Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Rèn kĩ năng đọc hiểu thơ trong dạy học Tập đọc cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 6 trang )

VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 96-101

ISSN: 2354-0753

RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU THƠ TRONG DẠY HỌC TẬP ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGỌC CHIẾN,
HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA
Trần Thị Thanh Hồng1,+,
Lò Văn Hặc2
Article History
Received: 09/3/2020
Accepted: 12/4/2020
Published: 30/4/2020
Keywords
practicing poetry
comprehension skills, fifthgrade pupils

Trường Đại học Tây Bắc;
Trường Tiểu học Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh Sơn La
+
Tác giả liên hệ ● Email:
1
2

ABSTRACT
When learning reading comprehension at primary school, pupils learn many
different types of materials, each with its own characteristics. In those genres,
poetry is a special kind of literary materials. By reseaching the current reality
of teaching the poetry comprehension worksheets for fifth-grade students, the


article proposes a number of solutions to train the poetry comprehension skills
in teaching reading comprehension for fifth-grade pupils in Ngoc Chien
primary school, Muong La district, Son La province to meet the desire to
improve pupils’ poetry comprehension worksheets capability. Research
results show that poetry is a genre of literary materials that pupils can absorb
hardly, sometimes becoming abstract, very strange to pupils, especially ethnic
minority pupils.

1. Mở đầu
Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5, thơ chiếm số lượng đáng kể trong phân môn Tập đọc. Đó là những bài thơ
thuộc các thể thơ: thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 6 chữ, thơ 7 chữ, thơ lục bát, thơ tự do phù hợp với nhận thức của học
sinh (HS), là những sáng tác của các nhà thơ lớn như: Trần Đăng Khoa, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Quang Huy,
Định Hải, Phạm Đình Ân,… Những bài thơ được tuyển chọn để giảng dạy trong phân môn Tập đọc là những bài
thơ hay, có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật. Mỗi bài thơ là tiếng nói cao đẹp về tình yêu quê hương đất nước,
tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên mà tất cả HS đều được học, giúp các em mở rộng tâm hồn, nâng cao nhận
thức và bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ. Tuy nhiên, thơ có đặc điểm rất khác biệt với văn bản (VB) văn xuôi: nếu
như văn xuôi có nội dung tường minh thì thơ là tiếng nói của tình cảm, không có kết cấu tường minh, chủ yếu
diễn đạt cảm xúc của nhà thơ. Đặc điểm này cho thấy, khi hướng dẫn HS đọc hiểu VB thơ không giống với đọc
hiểu VB văn xuôi. Mặt khác, đặc điểm ngôn ngữ thơ vừa có tính chất cường điệu, vừa có tính chất cách điệu, vừa
cô đọng, hàm súc, gợi cảm, giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu…, có thể biểu hiện được tâm trạng và các sắc thái
tình cảm tư tưởng một cách tinh vi. Vì vậy, khi tiếp cận với VB thơ, HS gặp nhiều khó khăn về “hàng rào ngôn
ngữ”, khó khăn về khoảng cách thẩm mĩ, đó là cách nói, cách diễn đạt nhiều khi rất xa lạ, trừu tượng, khó hiểu
với HS, nhất là HS dân tộc thiểu số như ở miền núi Sơn La khi mà vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Bởi
vậy, rèn kĩ năng đọc hiểu thơ, tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, góp phần phát triển năng lực văn học cho HS
tiểu học là vấn đề cần được quan tâm hiện nay.
Từ cách tiếp cận trên, bài viết nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu thơ trong
dạy học (DH) tập đọc cho HS lớp 5, Trường Tiểu học Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh Sơn La trên các phương
diện: giáo viên (GV) cần hiểu biết sâu sắc về nội dung, nghệ thuật bài thơ; bồi dưỡng kiến thức về tiếng Việt, văn
học và vốn sống cho HS; Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm VB thơ trong giờ Tập đọc; sử dụng và thiết kế hệ thống
câu hỏi và bài tập đọc hiểu.

2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Thực trạng dạy học đọc hiểu thơ qua phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 5, Trường Tiểu học Ngọc Chiến
Để tìm hiểu thực trạng rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ trong DH phân môn Tập đọc cho HS lớp 5, Trường Tiểu học
Ngọc Chiến, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu: dự giờ để quan sát hoạt động dạy và học của GV, HS,
sử dụng phiếu hỏi đối với GV và phiếu bài tập đối với HS về các vấn đề nghiên cứu. Mẫu nghiên cứu gồm 9 GV
trực tiếp giảng dạy khối lớp 5, 90 HS thuộc 3 lớp 5A8 (lớp có 30 HS); 5A9 (lớp có 30 HS) và 5A10 (lớp có 30 HS)
của trường. Nội dung khảo sát đối với GV tập trung vào 3 vấn đề chính: nhận thức về DH đọc hiểu thơ, các phương
thức và biện pháp thường sử dụng để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ cho HS, những khó khăn khi dạy đọc hiểu VB

