Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hôn nhân gả bán – tiếng nói phê phán và khát vọng tình yêu trong truyện thơ Mường Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.98 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 68 (02/2020)
No. 68 (02/2020)
Email: ; Website: />
HÔN NHÂN GẢ BÁN – TIẾNG NÓI PHÊ PHÁN VÀ KHÁT VỌNG
TÌNH YÊU TRONG TRUYỆN THƠ MƯỜNG THANH HÓA
Forced marriage – A critical voice and a thirst for love in
Mường ethnic’s narrative poems of Thanh Hóa
TS. Lê Thị Hiền
Trường Đại học Hồng Đức
TÓM TẮT
Vấn đề hôn nhân gả bán là một trong những nội dung phổ biến trong truyện thơ Mường. Thông qua một
số tác phẩm tiêu biểu, truyện thơ đã lên tiếng phê phán tập tục gả bán hôn nhân, ca ngợi khát vọng về
tình yêu tự do và mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của các chàng trai, cô gái Mường. Bài viết đi sâu tìm hiểu
vấn đề hôn nhân gả bán trong truyện thơ Mường Thanh Hóa, qua đó khẳng định giá trị độc đáo của
truyện thơ trong bức tranh chung của truyện thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Từ khóa: hôn nhân gả bán, Thanh Hóa, truyện thơ Mường
ABSTRACT
The issue of forced marriage is one of the important contents of Mường ethnic’s narrative poems.
Through a number of typical works, the narrative poems have criticized the custom of forced marriage
and praised a desire of freedom in love and happiness of Mường couples. The article explores the issues
of forced marriage in Mường ethnic’s narrative poems of Thanh Hóa, thereby to confirm the unique
values of the narrative poem in a general prospect of ethnic minorities’ poetry in Vietnam.
Keywords: forced marriage, Thanh Hóa, Mường ethnic’s narrative poem

1. Đặt vấn đề


Trong bức tranh chung của truyện thơ
các dân tộc thiểu số Thanh Hóa, truyện
thơ của dân tộc Mường đóng vai trò quan
trọng. Hiện nay, truyện thơ Mường lưu
truyền ở Thanh Hóa được sưu tầm và công
bố mới chỉ có 5 tác phẩm: Út Lót Hồ Liêu,
Nàng Nga Hai Mối, Nàng Ờm chàng Bồng
Hương, Nàng con côi, Anh Loong
Choóng. Trong đó, truyện thơ Út Lót Hồ
Liêu, Nàng Nga Hai Mối, Nàng Ờm chàng
Bồng Hương là những truyện thơ về đề tài

tình yêu hôn nhân. Thông qua ba tác
phẩm: Út Lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai
Mối, Nàng Ờm chàng Bồng Hương, một
mặt, các tác giả dân gian lên tiếng phê
phán tập tục gả bán hôn nhân, mặt khác,
ca ngợi khát vọng về tình yêu tự do và
mưu cầu hạnh phúc lứa đôi của các chàng
trai, cô gái Mường. Điều đó tạo nên giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo, khiến truyện
thơ sống mãi trong đời sống văn hóa của
dân tộc Mường nói riêng và đồng bào các
dân tộc thiểu số nói chung.

Email:

27



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

Hai Mối là cuộc hôn nhân tiêu biểu nhất
cho tục lệ gả bán hôn nhân. Vua Ao Ước là
nhà vua đầy quyền lực, giàu có ở đất nước
Thượng Lào. Mặc dù biết nàng Nga và Hai
Mối yêu nhau và đã hẹn ước với nhau
nhưng bố mẹ nàng Nga vẫn ngăn cấm và
buộc nàng lấy nhà vua Ao Ước. Trước
quyết định của cha mẹ, nàng Nga chỉ đau
buồn, than thở với đạo Hai Mối: “Bố nhà
em tham bạc / Mẹ nhà em tham vàng / Chú
bác, họ hàng tham ăn tham uống / Tham
bình rượu mọng / Tham vò rượu siêu / Cho
nên em bị ép đi làm bà / Nhà ông Vua Ao
Ước / Nước vua Thượng Lào cao xa quạnh
vắng”. Nàng không cười, không nói và bỏ
hẳn việc ăn uống: “Cơm không buồn nhá,
cá không buồn ăn / Vóc gầy da nhăn như
bông hoa bông trăng héo nắng”. Thậm chí,
khi nghe tin Hai Mối chết, nàng Nga đã sẵn
sàng từ bỏ địa vị và quyền lực để sống trọn
kiếp với người yêu. Kết thúc cuộc hôn
nhân đầy bi kịch này là cái chết của cả ba
người: Hai Mối, nàng Nga và nhà vua Ao
Ước. Cái chết ấy như một tiếng thét căm
phẫn lên án xã hội phong kiến – xã hội mà
chính cha mẹ là nhân tố gây nên bi kịch

cho con cái.
Cũng giống như cuộc hôn nhân giữa
nàng Nga và vua Ao Ước, cuộc hôn nhân
giữa Hồ Liêu và người vợ trong truyện thơ
Út Lót Hồ Liêu là cuộc hôn nhân cưỡng ép.
Cuộc hôn nhân này hoàn toàn do cha mẹ
hai bên tự ý quyết định. Vì là cuộc hôn
nhân không tình yêu nên Hồ Liêu luôn lạnh
lùng, vô cảm với người vợ của mình. Sự
lạnh lùng, vô cảm của Hồ Liêu khiến người
vợ buồn bã và có lúc đã chất vấn chàng:
“Anh chê em phục phịch / Chê em cục mịch
/ Hay chê em gô răng / Chê em khô chân
gân mặt”. Đáng thương hơn, người phụ nữ
này sẵn sàng chấp nhận làm vợ thứ nếu

