Tải bản đầy đủ (.pdf) (349 trang)

Luận văn đời sống tôn giáo của tín đồ đạo cao đài trong bối cảnh văn hóa nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.08 MB, 349 trang )

TRƯỜNG………………….
KHOA………………………

LUẬN ÁN TIẾN SỸ
Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài
trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ


1

MỤC LỤC
Trang
Danh mục các bảng biểu .................................................................................... 3
Danh mục các hình vẽ ........................................................................................ 4
Danh mục các sơ đồ ........................................................................................... 5
Dẫn luận ..................................................................................................................... 6
1. Lý do và mục tiêu thực hiện đề tài ................................................................. 6
2. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu ................................................... 8
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài................................................................ 9
4. Những đóng góp mới của luận án ................................................................ 10
5. Bố cục của luận án ........................................................................................ 11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
1.1. Những vấn đề lý luận ....................................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 12
1.1.2. Quan điểm tiếp cận của đề tài ................................................................ 21
1.1.3. Lý thuyết nghiên cứu .............................................................................. 24
1.1.4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề...................................................................... 31
1.2. Tổng quan về đạo Cao Đài ở Nam Bộ ............................................................ 38
1.2.1. Bối cảnh văn hóa Nam Bộ trước khi đạo Cao Đài ra đời....................... 38


1.2.2. Đạo Cao Đài ở Nam Bộ.......................................................................... 45
Chƣơng 2
ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO
CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
2.1. Đức tin của tín đồ Cao Đài .............................................................................. 60
2.1.1. Tin về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người .................................. 60
2.1.2. Tin vào thời mạt kiếp ............................................................................. 66
2.1.3. Tin vào sự giải thoát và sự đọa đày ........................................................ 68
2.2. Sự thờ phụng của đạo Cao Đài ....................................................................... 74


2
2.2.1. Thờ phụng tại Đền thánh ........................................................................ 75
2.2.2. Thờ phụng tại Thánh thất ....................................................................... 78
2.2.3. Thờ phụng tại tư gia ............................................................................... 79
2.3. Tổ chức của đạo Cao Đài ................................................................................. 79
2.3.1. Cơ cấu tổ chức ........................................................................................ 79
2.3.2. Chức năng của tổ chức tôn giáo ............................................................. 94
2.4. Nghi lễ của đạo Cao Đài.................................................................................. 97
2.4.1. Nghi lễ Thiên đạo .................................................................................. 98
2.4.2. Nghi lễ Thế đạo ................................................................................... 112
2.4.3. Chức năng của nghi lễ .......................................................................... 122
Chƣơng 3
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG VĂN HÓA NAM BỘ
VÀ ẢNH HƢỞNG SẮC THÁI CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
3.1. Sắc thái tôn giáo Cao Đài trong văn hóa Nam Bộ ....................................... 142
3.1.1. Văn hóa vật chất ................................................................................... 142
3.1.2. Văn hóa tinh thần ................................................................................. 162
3.1.3. Văn hóa xã hội ...................................................................................... 174
3.2. Đạo Cao Đài ảnh hƣởng sắc thái của văn hóa Nam Bộ .............................. 186

3.2.1. Sự hỗn dung văn hóa ............................................................................ 187
3.2.2. Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa ......................................................... 195
3.2.3. Giữ gìn văn hóa truyền thống ............................................................... 206
Kết luận .................................................................................................................. 216
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 221
Chú thích ................................................................................................................ 236
Phụ lục 1: Quyết định công nhận các chi phái Cao Đài......................................... 247
Phụ lục 2: Trích các cuộc phỏng vấn ..................................................................... 257
Phụ lục 3: Trích nhật ký điền dã ............................................................................ 280
Hình ảnh sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài ......................................... 300