96


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 96-101

ISSN: 2354-0753

thơ; đối với HS tập trung vào 2 lĩnh vực: hứng thú thực hành các bài tập rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ, năng lực đọc
hiểu VB thơ. Kết quả khảo sát như sau:
2.1.1. Từ phía giáo viên
Kết quả khảo sát cho thấy, hầu hết GV được hỏi đều nhận thức đúng đắn về bản chất của DH đọc hiểu và tầm quan
trọng của rèn kĩ năng đọc hiểu cho HS, 100% GV đồng ý với ý kiến cho rằng: đọc hiểu VB nghệ thuật là đọc và nắm
bắt thông tin, là quá trình nhận thức để có khả năng hiểu được ý nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật và nắm bắt nội dung
thông tin của VB; 100% GV lựa chọn ý kiến cho rằng: rèn luyện để nâng cao năng lực đọc hiểu VB là một nhiệm vụ
rất cần thiết đối với HS tiểu học; 100% GV thống nhất với ý kiến cho rằng: rèn luyện năng lực đọc hiểu VB không
những giúp HS cảm nhận được các giá trị nhân văn, thẩm mĩ của VB, góp phần bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, mà còn
giúp các em học môn Tiếng Việt hiệu quả hơn. Tuy nhiên, vẫn còn 10% GV cho rằng, đối với HS lớp 5, dạy đọc chỉ
cần rèn cho HS biết đọc đúng, lưu loát, trôi chảy mà xem nhẹ vai trò của DH đọc hiểu VB trong giờ DH tập đọc.
Khi dự giờ, thăm lớp, quan sát 03 tiết dạy tập đọc VB thơ khối lớp 5: - Lớp 5A8 (bài Đất nước; GV: Lù Thị

Oanh); - Lớp 5A9 (bài Hạt gạo làng ta; GV: Lò Văn Ban); - Lớp 5A10 (bài Bầm ơi; GV: Lò Văn Chuyển), chúng
tôi nhận thấy, các tiết tập đọc được dạy trong khoảng thời gian 35-40 phút, theo một quy trình nhất định. Trong các
giờ dạy, GV chú ý nhiều đến việc dạy đọc thành tiếng cho HS mà ít quan tâm đến nội dung đọc hiểu. Phần giải nghĩa
từ, GV thường dừng ở mức cho HS phát hiện các từ mới, các từ xa lạ và yêu cầu các em đọc phần chú giải trong
SGK, ít giải thích mở rộng, các từ mang tính hình tượng, giàu tính biểu cảm chưa được quan tâm đúng mức. Việc
tìm hiểu bài chủ yếu cũng chỉ dừng lại ở việc trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa (SGK), ít thiết kế thêm những
câu hỏi, bài tập vận dụng sáng tạo kiến thức bên ngoài cuộc sống của HS, hoặc chưa chú ý đến việc liên kết các câu
hỏi lại để làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài thơ.
Kết quả khảo sát trên cho thấy, vấn đề rèn kĩ năng đọc hiểu VB nói chung và VB thơ nói riêng bị hạn chế, HS ít
có cơ hội để bộc lộ cảm xúc thẩm mĩ của mình, giờ học vì thế trở nên đơn điệu, chưa khơi gợi hứng thú và trí tưởng
tượng của HS… Thực tế đó cho thấy, GV ít đầu tư vào việc thiết kế bài tập rèn kĩ năng đọc hiểu, các phương thức
DH chưa tạo điều kiện giúp HS nhận biết, hiểu nội dung và phương thức biểu đạt của VB (từ, câu, đoạn, cấu trúc,
các thông điệp chính và các chi tiết, hình ảnh thẩm mĩ quan trọng) một cách sâu sắc. Điều này đã gây tâm lí ỉ lại,
chán học đặc biệt là cảm giác khó hiểu khi tiếp nhận VB, đặc biệt là VB thơ của HS dân tộc thiểu số. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng HS còn thụ động, chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá
nội dung ý nghĩa của VB trước khi học bài tập đọc.
Tìm hiểu về những khó khăn đối với việc rèn kĩ năng đọc hiểu thơ cho HS, đa số GV cho rằng nguyên nhân xuất
phát từ thực tế đặc điểm của HS lớp 5, Trường Tiểu học Ngọc Chiến, huyện Mường La, đó là 100% HS người dân
tộc thiểu số, học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai. Vì vậy, các em gặp khó khăn trong việc đọc hiểu, nhất là đọc
hiểu VB thơ. Nhiều HS đọc còn chậm, hoặc đọc chưa chính xác, ngắt nghỉ hơi chưa đúng do đọc nhưng không hiểu
điều mình đọc,... nên GV phải dành nhiều thời gian cho việc luyện đọc. Nhiều GV còn cho rằng, nguyên nhân xuất
phát từ đặc điểm của thơ là “ngôn ngữ thơ rất trừu tượng nên HS khó nắm bắt”, dạy thơ “chỉ cần dạy các em biết đọc
lưu loát là tốt rồi”. Bên cạnh đó, không ít GV cho rằng, vì tâm lí lo lắng về thời gian, nên GV chưa đầu tư để hướng
dẫn HS phân tích sâu sắc các chi tiết, hình ảnh, thủ pháp nghệ thuật… của bài thơ. Đây cũng là nguyên nhân khiến
HS chán nản, ngại đọc, không hứng thú với môn học, dẫn đến kết quả đọc hiểu chưa cao.
2.1.2. Về phía học sinh
Kết quả khảo sát về hứng thú thực hành các bài tập rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ trong giờ học tập đọc cho thấy:
ở mức độ rất thích có 20 HS, chiếm 22,22%; ở mức độ thích có 32 HS, chiếm 35,56%; ở mức độ bình thường có 25
HS, chiếm 27,78%; ở mức độ không thích có 13 HS, chiếm 14,44%;
Kết quả khảo sát thực trạng đọc hiểu 3 VB thơ: Đất nước, Hạt gạo làng ta, Ca dao về lao động, sản xuất của HS