2. Nội dung
2.1. Những cuộc hôn nhân gả bán (hôn
nhân cưỡng ép) trong truyện thơ Mường
Theo quan niệm của người Mường,
hôn nhân có ý nghĩa đặc biệt không chỉ đối
với cá nhân mà còn có ý nghĩa quan trọng
đối với gia đình, họ tộc. Với người đàn
ông, hôn nhân là bước chuyển để người
đàn ông trở thành đức cả, tức là người có
tư cách đại diện cho một gia đình, một nóc
nhà tham gia vào các công việc của gia
đình, dòng họ, làng xóm. Với người phụ
nữ, hôn nhân đánh dấu sự trưởng thành,
khẳng định người phụ nữ có khả năng quán

xuyến gia đình, sinh con đẻ cái để duy trì
nòi giống cho gia đình nhà chồng và nuôi
dưỡng chúng. Đối với gia đình, họ tộc, đặc
biệt là nhà trai; hôn nhân của đôi vợ chồng
trẻ khẳng định vị thế của dòng họ đối với
xóm làng và cộng đồng.
Việc dựng vợ gả chồng của người
Mường là do cha mẹ sắp đặt, phận làm con
không có quyền lựa chọn, nhất là con gái.
Trong hôn nhân, vai trò của cha mẹ là tối
cao - “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Họ có
thể bất chấp tất cả, thậm chí dồn con trẻ
vào bước đường cùng để đạt được mục
đích của mình. Đây là một trong những đặc
điểm nổi bật nhất của xã hội Mường thời
phong kiến.
Vấn đề hôn nhân, đặc biệt là hôn nhân
gả bán, được phản ánh chân thực, sinh
động trong các truyện thơ Mường, cụ thể
như cuộc hôn nhân giữa nàng Nga và nhà
vua Ao Ước (truyện thơ Nàng Nga Hai
Mối), cuộc hôn nhân giữa chàng Hồ Liêu
và người vợ do cha mẹ sắp đặt, cuộc hôn
nhân giữa nàng Út Lót và đạo mường Đẹ
(truyện thơ Út Lót Hồ Liêu).
Cuộc hôn nhân giữa nàng Nga và nhà
vua Ao Ước trong truyện thơ Nàng Nga
28



LÊ THỊ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

chàng bằng lòng. Trước sự níu kéo của vợ,
Hồ Liêu vẫn không chấp nhận và khẳng
định chỉ có một tình yêu duy nhất với nàng
Út Lót. Thấy không thể thay đổi được Hồ
Liêu, người vợ đã đi tìm người khôn mồm,
khéo miệng để khuyên nhủ chàng: “Dẫu
mến bậu cũng không nên cửa / Dẫu mến họ
cũng không nên nhà”. Nhưng tất cả đều
không thể lay chuyển được lòng dạ sắt đá
của chàng. Chàng khuyên vợ nên trở về
bên cha mẹ, làm lại tình duyên mới và kiên
quyết: “Dù em có đợi anh / Chín tháng
mười hai năm / Chúng ta cũng không /
Đằm tình trai gái / Chúng ta cũng không /
Đậu ngãi bén duyên / Rồi ra chỉ nên trầu
cau khô héo”. Mặc cho Hồ Liêu khuyên
nhủ thế nào, người vợ vẫn một mực làm
theo sự sắp đặt của cha mẹ. Cuối cùng, Hồ
Liêu đã tìm đến cái chết. Chỉ có chết,
chàng mới có thể thoát ra khỏi cuộc hôn
nhân đầy ngang trái.
Ngoài việc phản ánh cuộc hôn nhân
của chàng Hồ Liêu, truyện thơ Út Lót Hồ
Liêu còn miêu tả cuộc hôn nhân gả bán
giữa nàng Út Lót và đạo mường Đẹ. Mặc
dù đạo mường Đẹ vừa già vừa xấu, vừa

chột lại vừa bị què nhưng nàng Út Lót vẫn
chấp nhận lấy làm chồng. Có hai nguyên
nhân khiến Út Lót đi đến quyết định táo
bạo ấy. Thứ nhất, sau khi quá đau buồn về
cái chết của chàng Hồ Liêu, nàng lại bị cha
mẹ ép phải lấy chồng giàu, chồng sang:
“Bây giờ con phải / Đi làm bà, làm mái
cun quan / Cho vui lòng cha mẹ”. Để giữ
tròn đạo hiếu với cha mẹ, nàng bắt buộc
phải đi lấy chồng. Mà khi đã lấy chồng,
phải lấy một người mà nàng không yêu thì
với nàng, việc lấy ai không còn là điều
quan trọng. Thứ hai, nếu nhận lời lấy đạo
mường Đẹ thì trên đường về nhà chồng,
nàng sẽ được gặp lại Hồ Liêu, bởi đi về