3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT

Nội dung

Số trang

1

Số tín đồ theo đạo Cao Đài được thống kê từ năm 1928 đến
năm 1995

50

2


Số tín đồ có sớ cầu đạo và cơ sở thờ tự của Cao Đài ở Nam Bộ

51

3

Số tín đồ, chức sắc, chức việc và cơ sở thờ tự của các chi phái
vào năm 2007

53

4

Số liệu thống kê đạo Cao Đài ở các tỉnh, thành phố

54

5

Đối phẩm với bậc tu trong đạo

81

6

Đối phẩm với bậc tu trong Hiệp Thiên đài

88

7


Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Phước thiện

173

8

Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Ban Pháp Chánh

174

9

So sách Ban hành lễ của đạo Cao Đài và Ban tế tự ở Đình thần
Nam Bộ

203


4

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Nội dung

STT

Số trang

1


Cách bắt ấn Tý

98

2

Cách cắm nhang từ trên nhìn xuống

99

3

Cách cắm nhang từ bên phải sang

99

4

Cách để hai bàn tay khi lạy

100

5

Tòa thánh Cao Đài

140

6


Bàn thờ trong gia đình của tín đồ Minh Chơn Lý

145

7

Thiên bàn của Tây Ninh, Ban Chỉnh Đạo

149

8

Thiên bàn của Tiên Thiên, Truyền giáo

149

9

Thiên nhãn do ông Ngô Minh Chiêu vẽ

188


5

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Nội dung

STT


Số trang

1

Thiên đường trong giáo lý Cao Đài

67

2

Cách sắp xếp trên bàn thờ Cao Đài

72

3

Chữ Vương trên Thiên bàn

74

4

Sơ đồ Cửu Trùng Đài

74

5

Sơ đồ Hiệp Thiên đài


75

6

Sơ đồ Cửu Trùng Đài sau năm 1930

85

7

Cơ cấu tổ chức của cơ quan Hiệp Thiên Đài

86

8

Sơ đồ tiến hành Đại lễ tại Đền thánh và Thánh thất

96

9

Bàn thờ của phái Minh Chơn Lý

144

10

Sơ đồ chữ Thập trên bàn thờ Chiếu Minh


146

11

Sơ đồ chữ Vương trên Thiên bàn của Chiếu Minh

146

12

Sơ đồ bàn cơ trong gia đình

147

13

Sơ đồ bàn cơ trong Đàn

147

14

Sơ đồ chung của Bàn thờ Chiếu Minh

147

15

Cách sắp đặt các đồ vật trên Thiên bàn


148

16

Hình thức quán đàn tại Đền thánh Tây Ninh

165

17

Sơ đồ tổ chức của cơ quan Phước thiện

173

18

Thiết lập bàn thờ theo cách của ông Ngô Văn Chiêu

188

19

Cách thờ tự trong gia đình tín đồ Cao Đài ở Đồng Nai

191

20

Thân tộc của gia đình Chức việc ở quận 8, TP.HCM


195


6

DẪN LUẬN
1. Lý do và mục tiêu thực hiện đề tài
Nam Bộ là đồng bằng lớn và trù phú ở Việt Nam với diện tích trên
67.000km2. Đây là vùng địa lý có nhiều nét đặc biệt và xã hội mang tính chất mở,
thoáng hơn so với các vùng khác trong cả nước.
Trong lịch sử khẩn hoang, Nam Bộ được xem là vùng đất mới của người
Việt, đầy thách thức với người đi khai hoang, vì là vùng đất hoang vu. Khai phá
đất Nam Bộ là quá trình lao động vất vả và lâu dài của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
Các lưu dân như người Việt là chủ yếu và sau đó là người Khmer, Hoa, Chăm
cùng cư dân bản địa như S’tiêng, Châuro đã đổ mồ hôi, xương máu khai phá vùng
Nam Bộ và biến nó trở thành một trong những vùng trù phú của đất nước như
ngày nay.
Trong quá trình cộng cư, các tộc người ở Nam Bộ cùng hội tụ, cùng chịu sự
chi phối bởi môi trường địa lý – lịch sử, cùng cảnh ngộ, thân phận, trải qua những
khó khăn vất vả trong quá trình chinh phục vùng đất hoang vu… nên họ đã cố kết
với nhau, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Trong quá trình cố kết tộc
người, yếu tố tâm linh được “chia sẻ”, kết quả là hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của
cư dân Nam Bộ luôn nằm trong sự đan xen lẫn nhau, dần dần dẫn đến sự biến đổi
so với yếu tố ban đầu mà các lưu dân mang đến. Sự biến đổi đó đã bổ trợ sự
khiếm khuyết của nhau trong quá trình tồn tại và phát triển, nhờ đó, hệ thống tôn
giáo tín ngưỡng của các cư dân Nam Bộ dần có những điểm chung, bên cạnh
những yếu tố riêng biệt của từng tộc người. Những điểm chung nói trên là kết quả
hoà đồng tôn giáo rất đặc trưng của khu vực Nam Bộ.
Đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ra đời tại khu vực Nam Bộ vào
nửa đầu thế kỷ XX cũng bắt nguồn từ yếu tố hoà đồng tôn giáo đó.

Khi đạo Cao Đài ra đời, Nam Bộ đã trở thành vùng đất màu mỡ:
“Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”