qua phiếu bài tập cho thấy:
- Về năng lực giải nghĩa từ khó ở 3 VB thu được kết quả như sau: ở mức độ hoàn thành Tốt (T) có 15 HS, chiếm
16,67%; ở mức độ hoàn thành (H) có 35 HS, chiếm 38,89%; ở mức độ chưa hoàn thành (C) có 40 HS, chiếm 44,44%;
- Tổng hợp năng lực đọc hiểu 3 VB cho thấy, còn nhiều HS chưa giải quyết được yêu cầu của bài tập. Cụ thể: có
19 HS đạt mức độ T, chiếm 21,11%; có 38 HS đạt mức độ H, chiếm 42,22%; có 33 HS ở mức độ C, chiếm 36,67%.
Thực tế trên cho thấy, để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ trong giờ DH tập đọc cho HS thì trước hết, GV cần nhận
biết đúng, chính xác về thể loại VB; cần đọc kĩ để cảm nhận được những đặc sắc, nổi bật của VB (từ ngữ, hình ảnh,
nhịp điệu, chi tiết hình ảnh đặc sắc, các biện pháp tu từ…); hiểu được ý nghĩa hàm ẩn và đánh giá được nội dung, ý
nghĩa của VB bằng kiến thức, kinh nghiệm của cá nhân, để từ đó nghiên cứu và đề xuất các biện pháp khắc phục

97


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 96-101

ISSN: 2354-0753

những khó khăn và hạn chế nói trên nhằm nâng cao năng lực đọc hiểu VB thơ trong giờ học Tập đọc cho HS, nhất
là HS dân tộc thiểu số có những đặc thù về tâm lí, ngôn ngữ, vốn văn hóa văn học, vốn sống.
2.2. Đề xuất một số định hướng rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản thơ trong giờ dạy học tập đọc cho học sinh
2.2.1. Giáo viên cần hiểu biết sâu sắc về nội dung, nghệ thuật bài thơ
Để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ trong giờ DH Tập đọc cho HS, trước hết, GV cần có sự hiểu biết sâu sắc về nội
dung, nghệ thuật bài thơ. Đó là sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc những thông tin cơ bản về VB, bao gồm: - Yếu tố
ngoài VB, bao gồm: tác giả, thời đại, hoàn cảnh sáng tác; - Yếu tố bên trong VB bao gồm: nội dung tư tưởng, ý đồ
nghệ thuật... Các yếu tố đó sẽ khơi gợi cho GV nắm bắt nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ một cách
chính xác, rõ ràng hơn, giúp họ có cái nhìn cập nhật, hiện đại về “đời sống văn học”. Từ đó, GV có cách đánh giá
VB từ nhiều góc độ trên tinh thần khách quan và khoa học.
Mặt khác những hiểu biết về đặc điểm thơ khác biệt với VB văn xuôi là yếu tố quan trọng giúp GV lựa chọn biện