phía ấy có nơi an nghỉ của chàng. Đám
cưới của nàng Út Lót và đạo mường Đẹ
được tổ chức khá linh đình, đông đúc,
nhưng thật bất ngờ, khi đám rước dâu đi
qua mộ Hồ Liêu, nàng đã xin phép hai họ
vào thăm Hồ Liêu. Như đã hẹn trước, khi
nàng Út Lót vừa bước tới mộ, Hồ Liêu đã
chống mộ cao cho Út Lót bước vào. Săng
đồng gộp lại, hai người biến thành hai hòn
đá trắng. Chứng kiến cảnh đau buồn ấy, tê
tái phiền lòng, đạo mường Đẹ đã biến
thành con cày cun gầy nhom nằm ngủ suốt
tháng Ba, tháng Tư. Cái kết của cuộc hôn
nhân là cái chết của cả hai người: nàng Út

Lót và đạo mường Đẹ.
Có thể thấy tự do yêu đương là đặc
trưng của xã hội nguyên thủy – nhưng hôn
nhân môn đăng hộ đối hoặc có sự can thiệp
của tiền bạc – hôn nhân gả bán lại là hệ quả
của xã hội phong kiến. Trong hôn nhân gả
bán luôn diễn ra xung đột giữa một bên là
cha mẹ - đại diện cho chế độ gia trưởng
phong kiến và trật tự luân lý phong kiến
với một bên là đôi trai gái - đại diện cho lý
tưởng hôn nhân tự do. Xung đột này
“không ngừng được đẩy cao, xung đột
không ngừng được đào sâu - để đưa đến
những vòng xoáy cao trào mà đỉnh điểm là
quyết tâm tự tận” (Bùi Thiên Thai, 2015,
tr. 39).
Tục lệ gả bán hôn nhân không chỉ
được phản ánh trong truyện thơ Mường mà
còn được phản ánh khá chân thực trong
truyện thơ các dân tộc thiểu số khác: truyện
thơ Tiễn dặn người yêu, Khun Lú nàng Ủa
của dân tộc Thái; truyện thơ Nhàng Dợ
Chà Tăng của dân tộc Mông; Tam Mậu
Ngọ, Trần Chu của dân tộc Tày.v.v. Tuy
nhiên, ở truyện thơ các dân tộc thiểu số
khác, tác giả dân gian đã tìm được lối thoát
tương đối thỏa đáng để giải quyết mâu
29



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

thuẫn, bế tắc trên con đường phấn đấu vượt
qua thành lũy của tục lệ gả bán phong kiến
để đi đến hạnh phúc trọn vẹn. Đó là hoặc
cùng nhau bỏ trốn để xây dựng lại cuộc đời
êm ấm ở một nơi xa xôi (truyện thơ Nhàng
Dợ Chà Tăng); hoặc vui vầy tái hợp trong
mối tình chung thủy sau khi phải trải qua
rất nhiều lận đận, khổ đau, sóng gió dập
vùi của tục lệ gả bán lạc hậu trong xã hội
phong kiến (truyện thơ Tiễn dặn người
yêu).v.v.
Truyện thơ Mường không giải quyết
mâu thuẫn trong hôn nhân gả bán theo
chiều hướng có hậu như vậy, mà “phần lớn
tìm đáp số trong cuộc đời ở thế giới bên
kia, ở thế giới của cõi chết” (Phan Đăng
Nhật, 1981, tr. 428-429). Chẳng hạn, nàng
Nga đã quyết xuống mồ với người yêu cho
trọn nghĩa vẹn tình, nàng Út Lót kết thúc
cuộc đời đau khổ bằng cái chết, nàng Bồng
Hương tìm lên núi Làn Ai để ăn lá ngón tự
vẫn. Các chàng trai và cô gái Mường đã
quyết liệt biểu thị thái độ chống đối của
mình với tục lệ gả bán hôn nhân, phản ứng
khá mạnh mẽ và dữ dội trước hành động ép
uổng của cha mẹ.