7
Nam Bộ cũng đã trở thành nơi quần tụ của nhiều tộc người, tạo nên một
vùng văn hóa hỗn dung đặc sắc và ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng “cứu thế” của
đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ đã được hình thành và
phát triển hàng trăm năm, nên tôn giáo này đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Nam
Bộ biến thành cái riêng mang tính đặc thù trong tôn giáo của mình như xây dựng
đức tin theo Tam giáo, giáo lý dựa trên nền tảng của các tôn giáo có trước, tổ chức
tôn giáo được sắp đặt theo cơ cấu nhà nước,… và được giải thích theo giáo lý Cao
Đài. Chính điều này, tạo nên sự mới mẻ của một tôn giáo mới, nhưng lại gần gũi
với tín ngưỡng truyền thống của cư dân Nam Bộ, do đó đạo Cao Đài đã thu hút
được nhiều người, đặc biệt là người Việt Nam Bộ tham gia và trở thành tín đồ của
Đạo.
Trên thực tế, sự mới mẻ của đạo Cao Đài vẫn không nằm ngoài bối cảnh
chung của văn hóa Nam Bộ, nó chỉ tích hợp từ những thành tố văn hóa đã có
trước, rồi sắp xếp lại và điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới, nhằm
mục đích thu hút sự chú ý của người dân Nam Bộ lúc bấy giờ. Kết quả là đạo Cao
Đài khi vừa thành lập (năm 1926) đã nhanh chóng phát triển và trở thành một
trong những tôn giáo có số lượng tín đồ đông ở khu vực Nam Bộ.
Đạo Cao Đài đã có những điều chỉnh như thế nào về đức tin, về giáo lý, về
cơ cấu tổ chức, cách hành đạo… để tạo nên sự mới mẻ ở Nam Bộ và trở thành một
trong những tôn giáo có đông tín đồ người Việt tin theo? Nghiên cứu vấn đề này
sẽ lý giải được vai trò tôn giáo trong đời sống của cư dân Nam Bộ và góp phần
tìm ra những yếu tố đặc trưng trong văn hóa Nam Bộ cũng như tính cách của
người Việt Nam Bộ. Hơn nữa, bản thân tác giải luận án là người “trong cuộc”, là

một tín đồ Cao Đài nên tương đối hiểu rõ về tôn giáo này và có hướng tiếp cận dễ
dàng hơn.
Vì lý do trên, chúng tôi chọn “Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài
trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ” làm đề tài luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên
ngành Dân tộc học. Với đề tài này, chúng tôi hướng đến giải quyết các mục tiêu
sau:


8
- Tìm hiểu chức năng tôn giáo trong đời sống của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ.
- Tìm hiểu những đóng góp về mặt văn hóa của đạo Cao Đài đối với văn
hóa Nam Bộ qua đời sống tôn giáo của tín đồ.
- Tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ đối với việc hình thành và phát
triển đạo Cao Đài, cũng như đối với đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài.
- Tìm hiểu một số quan điểm lý thuyết về văn hóa trong nghiên cứu Nhân
học như thuyết Chức năng, các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa, Cấu trúc…
2. Đối tƣợng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ
đạo Cao Đài, do đó đối tượng nghiên cứu là những tín đồ theo đạo Cao Đài, chủ
yếu là tín đồ người Việt. Vấn đề nghiên cứu của đề tài là những hoạt động trong
đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài người Việt như đức tin, thờ phụng, tổ chức,
nghi lễ.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phạm vi Nam Bộ, vì khu
vực này là điểm xuất phát của đạo Cao Đài; hầu hết các Toà thánh, Tổ đình,
Thánh thất của các chi phái trong đạo đều hình thành tại đây. Hơn nữa, Nam Bộ là
vùng văn hóa - lịch sử có nhiều điểm đặc biệt về quá trình tộc người, giao lưu tiếp
biến văn hóa và là nơi ra đời nhiều tôn giáo mới so với các vùng khác ở Việt Nam.
Vì vậy, Nam Bộ là nơi tốt nhất để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đã được
đặt ra cho đề tài này.
- Giới hạn thời gian:

+ Thời gian nghiên cứu: mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về văn
hóa Nam Bộ và ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ trong đời sống tôn giáo của tín
đồ Cao Đài, nên thời gian nghiên cứu của đề tài từ năm 1926 đến năm 2008 (Năm
1926 là năm đánh dấu sự ra đời của đạo Cao Đài. Khi tôn giáo này ra đời đã luôn
bồi đắp, tích tụ sắc thái của văn hóa Nam Bộ qua thời gian và phát triển dần. Năm
2008 là mốc thời gian tạm giới hạn của đề tài nghiên cứu).
+ Thời gian khảo sát: Đề tài được khảo sát trong thời gian 4 năm, từ năm
2004 đến năm 2008 (Năm 2004, khảo sát để xây dựng đề cương nghiên cứu. Từ
năm 2005 đến năm 2008, khảo sát, nghiên cứu để hoàn thành đề tài).


9
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, các phương pháp được thực hiện gồm Quan sát –
Tham dự, Phỏng vấn sâu, So sánh đối chiếu, Thu thập và xử lý thông tin bằng
hình ảnh và Nghiên cứu lịch sử (xét hai phương diện: đồng đại và lịch đại).
- Quan sát – tham dự là phương pháp đặc thù chuyên biệt của ngành Nhân
học, đòi hỏi người nghiên cứu phải tham dự, quan sát, cùng sinh sống và khảo sát
tại cộng đồng mà mình nghiên cứu trong thời gian dài. Khi nghiên cứu đề tài này,
chúng tôi đã thực hiện điền dã dài ngày tại các tỉnh, thành như Tây Ninh, Bến Tre,
Long An, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh. Trong thời gian điền
dã, các lễ hội của Cao Đài như vía Đức Chí tôn, Diêu Trì Kim Mẫu, lễ Khai đạo,
Hôn phối, Tang lễ, cúng Cửu, Nhập môn, Quì hương,… được tổ chức tại Đền
thánh, các Thánh thất, tư gia của tín đồ,… chúng tôi đều tham gia. Mục đích sử
dụng phương pháp này nhằm hướng đến yếu tố tự mình quan sát, cảm nhận và
nắm bắt thông tin trực tiếp từ đối tượng nghiên cứu. Các thông tin này được ghi
lại dưới hình thức Nhật ký điền dã.
- Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin từ các thành viên trong
cộng đồng bằng các cuộc đối thoại có chủ định. Trong quá trình điền dã, phương
pháp này được dùng để phỏng vấn chức sắc, chức việc và tín đồ của đạo Cao Đài.