pháp hướng dẫn HS đọc hiểu VB thơ hiệu quả hơn. Chẳng hạn, cách phản ánh đời sống, hình thức, thể loại giúp GV
hiểu được văn xuôi có nội dung tường minh, thơ là tiếng nói của tình cảm, không có kết cấu tường minh; đặc điểm
ngôn ngữ thơ vừa có tính chất cường điệu, vừa có tính chất cách điệu, vừa cô đọng, hàm súc, gợi cảm, giàu hình ảnh
và giàu nhạc điệu… có thể biểu hiện được tâm trạng và các sắc thái tình cảm tư tưởng một cách tinh vi. Đặc điểm
này cho thấy, hướng dẫn HS đọc hiểu VB thơ không giống với đọc hiểu VB văn xuôi. Nếu hướng dẫn HS đọc hiểu
văn xuôi phải quan tâm đến hoàn cảnh, sự kiện, nhân vật... để hiểu vấn đề tác giả muốn gửi gắm cũng như ý nghĩa
sâu xa của nó thì hướng dẫn HS đọc hiểu thơ phải giúp HS hiểu được tâm trạng cảm xúc của nhân vật trữ tình, hoàn
cảnh nảy sinh cảm xúc cùng vẻ đẹp của ngôn từ, hình ảnh, âm thanh, nhạc điệu, vần nhịp... Đó là những yếu tố mà
GV cần giúp HS đọc hiểu ở VB thơ. Sự hiểu biết này là cơ sở để GV đưa ra những định hướng cho HS đọc hiểu giá
trị nội dung và nghệ thuật của VB một cách chính xác, rõ ràng hơn; đồng thời cũng là cơ sở để GV mở rộng hiểu biết
và nâng cao nhận thức cho HS khi hướng dẫn các em tìm hiểu bài thơ.
Như vậy, yêu cầu đặt ra đối với GV trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ cho HS là phải có năng lực đọc hiểu
và cảm thụ tốt bài thơ để có thể cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế của ngôn ngữ hình tượng, để không chỉ nhận thức đúng
về thể loại, mà còn biết rung động, phát hiện những tín hiệu thẩm mĩ một cách chính xác trong bài thơ. Sự hiểu biết,
nhận thức đầy đủ của GV về VB có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hướng dẫn HS đọc hiểu bài thơ, khơi gợi hứng
thú học tập, giúp các em đồng cảm và tái hiện lại cách cảm ấy một cách sáng tạo. Muốn vậy, GV phải tích cực rèn
luyện khả năng cảm thụ văn học của bản thân, nâng cao vốn văn hoá, văn học cho mình để có thể cảm thụ tốt cái
hay, cái đẹp của bài thơ, có khả năng liên tưởng, tưởng tượng sinh động về thế giới trong VB, từ đó hướng dẫn HS
đọc hiểu tốt hơn.
2.2.2. Bồi dưỡng kiến thức về tiếng Việt, văn học và vốn sống cho học sinh
Để rèn kĩ năng đọc hiểu thơ, GV cần giúp HS nắm vững những kiến thức tiếng Việt cơ bản đã học trong chương
trình môn Tiếng Việt ở tiểu học. Bởi vì, có nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt mới giúp các em nhận diện được
tình cảm, cảm xúc của nhân vật trữ tình, hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc, những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng...
trong bài thơ. Trong các giờ học Luyện từ và câu, GV giúp HS nhận biết được các biện pháp nghệ thuật (như so
sánh, nhân hoá, điệp ngữ, đảo ngữ, đối lập…) và tác dụng của nó. GV có thể lấy ngữ liệu trong một số bài thơ để
giúp HS nhận diện kiến thức tiếng Việt. Cách làm này vừa giúp HS được thưởng thức cái hay, cái đẹp của câu thơ,
vừa giúp giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Ví dụ, GV lấy ngữ liệu trong bài thơ Đất nước (Tiếng Việt 5, tập
2) để DH các bài Luyện từ và câu về nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ: “Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết
tha” hay “Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta”. Đây cũng là những kiến thức tiếng Việt và
văn học quan trọng giúp HS có thể cảm nhận được vẻ đẹp của câu thơ qua những hình thức diễn đạt sinh động của

nghệ thuật ngôn từ trong bài thơ.
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ, GV cần tìm biện pháp để giúp HS tích lũy vốn hiểu biết về văn
học thông qua các giờ học Tập đọc, qua việc đọc sách thường xuyên. Ở tiểu học không có môn Văn riêng, nhưng
HS học văn thông qua môn Tiếng Việt. Trong các giờ Tập đọc, HS được đọc, tiếp cận trực tiếp với các bài thơ, bài
văn, được tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của nó, từ đó giúp các em làm quen với VB văn học; HS được làm quen
và nhận biết một số khái niệm như: hình ảnh, chi tiết, bố cục, thể loại. Qua việc hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung, ý
nghĩa của VB sẽ giúp các em cảm nhận được những giá trị nghệ thuật của VB. Nhờ đọc diễn cảm VB, HS được nâng
cao cảm xúc thẩm mĩ, hoạt động này cũng kích thích các em khám phá VB một cách sáng tạo. Qua việc tham gia
tiếp xúc với VB, trả lời câu hỏi tìm hiểu bài tập đọc dưới sự hướng dẫn của GV, HS được làm quen với kĩ năng phân
tích tác phẩm văn học. Đây cũng là quá trình hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và kĩ năng đọc hiểu, tạo điều