2.2. Tiếng nói phê phán, tố cáo tập
tục gả bán (cưỡng ép) hôn nhân
Truyện thơ ra đời khi giai cấp trong xã
hội hình thành một cách rõ nét. Mỗi truyện
thơ là bức tranh thu nhỏ về hiện thực xã
hội phong kiến với những luật lệ hà khắc,
với những mối mâu thuẫn không thể điều
hòa được. Xã hội phong kiến đã bày ra
những trận đồ bát quái, nào là lệ thiêng luật
cả, nào là phép mẹ quyền cha, nào là cưới
mua gả bán, nào là trọng nam khinh nữ.v.v.
Vạch ra bản chất xấu xa của xã hội phong
kiến với những tập tục ngang trái, truyện
thơ là tiếng kêu than cho số phận của con
người; là lời phê phán, tố cáo đanh thép cái

xã hội xấu xa, tàn bạo đã chà đạp lên quyền
sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc
của con người.
Ba truyện thơ Nàng Nga Hai Mối, Út
Lót Hồ Liêu, Nàng Ờm chàng Bồng Hương
đều gặp nhau ở một chủ đề tư tưởng là
cùng phê phán chế độ cưỡng ép hôn nhân
trong xã hội Mường xưa. Những bậc cha
mẹ trong các truyện thơ này đều là những
người ham giàu, ham địa vị, đã ép duyên,
cưỡng duyên; là những người trực tiếp gây
ra tai họa cho con cái. Ta bắt gặp ở các
truyện thơ hình ảnh cun Đủ đạo Dà, hình
ảnh ông vua Ao ước, hình ảnh quan lang,

lính tráng và cả bố mẹ nàng Ờm - những kẻ
vua nhỏ, chúa đất, ỷ quyền gia trưởng. Họ
đại diện cho quyền lực và uy thế xã hội, đã
dùng sức mạnh vô hình để bóp nghẹt tình
yêu của nàng Nga và Hai Mối, tình yêu của
nàng Ờm và chàng Bồng Hương, của nàng
Út Lót và chàng Hồ Liêu. Họ còn là hiện
thân cho những quan niệm, luật lệ cổ hủ,
nặng nề trong xã hội.
Trong truyện Nàng Nga Hai Mối, bố
mẹ nàng Nga vì ham giàu sang, địa vị mà
nhận lời gả con gái cho nhà vua Ao Ước.
Tính cách, chân dung bố mẹ của nàng Nga
được thể hiện cụ thể qua đoạn thơ khá dài
khi ép duyên nàng Nga. Đây là những lời
dụ dỗ ngon ngọt nhưng cay nghiệt của bố
mẹ nàng Nga:“Con gái bố mẹ ơi… / Con
nghe lời bố mẹ / Nên con gái lành / Con
nghe lời người tình / Nên con gái rồ gái
dại / Nghe lời trai gái / Nên đứa hư thân”.
Lời nói của bố mẹ Nàng Nga là sắt đá, là
mệnh lệnh, không có gì có thể thay đổi
được. Theo một bản kể khác được sưu tầm
ở xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy thì truyện
thơ còn có đoạn miêu tả bố mẹ nàng Nga
đánh nàng một cách tàn nhẫn khi nàng từ
chối cuộc gả bán nàng cho nhà vua Ao
30



LÊ THỊ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Ước. Chính vì không thể thoát ra khỏi cuộc
hôn nhân ép uổng đầy ngang trái ấy mà Hai
Mối, và sau đó là nàng Nga, đã phải đi đến
cái chết. Cao Sơn Hải cho rằng: “Cái chết
của nàng Nga và đạo Hai Mối là cái chết bi
kịch làm cho ta thấy tiếc thương đôi trai
gái, tiếc cho mối tình đẹp của họ và càng
căm ghét chế độ hôn nhân nghiệt ngã
không đếm xỉa đến tình yêu hạnh phúc lứa
đôi. Tác giả dân gian ở tác phẩm này đã có
cái nhìn hiện thực về cuộc sống xã hội
Mường xưa một cách sâu sắc đầy tính phê
phán, tố cáo và cảnh báo các bậc cha mẹ
khi không quan tâm đến tình yêu lứa đôi
của con cái” (Cao Sơn Hải, 2005, tr. 30).
Không giống như bố mẹ nàng Nga, bố
mẹ Hồ Liêu trong truyện thơ Út Lót Hồ
Liêu lại tự ý sắp sẵn cuộc hôn nhân khi
chàng đi vắng, đưa chàng vào tình thế đã
rồi: “Lúc ấy bố mẹ Hồ Liêu / Đã giục con
ra chào khách / - Nhà ta có chiếng cậu đến
rong / Có chiếng mộng đến chơi / Con đến
chào qua / Ra lời với khách”. Cha mẹ Hồ
Liêu đã bắt chàng làm theo sự sắp đặt của
họ, không hề quan tâm đến nguyện vọng,
tâm tư của chàng. Bố mẹ nàng Út Lót cũng

đã làm như thế đối với con mình. Mặc dù
biết nàng Út Lót đau khổ vì cái chết của
Hồ Liêu nhưng cha mẹ nàng vẫn bắt ép
nàng lấy chồng giàu sang: “Bây giờ con
phải / Đi làm bà, làm mái cun quan / Cho
vui lòng cha mẹ”. Cha mẹ nàng Út Lót đã
nhờ người mai mối để tìm cho nàng một
người đẹp trai, giàu có. Để vừa lòng cha
mẹ, nàng Út Lót đã chấp nhận cuộc hôn
nhân với đạo mường Đẹ. Nếu như sự ép
duyên của bố mẹ Hồ Liêu là nguyên nhân
trực tiếp gây nên cái chết của Hồ Liêu, thì
sự ép duyên của bố mẹ nàng Út Lót chính
là nguyên nhân gây nên cái chết của nàng
sau này.