Thông qua các cuộc phỏng vấn, người được nghiên cứu có thể hiểu và làm rõ
được các nguyên tắc hành đạo, các suy nghĩ, cũng như biết được thân thế, sự
nghiệp, ước vọng, niềm tin của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Thông tin có được
từ các cuộc phỏng vấn có tính khách quan cho đề tài, dùng để phân tích và minh
chứng cho những nhận định trong đề tài bằng hình thức trích dẫn nội dung phỏng
vấn (đưa quan điểm của tín đồ, của người được nghiên cứu vào nội dung khoa
học) bên cạnh ý kiến, nhận định của chúng tôi.
- So sánh đối chiếu là phương pháp được thực hiện trong quá trình điền dã
nhằm so sánh các hoạt động tôn giáo diễn ra trong đời sống tín đồ Cao Đài với các
nhóm cư dân khác để nhận biết những nét tương đồng và dị biệt trong bối cảnh
chung của một vùng văn hóa. Đây được xem là phương pháp có hiệu quả về việc
so sánh và giải thích các hoạt động tôn giáo đang diễn ra ở cộng đồng tín đồ.


10
- Thu thập và xử lý thông tin bằng hình ảnh là phương pháp ghi nhận
thông tin bằng các thiết bị kỹ thuật như máy ảnh, máy quay phim, các bản vẽ…
Các thông tin này được phân tích, lý giải nhằm minh chứng cho các nhận định của
chúng tôi về hoạt động tôn giáo của tín đồ Cao Đài Nam Bộ.
- Nghiên cứu lịch sử (đồng đại và lịch đại) là một trong những phương
pháp nghiên cứu, phân tích các dạng tài liệu thư tịch, tư liệu điền dã để tìm hiểu
các sự kiện đã diễn ra theo thời gian lịch sử nhằm tìm hiểu cội nguồn, những bước
tiến triển, các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài trong
không gian cụ thể là Nam Bộ. Phương pháp này giúp phân tích, lý giải những tư
liệu thu thập được trong điền dã Dân tộc học.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp emic, etic khi trình bày nội
dung khoa học của luận án. Sử dụng emic là đưa tiếng nói của người trong cuộc,
người được phỏng vấn, dưới dạng trích dẫn đóng trong khung vào nội dung để
chứng minh cho các nhận định trong luận án. Etic là quan điểm của người nghiên
cứu bày tỏ ý kiến đồng ý hoặc không đồng ý với những nhận định của người trong

cuộc. Sử dụng phương pháp này nhằm có sự so sánh, đối chiếu những nhận định
của tác giả với ý kiến của đối tượng nghiên cứu trong luận án.
4. Những đóng góp mới của luận án
Dưới góc độ nghiên cứu Dân tộc học về đời sống tôn giáo của cộng đồng tín
đồ Cao Đài, luận án thể hiện một số đóng góp mới như:
- Tập hợp các nguồn tư liệu (tư liệu thành văn, tư liệu điền dã) thành hệ
thống để phân tích, làm rõ quá trình ra đời, phát triển và phân hóa của đạo Cao
Đài ở Nam Bộ một cách dễ hiểu so với những công trình đã công bố trước đây.
Miêu tả tỉ mỉ các nghi lễ, cơ cấu tổ chức, cách hành đạo của tín đồ Cao Đài nhằm
tìm ra những chức năng của nó trong đời sống tôn giáo của tín đồ.
- Công bố nhiều tư liệu mới, chủ yếu là tư liệu điền dã của tác giả về các
hoạt động của đạo Cao Đài.
- Các thông tin được sơ đồ hóa dưới dạng bảng, bản vẽ và hình ảnh cụ thể.
- Dùng tư liệu điền dã Dân tộc học để chứng minh đạo Cao Đài ảnh hưởng
nhiều yếu tố của văn hóa Nam Bộ và cũng chứng minh đạo Cao Đài đã có những


11
đóng góp không nhỏ trong việc góp phần tạo nên sắc thái đặc trưng cho văn hóa
Nam Bộ từ nửa sau thế kỷ XX.
- Nội dung nghiên cứu về đạo Cao Đài góp phần bổ sung lý thuyết về tôn
giáo, tôn giáo bản địa và các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa của ngành Dân
Tộc học, Nhân học.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần dẫn luận, luận án gồm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận của việc nghiên cứu và tổng quan về đạo
Cao Đài ở Nam Bộ. Nội dung trình bày những tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu,
trong đó làm rõ các khái niệm liên quan như tôn giáo, phân loại tôn giáo, đời sống
tôn giáo; và đưa ra các hướng nghiên cứu, các lý thuyết để áp dụng cho việc phân
tích, giải quyết vấn đề; ngoài ra, trong luận án còn trình bày bối cảnh văn hóa