98


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 96-101

ISSN: 2354-0753

kiện cho các em rung cảm, thưởng thức vẻ đẹp của hình tượng ngôn từ, là cơ sở giúp HS tự đọc và chiếm lĩnh VB
một cách hứng thú và sáng tạo. Như vậy, để rèn kĩ năng đọc hiểu VB cho HS, GV cần thực hiện một nhiệm vụ “kép”
là “dạy kĩ năng tiếng Việt và DH văn”.
Ngoài ra, để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ, GV cần tìm biện pháp để làm giàu vốn sống cho HS. Vốn sống bao
gồm toàn bộ những hiểu biết, kinh nghiệm về cuộc sống của HS. Đọc hiểu VB thơ là một quá trình nhận thức có ảnh
hưởng rất nhiều bởi “vốn sống” của mỗi HS. Đối với HS tiểu học, nhất là HS dân tộc thiểu số, do vốn sống, vốn văn
học hạn chế dẫn đến các em chiếm lĩnh VB một cách hời hợt hoặc suy diễn không xuất phát từ VB. Vì vậy, muốn
rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ cho HS trước hết phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Có hiểu biết về thực tế, các em
mới có khả năng cảm nhận, liên tưởng để tiếp nhận VB có chiều sâu, tránh được sự suy diễn hoặc hiểu không chính
xác hình tượng cuộc sống trong VB.

GV có thể bồi dưỡng vốn sống cho HS thông qua việc hướng dẫn các em quan sát thực tế cuộc sống sinh hoạt và
học tập hàng ngày. Từ đó, GV giúp các em có thể tích lũy dần những điều bổ ích về cách giao tiếp, cách ứng xử
trong quan hệ với những người xung quanh; có thể học được cách giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc; những phẩm
chất tốt của con người như lòng nhân ái, đồng cảm, tôn trọng người lao động, thầy cô, bạn bè.
Ví dụ, khi DH bài thơ Hạt gạo làng ta (Tiếng Việt 5, tập 1), để giúp HS hiểu được những hình ảnh: Giọt mồ hôi
sa/ Những trưa tháng sáu/ Nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy, GV có thể yêu cầu
HS tìm hiểu về công việc làm ruộng của gia đình mình. Đối với HS lớp 5 dân tộc thiểu số, nhờ các em đã có vốn
hiểu biết và trải nghiệm công việc đồng áng ở làng quê, GV giúp HS liên hệ thực tế để cảm nhận được: những hình
ảnh đối lập nói lên nỗi vất vả và nghị lực của người nông dân phải làm việc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của
thiên nhiên để làm ra hạt gạo.
GV có thể bồi dưỡng vốn sống cho các em thông qua các môn học. Trong nhà trường tiểu học, các môn học đều
có khả năng đem đến cho HS nhiều tri thức về cuộc sống, nhiều bài học giáo dục nhân cách như môn Đạo đức, Tự
nhiên và Xã hội,… Môn Đạo đức ở cấp tiểu học làm giàu vốn sống cho HS trên các phương diện: hiểu biết về những
chuẩn mực hành vi đạo đức và chuẩn mực hành vi mang tính pháp luật phù hợp với lứa tuổi; kĩ năng nhận xét, đánh
giá hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành
vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống; thái độ tự trọng, tự
tin vào khả năng của bản thân, có trách nhiệm với hành động của mình; yêu thương, tôn trọng con người; mong
muốn đem lại niềm vui, hạnh phúc cho mọi người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái
sai, cái xấu. Môn Tiếng Việt, với nhiều câu chuyện, nhiều bài thơ, trong đó chứa đựng những tri thức phong phú về
cuộc sống; bằng cách hướng dẫn HS đọc hiểu, khám phá nội dung, nghệ thuật VB, giúp các em ghi nhớ những tri
thức cần thiết, và liên hệ với thực tế cuộc sống, sẽ có tác dụng làm giàu vốn sống cũng như bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm cho các em.
Ví dụ: khi dạy bài tập đọc Hạt gạo làng ta (Tiếng Việt 5, tập 1), để giúp HS có thêm hiểu biết về nỗi vất vả “một
nắng, hai sương” trên đồng ruộng mới làm ra được hạt gạo của người nông dân. GV có thể cho HS liên hệ nêu ra
những khó khăn mà cha mẹ và các bác nông dân phải trải qua để làm ra hạt gạo (khó khăn do thời tiết, khó khăn do
sâu bệnh gây ra, chứ không còn khó khăn do bom đạn kẻ thù nữa). Qua đó, làm giàu vốn sống và giáo dục HS tình
cảm biết ơn người lao động, trân trọng nâng niu từng hạt lúa và mong muốn góp công sức của mình làm ra “hạt
vàng”, vì hạt gạo rất quý. Do đó, GV có thể bồi dưỡng vốn sống cho HS thông qua việc hướng dẫn các em đọc sách.
Mỗi cuốn sách có thể đem đến cho HS một thế giới tri thức rộng lớn về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
nhân loại từ xưa đến nay; về vẻ đẹp thiên nhiên ở nước mình và trên khắp thế giới. Qua hình tượng nghệ thuật, mỗi