Truyện thơ Nàng Ờm chàng Bồng
Hương là lời tố cáo đanh thép tâm địa độc
ác của cha mẹ nàng Ờm. Mở đầu truyện
thơ là hình ảnh mẹ nàng Ờm bụng mang dạ
chửa thèm quả chua. Bà đã dùng lời lẽ tha
thiết để nhờ một em bé mồ côi trèo lên cây
hái quả với lời hứa: “Nếu chị sinh được con
gái / Chị cho mi / Được nên ngãi nên đôi /
Nên duyên phải lứa”. Lời hứa đấy khiến
cho đứa trẻ mồ côi, và sau này chính là
chàng Bồng Hương, tưởng là sự thật. Vì
vậy, sau khi trưởng thành, chàng yêu người
con gái mà bà mẹ khi trước đã có lời hứa
gả cho chàng. Nhưng khi đối diện với sự

thật, khi biết Bồng Hương và con gái của
mình yêu nhau, bà mẹ đã lên tiếng từ bỏ lời
hứa. Bà đã so sánh gia cảnh côi cút, nghèo
khó của Bồng Hương với cảnh giàu sang
của gia đình mình: “Nhà mi nhà nghèo /
Thân neo côi cút”, với sự cao sang của con
gái bà: “Còn nhà tao / Dưới sân lắm trâu
nhiều bò/... Còn con gái tao / Ngón tay như
búp măng đọt / Đôi gót trắng hồng...”. Mẹ
nàng Ờm đã phũ phàng chối bỏ lời hứa
trước đây với Bồng Hương: “Mi đừng hòng
/ Chung tình đôi lứa / Làm sao / Có thể
chung cửa chung nhà”. Sự tàn nhẫn, độc ác
của bố mẹ nàng Ờm càng bộc lộ khi biết
rằng nàng Ờm và chàng Bồng Hương yêu
nhau say đắm, quấn quýt không rời. Để
ngăn cản tình yêu của hai người, bố mẹ
nàng Ờm lấy hết vật nhớ vật thương của
hai người bỏ đi. Không dừng lại ở đó, họ
còn đánh nàng một cách tàn nhẫn: “Chín
chục roi lảy bảy bố bó làm bảy / Ba mươi
roi lèn en mẹ buộc làm ba / Giữ em trong
nhà / Ra tay đánh đập”. Mặc cho nàng Ờm
van xin, năn nỉ, bố mẹ nàng Ờm vẫn lạnh
lùng, tàn nhẫn: “Đánh tay em không biết
mỏi / Đánh em máu chảy khắp người”. Với
tấm thân đầy máu, nàng Ờm tiếp tục van
31



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

xin bố mẹ, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng
đến tàn nhẫn. Và tàn ác hơn, bố mẹ nàng
Ờm đã quăng nàng ra ngoài cửa vóng. Đến
máu mủ ruột thịt thuộc dòng dõi nhà lang
mà còn bị chính nhà lang chà đạp cho đến
chết thì những con người bình thường
trong xã hội liệu có được giá trị đích thực,
có được hạnh phúc chân chính hay không?
Cùng thể hiện chủ đề chống đối tục lệ
cưỡng ép, gả bán, bóp chết hạnh phúc lứa
đôi trong hôn nhân, nhưng có truyện thơ
lại thiên về phê phán tục cheo cưới dưới
uy lực của tiền của; có truyện thơ lại phê
phán uy quyền của chế độ gia trưởng độc
đoán, tàn bạo. Đựợc thể hiện với nhiều
màu sắc khác nhau, nhưng tựu trung lại,
các truyện thơ Mường đều gặp nhau ở
điểm chung là cùng lên tiếng phê phán, tố
cáo tập tục gả bán hôn nhân của xã hội
Mường xưa. Tập tục nặng nề đó đã vô tình
vùi dập khát vọng, ước mong của con
người về tình yêu tự do và hôn nhân hạnh
phúc. Truyện thơ Mường là tiếng kêu
thương cho số phận của con người. Có thể
nói, không ở đâu như truyện thơ Mường,
vấn đề tình yêu hôn nhân được đặt ra như

một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi tác giả dân
gian lúc bấy giờ phải có cái nhìn sâu sắc,
biện chứng mới thấy hết được bộ mặt thật
của xã hội phong kiến, và đặc biệt hơn mới
thấy được khát vọng vươn lên của những
chàng trai cô gái Mường.
3. Ca ngợi khát vọng về tình yêu tự
do và mưu cầu hạnh phúc lứa đôi
Khát vọng về tình yêu tự do và mưu
cầu hạnh phúc lứa đôi, không chịu sự ép
uổng là những đòi hỏi chính đáng của
những chàng trai, cô gái Mường. Đó là nội
dung phổ biến của truyện thơ Mường nói
riêng và truyện thơ các dân tộc thiểu số ở
nước ta nói chung.