Nam Bộ và quá trình hình thành phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
- Chương 2: Đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ. Nội dung hệ
thống hóa thông tin về đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ với các nội
dung được trình bày như đức tin, thờ phụng, tổ chức tôn giáo, lễ nghi và giải thích
về mục đích, nhu cầu và chức năng tôn giáo trong đời sống của tín đồ đạo Cao
Đài.
- Chương 3: Đóng góp của đạo Cao Đài trong văn hóa Nam Bộ và ảnh
hưởng sắc thái của văn hóa Nam Bộ. Nội dung trình bày đạo Cao Đài góp phần
làm đa dạng đặc trưng cho văn hóa Nam Bộ và phân tích đạo Cao Đài đã ảnh
hưởng nhiều từ văn hóa Nam Bộ, qua đó chứng minh văn hóa Nam Bộ có những
ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài.
- Kết luận: Đúc kết các kết quả nghiên cứu từ ba chương và nêu những nhận
xét tổng kết của luận án.


12

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm
Nghiên cứu đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ, chúng tôi
trình bày một số khái niệm liên quan đến đề tài như Tôn giáo, cách phân loại tôn
giáo và đời sống tôn giáo, nhằm định hướng cho việc tiếp cận, nghiên cứu và giải
quyết vấn đề liên quan đến đề tài.
* Tôn giáo
Do luận án thuộc lĩnh vực Nhân học tôn giáo nên chúng tôi trình bày khái
niệm tôn giáo theo quan điểm Dân Tộc học và Nhân học là cơ sở lý luận để thực
hiện đề tài.

Tôn giáo là một khái niệm phức tạp với nhiều cách định nghĩa khác nhau.
E.B. Tylor cho rằng tôn giáo là “niềm tin vào các thực thể tinh thần” [194:22];
còn E. Durkheim thì cho “Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những
niềm tin và những thực hành liên quan đến những điều thiêng liêng, nghĩa là sự
tách biệt, cấm đoán, những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập
vào một cộng đồng đạo đức, được gọi là Giáo hội” [66:60]. Anthony F.C. Wallace
xem “Tôn giáo là tập hợp những nghi lễ, đã được biện minh bằng thần thoại,
động viên sức mạnh siêu nhiên nhằm mục đích đem lại biến đổi hoặc đề phòng
biến đổi cho con người và tình trạng tự nhiên” [29:276]. Theo Max Weber thì
“Tôn giáo đặc biệt tác động đến cộng đồng. Tôn giáo gắn kết những thế lực siêu
nhiên. Quy định các mối quan hệ giữa các thế lực của chúng với những con người
tạo thành lĩnh vực của những hoạt động tôn giáo” [176:68]. Clifford Geertz đưa
ra định nghĩa “Tôn giáo là một hệ thống các biểu tượng có tác dụng tạo ra những
trạng thái mạnh mẽ, lan tỏa, kéo dài và những động cơ trong những con người
bằng cách trình bày có hệ thống những quan niệm về một trật tự tồn tại chung và


13
che phủ những quan niệm này bằng một thực tế tỏa ra rằng những tình trạng và
những động cơ dường như là hiện thực duy nhất” [194:23]. Theo định nghĩa này,
Clifford Geertz quan niệm tôn giáo như là sự truyền thông, trong đó những biểu
tượng của tôn giáo sẽ chứa đựng những tín ngưỡng tổng hợp mà cộng đồng quan
niệm về thế giới siêu linh. Cùng quan điểm với Clifford Geertz, Meford Spiro cho
rằng “Tôn giáo là một thiết chế bao gồm sự tương tác mang tính hình mẫu văn
hóa với những siêu linh được mặc nhận bởi văn hóa”. Nhưng Rohin Horton lại
không đồng ý với quan điểm “tôn giáo là biểu tượng” của C. Geertz và M. Spiro,
khi cho rằng “Tôn giáo là một sự mở rộng lĩnh vực những quan hệ của con người
ra bên ngoài những hạn chế của xã hội loài người đơn thuần, trong đó con người
nhìn nhận mình như một sinh vật trong mối quan hệ phụ thuộc với tính phi nhân”
[194:23]. Theo định nghĩa này, R. Horton nhìn tôn giáo cùng quan điểm với E.

Durkheim, cùng cho rằng tôn giáo như một sự mở rộng các quan hệ phức tạp của
con người trong xã hội. F.Engels cũng cùng quan điểm này khi cho rằng “Tôn
giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài
nhằm đền bù cho những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày”
[2:437-438]. Trong khi đó K.Marx lại cho rằng “Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó
là tinh thần của những trật tự không có tin thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân” [110:33]. Quan điểm của K.Marx, xem tôn giáo như là sự cứu rỗi (một trái
tim, một tinh thần) của những con người đang sống trong sự khủng hoảng, không
mang nghĩa của sự phê phán tôn giáo. Tại Việt Nam, nhà Dân tộc học Đặng
Nghiêm Vạn cho rằng tôn giáo ra đời để phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên
ngoài khi nói “Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang
tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách
siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng
như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng
thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung
từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác
nhau của từng cộng đồng xã hội/tôn giáo khác nhau” [176:167].