HS làm giàu vốn sống một cách tự giác, tự cảm nhận được điều bổ ích với chính mình. Đó là những hiểu biết, cách
ứng xử của mỗi người trong những mối quan hệ của cuộc sống.
Như vậy, việc bồi dưỡng vốn tiếng Việt, văn học và vốn sống có vai trò vô cùng quan trọng để rèn kĩ năng đọc
hiểu VB thơ cho HS, nhất là HS dân tộc thiểu số. Có nắm vững kiến thức cơ bản về tiếng Việt và văn học mới giúp
các em nhận biết nhanh nhạy, chính xác các tín hiệu nghệ thuật trong VB nhất là VB thơ. Có hiểu biết về cuộc sống,
các em mới có thể liên tưởng, tưởng tượng để tiếp nhận VB. Có rất nhiều biện pháp để bồi dưỡng vốn sống và vốn
văn học cho HS, GV biết cách vận dụng linh hoạt, hợp lí các biện pháp sẽ mang lại hiệu quả DH mong muốn.
2.2.3. Rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm văn bản thơ trong giờ Tập đọc
Đọc diễn cảm (hay là đọc sáng tạo) là một hình thức hoạt động ngôn ngữ có tính chất đặc thù của nhận thức về
văn học. Đây là một quá trình “chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của VB viết thành VB âm thanh, nhịp điệu,
tốc độ, sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ, và thái độ thẩm mĩ của người đọc”, “Đọc diễn cảm là

99


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 96-101

ISSN: 2354-0753

cách sử dụng giọng đọc có kèm theo cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để truyền đạt những ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của tác
giả gửi gắm trong tác phẩm và cả những ý nghĩ, thái độ, tâm trạng, cảm xúc của người đọc đến với người nghe” (Hà
Nguyễn Kim Giang, 2012). Muốn đọc diễn cảm tốt, trước tiên GV cần giúp HS hiểu thấu đáo bài đọc. Qua phần
hướng dẫn HS tìm hiểu bài thơ trong giờ Tập đọc, GV giúp HS hiểu được nội dung, ý nghĩa của bài, tâm trạng, cảm
xúc ẩn chứa trong bài thơ, những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ...
Để rèn luyện đọc diễn cảm cho HS, nhất là đối với HS dân tộc thiểu số, trước tiên, GV cần đặc biệt quan tâm
giúp các em đọc đúng. Đọc đúng là đọc rõ tiếng, rõ lời, đúng chính âm, đúng ngắt nhịp, đúng ngữ điệu. Để đọc đúng,
HS phải được luyện đọc sách thường xuyên. Trong giờ Tập đọc, GV có thể luyện đọc thật kĩ những tiếng mà HS
thường hay mắc lỗi; có thể luyện đọc cho HS ở tất cả các khâu của tiết học, từ khâu kiểm tra bài cũ đến khâu kết thúc

tiết học, nhất là ở khâu luyện đọc và đọc diễn cảm.
Mặt khác, xuất phát từ đặc trưng nổi bật của ngôn ngữ thơ là tính nhịp điệu, giàu hình ảnh, GV cũng cần phải rèn
kĩ thuật đọc để làm “sáng hết hình, vang hết nhạc, giao hòa với tác giả, tác phẩm và người nghe” (Hà Nguyễn Kim
Giang, 2012); từ đó, truyền thông điệp thẩm mĩ của tác giả và cảm xúc của mình tới HS, tạo được cảm xúc thẩm mĩ,
gợi hứng thú nghe cho người học. Đây cũng là cơ sở để GV rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho HS.
Rèn kĩ năng đọc diễn cảm thơ, GV cần hướng dẫn HS chú ý đến nhịp điệu của câu thơ theo từng thể thơ cụ thể,
giúp các em nắm được cách ngắt nhịp thông thường theo một số thể thơ dạy ở lớp 5 như sau:
(1) Thơ lục bát: câu 6 chữ có thể ngắt nhịp 2/2/2 hoặc 2/4, 4/2, 3/3; câu 8 chữ có thể ngắt nhịp 2/2/2/2 hoặc 4/4,
2/6, 2/3/3, 3/5...
Ví dụ: Bài: Hành trình của bầy ong (Tiếng Việt 5, tập 1)
“Chắt trong vị ngọt / mùi hương// Lặng thầm thay / những con đường ong bay// Trải qua mưa nắng / vơi đầy//
Men trời đất / đủ làm say đất trời”.
(2) Thơ 4 chữ, 5 chữ: ngắt nhịp 2/2 hay 2/3, 3/2 ; hoặc đọc liền cả 4 hay 5 tiếng ở mỗi dòng thơ.
Ví dụ: Bài: Sắc màu em yêu (Tiếng việt 5, tập 1)
“Em yêu màu đen:/ Hòn than óng ánh,/ Đôi mắt bé ngoan,/ Màn đêm yên tĩnh.//Em yêu màu tím: / Hoa cà, hoa
sim,/ Chiếc khăn của chị,/ Nét mực chữ em.//”
(3) Thơ 7 chữ (thất ngôn): ngắt nhịp 4/3 hay 3/4.
Ví dụ bài: Đất nước của (Tiếng Việt 5, tập 2)
“Sáng mát trong / như sáng năm xưa// Gió thổi mùa thu / hương cốm mới// Tôi nhớ những ngày thu / đã xa”.
(4) Thơ tự do: không có cách ngắt nhịp cố định, thường căn cứ vào nội dung của câu, đoạn, bài để ngắt nhịp theo
từ, cụm từ hoặc dựa vào dấu câu.
Ví dụ bài: Bài ca về trái đất (Tiếng Việt 5, tập 1)
“Trái đất này / là của chúng mình// Quả bóng xanh / bay giữa trời xanh// Bồ câu ơi,/ tiếng chim gù thương mến//
Cùng bay nào,/ cho trái đất quay!// Cùng bay nào,/ cho trái đất quay!// Trái đất trẻ / của bạn trẻ năm châu// Vàng,
trắng, đen…/ dù da khác màu.”
Khi hướng dẫn HS luyện đọc diễn cảm, GV có thể thực hiện các bước sau:
1) Đọc mẫu: GV đọc mẫu toàn bài nhằm giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế đọc cho HS. Đối với
HS dân tộc thiểu số, GV có thể đọc 2 hoặc 3 lần, theo mục đích đề ra. GV đọc mẫu và cho HS đọc thầm nhiều lượt
để tìm hiểu nội dung, cấu trúc bài thơ và cách đọc.
2) Hướng dẫn HS xác định cách đọc. Hướng dẫn HS xác định cách đọc theo quy ước các kí hiệu xác định cách