Có thể nói, ba truyện thơ Mường: Út
Lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai Mối, Nàng Ờm
chàng Bồng Hương: cho thấy khát vọng tự
do yêu đương là khát vọng thiêng liêng và
cháy bỏng của các chàng trai cô gái
Mường. Nó như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt
từ đầu đến cuối mỗi tác phẩm. Mỗi tác
phẩm là khát vọng mãnh liệt về tình yêu,
hạnh phúc của các chàng trai, cô gái
Mường. Họ khao khát yêu, được yêu một
cách tự do và ước muốn được ở bên nhau
mãi mãi.
Trong truyện Nàng Nga Hai Mối, nghe
đồn dưới chợ Cẩm Thủy, Quan Hoàng có

nàng Nga là “Người đẹp hiền hòa / Có một
không hai” thì Hai Mối đã chủ động xin
phép cha mẹ được xuống chợ Cẩm Thủy,
Quan Hoàng để được gặp người con gái ấy.
Riêng nàng Nga cũng chủ động xin cha mẹ
một mình ra chợ chơi để tìm bạn tình. Hai
con người ấy đã gặp nhau tại nơi đất chợ.
Nàng Nga đã chủ động mời Hai Mối về
thăm cửa thăm nhà. Cái khôn, cái khéo của
nàng Nga là nàng muốn cha mẹ chấp nhận
ngay từ đầu người mà nàng đã chọn. Hai
người cùng nhau hẹn ước ở sông Ngang,
bến Đuộng: “Hẹn ngày nên cửa nên nhà /
Đôi bên mẹ cha đẹp đàng đi xá lại”. Với
truyện Út Lót Hồ Liêu, nàng Út Lót khi đã
thầm yêu trộm nhớ chàng Hồ Liêu đã chủ
động viết thư về dặn cha mẹ: “Con đã sắp
trong ý / Con đã nghĩ trong lòng / Ngày
chầu vua xong / Con chọn chàng Hồ Liêu
về thưa cùng bố mẹ”. Và đặc biệt hơn, sau
một thời gian dài giấu kín, đến khi hết hạn
chầu vua, trên đường trở về quê, Út Lót đã
chủ động cởi bỏ lốt cải trang trở lại thành
một cô gái dịu dàng xinh đẹp, nàng đã thổ
lộ tình cảm của mình. Hai người thề
nguyền vàng đá với nhau: “Anh ơi quả cau
này / Rìu sắt bổ không chuyển / Dao bạc
32



LÊ THỊ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

tiện không ra / Răng đen ta cắn làm ba /
Chia về hai ta mỗi người một miếng / Còn
một miếng / Đặt lên đá ta nguyện một lời”.
Khác với truyện Nàng Nga Hai Mối
và Út Lót Hồ Liêu, trong truyện Nàng Ờm
chàng Bồng Hương, nàng Ờm và chàng
Bồng Hương lại quen nhau từ thời cùng
chơi trò sàng gạo bằng đất, bằng mo nang,
từng tập đan bằng tàu lá chuối, cùng chơi
bản trên, cùng xuôi bản dưới và đã cảm
mến nhau: “Anh đã mến, đã thương, đã yêu
cùng nhớ / Anh trộm phép mẹ đùm cơm vào
lá/ Anh trộm phép mẹ đùm cá vào bao /
Anh vượt mấy dốc cao / Anh lội bao suối
thẳm / Ăn đi cùng anh cho đỡ thương, đỡ
nhớ”. Khi nàng Ờm đến tuổi trưởng thành
thì tình yêu của họ được dịp bùng lên mạnh
mẽ. Hai người mong ước một cuộc sống
hạnh phúc: “Ăn cơm chung một gian /
Uống nước chung một máng / Xỉa răng
chung một ống / Chết hay sống cùng trọn
một đôi”.
Điểm độc đáo ở truyện thơ Mường là
các chàng trai cô gái Mường luôn là người
chủ động đi tìm bạn tình, tìm hiểu bạn tình.
Khi đã tìm được rồi, các chàng trai cô gái

Mường chủ động tạo cơ hội để cho hai
người hiểu nhau và yêu nhau. Khi bị cha
mẹ ép buộc lấy vua Ao Ước, nàng Nga
(truyện Nàng Nga Hai Mối) chủ động viết
thư báo tin cho Hai Mối, rồi tìm mọi cách
gặp chàng. Nàng khéo léo thuyết phục
chàng về quê chờ đợi: “Anh về trước, em
về sau / Đợi em ở rừng dâu gốc. Đợi em ở
rộc dâu màng”. Để gặp được nàng Nga ở
nơi đất khách quê người, Hai Mối cũng đã
sẵn sàng từ bỏ địa vị lang đạo, sự giàu có,
quyền lực và cả những cuộc hôn nhân khác
để đi tìm gặp nàng Nga. Còn chàng Hồ
Liêu (truyện Út Lót Hồ Liêu), khi bị cha
mẹ ép cưới vợ, chàng đã phản kháng đến