14
Từ các định nghĩa trên cho thấy tôn giáo là sản phẩm của con người. Con
người sáng tạo ra tôn giáo rồi chịu sự chi phối của tôn giáo tác động lại trong cuộc
sống. Tôn giáo ra đời nhằm lý giải những hiện tượng “kỳ lạ” xảy ra xung quanh
cuộc sống con người, phản ảnh hiện tượng xã hội và cũng là một nơi cứu rỗi của
con người trong xã hội bằng một thế giới siêu thoát (thế giới bên kia).
Khi ý niệm về một thế giới bên kia ra đời cũng là lúc tôn giáo được hình
thành. Do vậy, các nhà khoa học khi định nghĩa về tôn giáo thường nhấn mạnh
đến “tính thiêng liêng”, một “niềm tin về tính siêu thực” về một “thế giới vô
hình”. Niềm tin siêu thực ấy là chỗ dựa tinh thần của con người khi gặp khủng

hoảng trong cuộc sống và đây cũng là yếu tố để tôn giáo ra đời, tồn tại và phát
triển trong xã hội loài người.
Khi nghiên cứu về tôn giáo, các nhà khoa học thường xem tôn giáo gắn liền
với 3 yếu tố: niềm tin, nghi lễ và những người thực hành nghi lễ tôn giáo. Trong
luận án này, để nghiên cứu đạo Cao Đài, chúng tôi cũng kế thừa, vận dụng nội
dung các khái niệm trên và cũng dựa vào ba yếu tố: niềm tin, nghi lễ, và những
người thực hành nghi lễ tôn giáo.
- Niềm tin tôn giáo là tin vào yếu tố “thiêng” liên quan đến thế giới vô
hình, đến những siêu linh do con người tưởng tượng và sáng tạo ra. Đây là niềm
tin siêu lý, không dựa vào lý tính và thực nghiệm, niềm tin được cảm nhận, hoặc
theo truyền thống kinh nghiệm để dần khẳng định tính vững chắc của nó [167:9495]. Niềm tin này có thể dựa vào huyền thoại để tạo nên những vị thần như thần
sáng tạo, thần sấm, thần sét, thần mưa… hay loại hình tôtem nào đó để rồi dẫn
đến việc tôn sùng, tín ngưỡng, chiêm bái. Niềm tin cũng có thể dựa trên triết lý
“đối lập” về cuộc sống hiện tại bằng “một thế giới bên kia”. Nhìn chung, niềm tin
tôn giáo là niềm tin vào thế giới hư ảo, siêu thực với các đấng siêu linh có khả
năng chi phối cuộc sống của con người trần thế. Đây là niềm tin không cần thực
nghiệm và niềm tin trong đạo Cao Đài cũng được thể hiện như trên.
- Nghi lễ tôn giáo là những hành vi của con người nhằm biểu hiện niềm tin
tôn giáo của mình. Bất cứ một tôn giáo nào, dù sơ khai hay phát triển, đều có
những hành vi liên quan đến niềm tin, mà nghi lễ là một trong những hành vi quan


15
trọng đó. Nghi lễ được thực hiện với tư cách cá nhân hay dưới hình thức cộng
đồng.
Nghi lễ tôn giáo được thực hành thường gắn liền với một thực thể siêu linh
hay một thế giới vô hình nào đó liên quan đến niềm tin tôn giáo hoặc do tôn giáo
qui định và thường biểu hiện chức năng tâm lý trong đời sống của tín đồ. Nghi lễ
có thể dùng để giải tỏa những nỗi bất an của con người ở cuộc sống trần tục, cũng
có thể đưa con người đến gần hơn với thế lực siêu nhiên mà họ tin tưởng