đọc: cách ngắt nhịp, nghỉ hơi; độ to, nhỏ, cao thấp; tốc độ nhanh, chậm, vừa phải; cảm xúc buồn, vui, tự hào, háo
hức… và chỉ dẫn cách đọc, giọng đọc cụ thể. Có thể sử dụng các câu hỏi gợi mở như: + Đọc bài thơ với giọng điệu
chủ đạo như thế nào? (vui tươi sôi nổi, trữ tình sâu lắng hay trang nghiêm, trầm hùng...); + Đọc các đoạn thơ với
giọng như thế nào? + Nhấn mạnh vào từ ngữ, hình ảnh nào? + Ngắt nhịp ở đâu?...
3) Luyện đọc lần lượt các đoạn và cả bài: Luyện đọc các đoạn nhằm luyện đọc đúng từng câu trong đoạn, giúp
HS tập ngắt nhịp đúng ở các câu thơ, khổ thơ. Luyện đọc cả bài nhằm giúp HS làm quen với cách đọc liền mạch các
đoạn trong bài để tiến tới yêu cầu luyện đọc lưu loát và diễn cảm cho các em.
4) Thực hiện bài tập giải thích: GV yêu cầu HS lí giải vì sao các em đọc như thế. Đây là dạng bài tập nâng cao
để giúp HS ý thức được cách đọc diễn cảm bài thơ, tránh tình trạng đọc theo cảm tính. Bài tập này cũng giúp HS
khắc sâu nội dung bài học trong quá trình vận dụng để tìm ra cách đọc phù hợp.
5) HS thực hành đọc diễn cảm: Cần coi trọng việc thực hành luyện đọc tạo mọi điều kiện cho HS được tham gia
vào quá trình luyện đọc diễn cảm dưới sự chỉ dẫn của GV. Do đó, người dạy cần vận dụng các hình thức tổ chức

100


VJE

Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4/2020, tr 96-101

ISSN: 2354-0753

luyện đọc một cách linh hoạt để HS hứng thú, tích cực tham gia luyện đọc đúng như: đọc cá nhân (riêng lẻ hoặc nối
tiếp), đọc đồng thanh (nhóm, tổ, lớp). Để hướng dẫn HS dân tộc thiểu số đọc đúng tiếng Việt, GV cần biết nghe đọc
để có cách rèn luyện thích hợp với từng em; cần gợi ý, khuyến khích HS trong lớp trao đổi, nhận xét về chỗ được,
chỗ chưa được của bạn khi đọc nhằm rút kinh nghiệm để đọc tốt hơn; cần cho HS thực hiện đọc diễn cảm bài thơ
nhiều lần. Qua đó, GV đánh giá, nhận xét và chỉnh sửa cho HS sau mỗi lần đọc.
6) Giao bài tập về nhà: Đối với việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể để HS rèn kĩ năng
và chuẩn bị kiến thức trước khi đến lớp. Ví dụ: GV giao bài tập yêu cầu HS hiểu nội dung, ý nghĩa của bài, tâm trạng,
cảm xúc, những nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ, từ đó xác định giọng đọc và mô tả giọng đọc.

