.php?sto
ry=20180417115058216
[8] Trần Anh Vũ (2015). Đảm bảo chất lượng bên trong
các trường đại học Việt Nam nhìn từ các nghiên cứu
trong và ngoài nước. Tạp chí Giáo dục, số 351,
tr 28-30.

21

[9] Bộ GD-ĐT (2008). Chỉ thị số 46/2008/CT-BGDĐT
ngày 05/8/2008 về việc Tăng cường công tác đánh
giá và kiểm định chất lượng giáo dục.
[10] Phan Thị Yến (2017). Mô hình đảm bảo chất lượng
cơ sở giáo dục AUN và mối quan hệ với mô hình
đảm bảo chất lượng trong các cơ sở giáo dục đại
học Việt Nam. Tạp chí Giáo dục, số 400, tr 20-24.
THỰC TRẠNG DẠY HỌC TOÁN
THEO ĐỊNH HƯỚNG...

(Tiếp theo trang 38)
Từ quá trình quan sát HS làm bài, chúng tôi nhận thấy,
mặc dù các em rất hào hứng và tích cực tham gia vào quá
trình giải quyết tình huống đưa ra, nhưng đa số còn gặp
khó khăn trong việc huy động kiến thức hình học để giải
quyết các tình huống. Việc vận dụng kiến thức hình học
đã được học vào giải quyết các tình huống thực tiễn còn
hạn chế, HS chưa nắm được hệ thống kiến thức môn Toán.
Từ những khó khăn của GV và HS trong quá trình tổ chức
dạy học môn Toán theo định hướng DHTH ở các lớp cuối
cấp THCS trên địa bàn TP. Hải Phòng sẽ là cơ sở cho
chúng tôi đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
Toán theo định hướng DHTH nói chung và ở các lớp cuối
cấp THCS trên địa bàn TP. Hải Phòng nói riêng.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ
thông - Chương trình tổng thể (Ban hành kèm theo
Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018
của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT).
[2] Đỗ Đức Thái (2019). Tài liệu tập huấn hướng dẫn
thực hiện chương trình môn Toán trong chương
trình giáo dục phổ thông 2018. Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội.
[3] Đào Tam - Phạm Văn Hiệu (2018). Dạy học Hình
học ở các lớp cuối cấp trung học cơ sở theo định
hướng tăng cường khai thác các mối quan hệ trong
nội bộ môn Toán với các môn học khác và thực tiễn.
Tạp chí Giáo dục, số 434, tr 54-58.
[4] Hà Xuân Thành (2017). Dạy học Toán ở trường trung
học phổ thông theo hướng phát triển năng lực giải

quyết vấn đề thực tiễn thông qua việc khai thác và sử
dụng các tình huống thực tiễn. Luận án Tiến sĩ Khoa
học giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[5] Nguyễn Bá Kim - Vũ Dương Thụy (1992). Phương
pháp dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm.
[6] Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2014). Lí luận
dạy học hiện đại. NXB Đại học Sư phạm.
[7] Petrovxki. A.V (1982). Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí
học sư phạm. NXB Giáo dục.



×