[176:130].
Nghi lễ được thực hiện theo nhiều cách như tuân thủ theo chu kỳ thời gian
(được tổ chức theo năm, tháng của Dương lịch hoặc Âm lịch), theo chu kỳ đời
người (nghi lễ vòng đời) hoặc những nghi lễ riêng lẻ do từng tôn giáo qui định.
Nghi lễ cũng là hình thức giúp tăng cường sức mạnh của cộng đồng (Rite of
intensification), như nhận định của nhà nhân nhọc William A. Haviland khi cho
rằng “Nghi lễ được thực hiện trong thời kỳ khủng hoảng hay biến cố lớn nào đó
của cộng đồng cư dân, mục đích để giúp cho mọi thành viên trong cộng đồng đó
gắn bó với nhau hơn” [236:358]; hoặc nghi lễ còn mang mục đích đánh dấu sự
chuyển đổi của thời gian và chuyển đổi vị thế của con người trong xã hội như
nghiên cứu của Anorld Van Gennep với tiêu đề Rites of Passage (các nghi lễ
chuyển đổi). Ngoài ra, nghi lễ được thực hiện còn phản ánh thực tại của xã hội,
nơi con người đang sinh sống.
Nghi lễ được thực hiện thường biểu hiện qua các yếu tố như:
+ Tạo bối cảnh: để mở đầu cho nghi lễ là một trong số hoạt động liên quan
đến việc nhập lễ (valoriation) hoặc thiêng liêng hóa (sacralization) đối với các
hiện vật tôn giáo nhằm làm thay đổi chức năng thông thường hàng ngày của nó.
+ Nghi thức hưởng thụ phong phú (liên quan đến thực phẩm và đồ uống):
chuẩn bị nhiều đồ ăn, thức uống dưới hình thức bữa tiệc nhằm thể hiện sự hưởng
thụ phong phú mang tính phồn thịnh.
- Gắn liền với nghi lễ tôn giáo là những người thực hành nghi lễ. Những
người này có thể được chia thành ba hình thức: người hành lễ chuyên nghiệp,
người hành lễ bán chuyên nghiệp và người hành lễ thông thường [29:300].


16
+ Người hành lễ chuyên nghiệp là những người có tri thức, kỹ thuật và
năng lực tôn giáo. Họ được đào tạo hoặc tu luyện trong tôn giáo. Họ có chức năng
chuyên môn về tôn giáo, nắm rõ những nguyên tắc, giáo luật và điều lệ của tôn
giáo. Họ có thể là mục sư, linh mục, nhà sư, người chủ lễ… trong các tôn giáo

đương thời.
+ Người hành lễ bán chuyên nghiệp là những người được tin rằng họ có
mối quan hệ trung gian giữa thế giới trần tục với thế giới thần linh. Thông qua họ,
thần linh có thể tiếp xúc được với con người trần tục; thần linh có thể chữa bệnh,
ban bùa, phép bình an cho người trần tục. Những người này thường được gọi là
shaman. Shaman có thể là thầy phù thủy, thầy mo, thầy cúng, bà đồng, bà bóng…
Họ được gọi là những người hành lễ bán chuyên nghiệp vì khi kết thúc những
buổi lễ, họ lại trở thành những con người bình thường trong cuộc sống.
+ Người hành lễ thông thường là những người chưa hoặc không có chức
phận tôn giáo, nhưng lại có niềm tin và thực hành nghi lễ tôn giáo. Họ có thể là tín
đồ hoặc người dân bình thường, chưa được đào tạo sâu về chuyên môn trong tôn
giáo như những người hành lễ chuyên nghiệp, hoặc cũng không thể trở thành
những người trung gian cho thế giới thần linh như những vị shaman. Người hành
lễ thông thường chỉ dựa vào niềm tin tôn giáo mà hành lễ hàng ngày hoặc theo chu
kỳ thời gian. Họ vẫn giữ cuộc sống đời thường như những con người bình thường
khác trong xã hội.
Như vậy, những người thực hành nghi lễ kể trên là những người có vai trò
gìn giữ và phát triển tôn giáo trong xã hội, thông qua họ mà tôn giáo phát triển và
gắn chặt với cộng đồng xã hội. Điều này cũng được thấy rõ trong đạo Cao Đài.
Từ những phân tích trên cho thấy, tôn giáo là sản phẩm của con người, do
con người sáng tạo ra nhằm làm chỗ dựa về tinh thần khi gặp những khủng hoảng
trong cuộc sống.
* Cách phân loại tôn giáo
Theo nhiều nguồn tài liệu thư tịch, hiện nay có nhiều cách phân loại tôn
giáo. Trong khoa học Mác-xít, tôn giáo được chia thành hai loại: Tôn giáo của chế
độ tiền giai cấp (công xã thị tộc) và Tôn giáo của những xã hội có giai cấp. X.A.