cùng. Chàng khuyên người vợ đáng thương
đó nên trở về nhà cha mẹ. Hồ Liêu đã nhờ
chim chèo pheo giúp chàng mời hộ nàng
Út Lót đến cho Hồ Liêu được gặp. Út Lót
đã nhờ chim chèo pheo gửi cho Hồ Liêu
dải yếm, dải áo và tràng cườm thơm của
nàng. Những vật ấy đã giúp chàng Hồ Liêu
tỉnh lại, nhưng từ đó, chàng rơi vào nỗi sầu
nhớ: “Vắng bạn tình, thấy cửa tình đỡ sầu
một lẽ / Vắng bạn nghĩa, thấy dấu bạn đỡ
tẻ một đường / Uống nước kêu vía bạn cho
nó đỡ thương / Ăn cơm gọi hồn nàng cho
nó đỡ nhớ”.
Nàng Ờm và chàng Bồng Hương trong

truyện Nàng Ờm chàng Bồng Hương cũng
vậy. Khi bố mẹ nàng Ờm tìm mọi cách
chia cắt hai người thì tình yêu của nàng
Ờm và chàng Bồng Hương lại càng tha
thiết. Chàng Bồng Hương quyết tâm:
“Đường mấy dốc anh cũng trèo / Gặp mấy
sông anh cũng lội”. Chứng kiến nàng Ờm
quăng mình xuống “sâm”, chàng Bồng
Hương đã đỡ lấy thân và ôm nàng Ờm
chạy vào rừng sâu. Chính trong giấy phút
ấy, tình yêu của họ lại càng sâu nặng.
Chàng Bồng Hương nói với nàng Ờm:
“Anh biết vì sao mà em phải khổ / Vì anh đi
trâu cùng em bên ngõ / Vì anh đi bò cùng
em trên nương / Cho bố mẹ chẳng thương /
Nên em phải chịu đường roi vọt, roi thon /
Em phải chịu điều giận tiếng hờn của cha
mẹ”. Nàng Ờm nói: “Em muốn cùng anh
nên cửa / Nhưng bố không cho nên cửa /
Em muốn cùng anh nên nhà / Nhưng mẹ
chẳng cho nên nhà / Ta cùng về bên ma
cho khỏi bận / Ta đi ăn lá ngón cho nó hại
thân / Ta đi thắt cổ cho nó hại người / Cửa
nhà không nên là vì bố mẹ”. Cuộc đối thoại
giữa hai người là một cuộc đối thoại đẫm
nước mắt. Đó là tiếng lòng của hai con
người cất lên trong đau khổ. Thế giới này
33



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 68 (02/2020)

không có chỗ cho hạnh phúc của hai người,
chỉ còn cách là chết thì hai người mới được
ở bên nhau.
Từ khát vọng về một tình yêu tự do,
các chàng trai, cô gái trong truyện thơ
Mường đã hướng đến một khát vọng lớn
lao hơn, đó là khát vọng về một gia đình
hạnh phúc. Để đạt được khát vọng ấy, họ
phải đánh đổi những gì thiêng liêng nhất,
thậm chí là cả mạng sống của mình. Nàng
Út Lót sẵn sàng bỏ lại đám cưới sang trọng,
linh đình, bỏ mặc chàng rể mới lang cun và
hai họ bơ vơ như đàn bướm lạc, bước vào
chiếc săng cùng người yêu đi về thế giới
bên ma với hy vọng sẽ được ở cùng với
nhau đến trọn kiếp. Nàng Nga sẵn sàng bỏ
nhà vua Ao Ước, bỏ gia đình, mường bản
để tái hợp với đạo Hai Mối ở thế giới bên
kia. Nàng Ờm và chàng Bồng Hương thì rủ
nhau lên đỉnh núi Làn Ai chết. Nàng Ờm,
chàng Bồng Hương đã tìm đến lá ngón để
kết liễu cuộc đời của mình với hy vọng ở
thế giới bên kia họ sẽ có cuộc sống lứa đôi
mà họ từng mơ ước. Họ chết nhưng tình
yêu của họ còn sống mãi. Nỗi đau của họ
tăng lên bao nhiêu thì sự gắn bó của mối

tình ấy lại càng quyết liệt bấy nhiêu. Cái
chết của họ không gây cảm giác rùng rợn
mà trái lại, cái chết đó tạo một mối xúc
động mạnh mẽ: “Con biến lên núi Làn Ai /
Câu chuyện của con kéo dài / Chín đời sau
cho bố mẹ làng còn nghe / Mười đời sau
cho truyện nên vè”. Cái chết của họ đã thức
tỉnh bố mẹ nàng. Họ muốn chuộc lỗi, gọi
hồn gọi vía nàng về nhưng nàng vẫn quyết
liệt và một lòng sắt son. Nàng dặn dò bố
mẹ: “Trai gái yêu nhau bố mẹ đừng ngại /
Nước đang chảy không nên ngăn lại / Chớ
có lội qua hại đến thân / Đừng chém những
hàng roi dài / Chớ chặt những hàng roi
thon / Mà khổ số kiếp cho con / Các cô, các