2.2.4. Sử dụng và thiết kế hệ thống câu hỏi và bài tập đọc hiểu
Sử dụng hệ thống câu hỏi và bài tập đọc hiểu trong SGK là biện pháp DH chủ yếu để hướng dẫn HS tìm hiểu nội
dung bài học. Hệ thống câu hỏi và bài tập này có vai trò quan trọng trong tìm hiểu bài Tập đọc. Thông qua hệ thống
câu hỏi, GV hướng dẫn HS tiến hành khai thác nội dung của bài một cách có chủ đích; ác nội dung của bài đọc được
HS tìm hiểu theo một hệ thống logic nhất định, nhờ đó nắm vững nội dung bài một cách có ý thức. Tuy nhiên, để HS
nhất là đối với HS dân tộc thiểu số có thể trả lời câu hỏi cần phải có hệ thống câu hỏi phù hợp với tầm nhận thức của
các em. Những câu hỏi này sẽ giúp HS thể hiện suy nghĩ của mình về vấn đề được hỏi, tạo điều kiện để nhiều HS
trong lớp có thể trả lời và trả lời đúng nội dung hỏi.
Ở cuối mỗi bài thơ trong SGK, có một số câu hỏi tổng hợp, khái quát nên đôi khi trở nên trừu tượng, khó hiểu
đối với HS. Do vậy, việc thiết kế một hệ thống câu hỏi vừa đảm bảo khai thác nội dung bài, vừa phù hợp với trình
độ HS là một yêu cầu cần thiết với GV khi dạy tập đọc, nhất là bài tập đọc là VB thơ. Để câu hỏi phù hợp hơn với
HS dân tộc thiểu số khi đọc hiểu VB thơ, GV có thể tự đặt câu hỏi hoặc điều chỉnh câu hỏi, chia nhỏ các đơn vị câu
hỏi, thay đổi kiểu hỏi trong SGK để các em dễ trả lời.
Khi thiết kế câu hỏi và bài tập hướng dẫn HS đọc hiểu bài thơ trong giờ Tập đọc, GV cần chú ý những câu hỏi
khơi gợi sự cảm nhận văn học, khám phá chất nhân văn, thẩm mĩ của VB. Những câu hỏi này phải đề cập đến nội
dung cơ bản của bài thơ, phải là những câu hỏi “chìa khóa” kích thích HS hứng thú suy nghĩ về bài học.
Ngoài ra, GV có thể tổ chức cho HS thảo luận, trao đổi với nhau theo từng cặp hoặc nhóm về yêu cầu của từng
câu hỏi và bài tập đọc hiểu, đặc biệt là những câu hỏi suy luận. Loại câu hỏi này là rất khó với HS dân tộc thiểu số,
đòi hỏi các em phải có khả năng tưởng tượng phong phú, khả năng so sánh, đối chiếu, tổng hợp, khái quát... Do đó,
GV cần tổ chức cho các em thảo luận. Sau khi thảo luận, HS sẽ trả lời câu hỏi thuận lợi, chính xác hơn.
3. Kết luận
Đọc hiểu là một trong những hoạt động tác động tích cực tới tư duy HS, giúp các em tiếp nhận nội dung ý nghĩa của
VB một cách sáng tạo. Để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ cho HS, GV cần giúp các em hiểu được tâm trạng, cảm xúc của
nhân vật trữ tình, hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc cùng những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng như ngôn ngữ, hình ảnh,
âm thanh, nhạc điệu, vần nhịp... trong bài thơ. Có rất nhiều biện pháp để rèn kĩ năng đọc hiểu VB thơ cho HS, tuy nhiên,
đối với HS dân tộc thiểu số, GV cần quan tâm nhiều hơn các biện pháp bồi dưỡng vốn tiếng Việt, văn học và vốn sống
cho các em, đồng thời vận dụng linh hoạt, hợp lí các biện pháp DH tích cực sẽ mang lại hiệu quả mong muốn.
Tài liệu tham khảo
Bộ GD-ĐT, Dự án Phát triển giáo viên tiểu học (2006). Phương pháp dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc bậc tiểu
học. NXB Giáo dục.

Đào Ngọc (chủ biên, 1998). Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt. NXB Giáo dục.
Dương Thị Hương (2009). Giáo trình Cảm thụ văn học. NXB Đại học Sư phạm.
Hà Nguyễn Kim Giang (2012). Phương pháp đọc diễn cảm. NXB Đại học Sư phạm.
Lê Phương Nga (2001). Dạy học Tập đọc ở tiểu học. NXB Giáo dục.
Lê Phương Nga (2019). Dạy học môn Tiếng Việt theo Chương trình giáo dục phổ thông mới. NXB Đại học Sư phạm.
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên, 2013a). Tiếng Việt 5 (tập 1). NXB Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên, 2013b). Tiếng Việt 5 (tập 2). NXB Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Thanh Hùng (2011). Kĩ năng đọc hiểu văn. NXB Đại học Sư phạm.
Trần Mạnh Hưởng (2011). Luyện tập về cảm thụ văn học ở tiểu học. NXB Giáo dục Việt Nam.
Trần Thị Thanh Hồng, Súc Sổm Phông Băn Chông (2020). Vận dụng hoạt động đọc hiểu vào dạy học văn bản truyện
trong giờ tập đọc cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Xay Nhạ Bu Ly, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào.
Tạp chí Giáo dục, số 470, tr 60-65.

101



×