mẹ ơi!”. Niềm xót thương đồng cảm càng
trào dâng khi ta biết rằng những con người
này không phải là những con người cùng
đường, lấy cái chết liều lĩnh để hú họa
người ta, mà chính họ là những con người
bình thường, lạc quan, yêu đời, thiết tha
yêu cuộc sống. Họ quyết liệt dùng cái chết
để thoát khỏi vòng vây của tục lệ và uy
quyền phong kiến. Những khát vọng đơn
giản đó một khi không được thoả mãn thì
bùng lên sức mạnh đấu tranh mãnh liệt,
vạch trần bản chất xấu xa của chế độ phong
kiến. Giá như trong xã hội lúc bấy giờ
không có những tục lệ bất công, những giáo

lý nghiệt ngã thì nàng Nga, nàng Út Lót,
nàng Ờm rồi đến chàng Hồ Liêu, chàng Hai
Mối, chàng Bồng Hương có thể tự do đến
với tình yêu của mình, sống một cuộc sống
hạnh phúc. Hình ảnh của họ tạo nên những
bức tượng đài về khát vọng của con người.
Họ ước mong xã hội mà họ đang sống sẽ
không còn chế độ hôn nhân nghiệt ngã,
những hủ tục ngang trái, bất công. Đó là xã
hội con người được tự do yêu và tự do đến
với nhau, xây dựng một cuộc sống hạnh
phúc. Nhưng điều đó chỉ là giấc mơ vì
trong bối cảnh xã hội bấy giờ không có chỗ
tồn tại cho những tâm hồn vị tha, nhân hậu
và lãng mạn với ý tưởng tốt đẹp như thế.
Thể hiện sâu sắc khát vọng về tình yêu
hạnh phúc, mỗi truyện thơ Mường là một
bài ca về chủ nghĩa nhân đạo. Chính điều
đó đã tạo nên sức sống lâu bền cho tác
phẩm với muôn đời.
4. Kết luận
Có thể khẳng định rằng, truyện thơ
Mường phản ánh khá phong phú những
vấn đề trong xã hội thời xưa, tiêu biểu là
vấn đề tình yêu hôn nhân, số phận người
mồ côi, vấn đề đấu tranh bảo vệ bản
mường.v.v. Trong đó, vấn đề về hôn nhân
34



LÊ THỊ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

gả bán (hôn nhân cưỡng ép) là một trong
những nội dung quan trọng. Qua tác phẩm
Út Lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai Mối, Nàng
Ờm chàng Bồng Hương, truyện thơ Mường
đã xây dựng một cách cụ thể và chân thực
những cuộc hôn nhân oan trái từ sự ép
duyên của cha mẹ. Tiếng nói phê phán, tố
cáo những quan niệm hà khắc, bất công

của xã hội phong kiến và khát vọng mãnh
liệt về tình yêu tự do, hôn nhân hạnh phúc
được cất lên từ chính những cuộc hôn nhân
đầy bi kịch ấy. Chính điều đó khiến cho
những tác phẩm truyện thơ Mường luôn
sống mãi trong đời sống tinh thần người
Mường nói riêng và đồng bào các dân tộc
thiểu số nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cao Sơn Hải (2005). Nàng Nga – Đạo Hai Mối, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
Cao Sơn Hải (2013). Nàng Út Lót – Đạo Hồ Liêu (Tình ca dân tộc Mường – song ngữ),
Hà Nội: NXB Văn hóa dân tộc.
Cao Sơn Hải (2015). Nàng Ờm – Chàng Bồng Hương (Tình ca dân tộc Mường – song
ngữ), Hà Nội: NXB Văn học.
Minh Hiệu, Hoàng Anh Nhân (1986). Tuyển tập truyện thơ Mường Thanh Hóa, Tập 2,
Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.

Hoàng Anh Nhân, Trương Công Nhói (2017). Truyện thơ Mường: Nàng Ờm chàng Bồng
Hương và Anh Loong Choóng, Hà Nội: NXB Hội Nhà văn.
Phan Đăng Nhật (1981). Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước Cách mạng tháng
Tám 1945), Hà Nội: NXB Văn hóa.
Nhiều tác giả. Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc ở Thanh Hoá (1990), Hà Nội: NXB
Văn học.
Lê Trường Phát (1997). Đặc điểm truyện thơ các dân tộc thiểu số, Luận án TS Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Jeane Cuisinier (1995). Người Mường, địa lý nhân văn và xã hội học, NXB Lao động.
Vũ Anh Tuấn (2004). Truyện thơ Tày nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại,
Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bùi Thiên Thai (2015). “Kết cấu quan hệ nhân vật trong truyện thơ dân tộc thiểu số về bi kịch
tình yêu”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (1), tr.34-41.
Bùi Thiện (1995). Tuyển tập truyện thơ dân gian Mường, Hà Nội: NXB Văn hóa dân tộc.
Ngày nhận bài: 10/10/2019

Biên tập xong: 15/02/2020

35

Duyệt đăng: 20/02/2020



×