17
Tôcarev cho rằng, trong xã hội có giai cấp, tôn giáo là công cụ tư tưởng của ách

áp bức giai cấp, là sự biện hộ cho bất bình đẳng xã hội; còn trong xã hội tiền giai
cấp, tôn giáo là sự phản ánh về tư tưởng, trình độ phát triển nhất định của nền sản
xuất vật chất và thể hiện sự bất lực của người nguyên thủy trước hoàn cảnh tự
nhiên và xã hội quanh họ [232:18]. Robert N. Bellah phân loại tôn giáo theo loại
hình tiến hóa về thời gian. Ông phân tôn giáo thành các loại: Tôn giáo nguyên
thủy, Tôn giáo tiền sử, Tôn giáo lịch sử, Tôn giáo cận đại, Tôn giáo hiện đại
[66:275-307].
- Tôn giáo nguyên thủy chỉ là những đặc trưng của “thế giới thần thoại”.
Hành động của tôn giáo nguyên thủy là sự tham gia đồng nhất của cộng đồng cùng
hóa thân thành các nhân vật thần thoại để tái dựng lại thế giới thần thoại.
- Tôn giáo tiền sử là sự tiến hóa của tôn giáo nguyên thủy. Những nhân vật
thần thoại lúc này được đặc trưng hóa một cách rạch ròi, được nhìn nhận là có vai
trò trong việc cai quản thế giới tự nhiên và xã hội của con người một cách chủ
động. Hành động của tôn giáo tiền sử là hình thái cúng tế dành cho các vị thần,
thánh, được nhân cách hóa từ những nhân vật thần thoại trong loại hình tôn giáo
trước.
- Tôn giáo lịch sử được biểu hiện rất khác nhau ở mỗi cộng đồng tộc người.
Trong triết lý của tôn giáo lịch sử có xuất hiện thế giới siêu nhiên cao hơn thế giới
trần tục và nắm quyền cai quản thế giới trần tục. Nơi đó có “giáo chủ” vượt ra
ngoài vòng sinh tử và là người sáng tạo, cai quản vũ trụ. Hành động trong tôn giáo
lịch sử sẽ mang tính “cứu rỗi” con người, qua đó lại xuất hiện những tổ chức tôn
giáo tách biệt với các tổ chức xã hội thông thường. Tổ chức tôn giáo nhằm hướng
con người đến với phương thức cứu rỗi trong tôn giáo. Tùy thuộc vào từng tôn
giáo mà có các tổ chức và hành động tôn giáo khác nhau.
- Tôn giáo cận đại là sự phân hóa của tôn giáo lịch sử. Nội dung tập trung
vào mối quan hệ trực tiếp giữa các cá nhân với các thực thể siêu việt. Một số loại
hình lễ nghi trong tôn giáo lịch sử bị loại bỏ vì cho rằng “mê tín”, hoặc chuyển thể
thành một hình thức khác giống như lễ “tưởng niệm”. Sau tôn giáo cận đại sẽ là



18
tôn giáo hiện đại và Robert N. Bellah cho rằng tôn giáo hiện đại vẫn đang nằm
trong “bước chuyển” nên chưa thể xác định rõ ràng.
Nếu Robert N. Bellah phân loại tôn giáo theo thời gian, một số nhà nghiên
cứu khác [65][176][232] lại phân loại tôn giáo theo không gian. Theo đó, tôn giáo
được phân thành: Tôn giáo dân tộc, Tôn giáo khu vực, Tôn giáo thế giới, Tôn giáo
bản địa.
- Tôn giáo dân tộc là những tôn giáo được hình thành trong xã hội có giai
cấp, trong khuôn khổ của những quốc gia nhất định và những cộng đồng nhất
định, không vượt ra ngoài khuôn khổ đó thì được xem (một cách qui ước) là tôn
giáo dân tộc. Các tôn giáo dân tộc có thể kể đến như Đạo giáo, Nho giáo (ở Trung
Quốc), Shinto giáo (ở Nhật), Do Thái giáo (ở người Do Thái)…[232:20-21].
- Tôn giáo khu vực là các tôn giáo có nội dung mang tính phổ quát, không
gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, các nghi thức cụ thể của
cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định. Các tôn giáo này được
phổ biến bằng con đường chiến tranh hay hòa bình, được các quốc gia đã bị lệ
thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận, rồi trên nền tảng
tôn giáo truyền thống biến đổi thành tôn giáo của riêng quốc gia đó [176:49].
- Tôn giáo thế giới là những tôn giáo có phạm vi phát triển vượt ra ngoài
quốc gia, nơi nó ra đời và được nhiều cộng đồng tộc người chấp nhận. Hiện nay,
các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Islam, Tin Lành được xem là tôn giáo thế
giới vì nó phát triển rộng khắp trên thế giới và được nhiều tộc người khác nhau
chấp nhận.
- Tôn giáo bản địa (Chú thích – CT:1) là tôn giáo mang sắc thái địa
phương, xuất hiện trong một bối cảnh môi trường thiên nhiên và môi trường xã
hội tại chỗ, một thời điểm lịch sử nhất định, của một dân tộc cụ thể và mang dấu
ấn kinh tế-văn hóa-xã hội của dân tộc đó. Tôn giáo bản địa chỉ của riêng một bộ
phận cư dân trong dân tộc, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô
toàn lãnh thổ. Nội dung của khái niệm tôn giáo Tôn giáo bản địa rất gần với khái
niệm Tôn giáo dân tộc, có thể là một nhưng có khi là hai. Tôn giáo dân tộc (ví dụ

đạo Shinto của Nhật Bản) phổ biến toàn thể một dân tộc với tâm thức chung,


19
nhưng Tôn giáo bản địa (có thể gọi là tôn giáo địa phương) chỉ của một bộ phận
cư dân trong dân tộc đó, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô toàn
lãnh thổ và không phải tất cả hoặc hầu hết mọi người trong dân tộc đó đều theo
như Tôn giáo dân tộc.
Tại Nam Bộ, Tôn giáo bản địa chủ yếu là của người Việt, do một bộ phận
người Việt sáng tạo ra và mang tính hỗn dung (syncretisme) do ảnh hưởng giáo lý
cũng như sắc thái văn hóa, tâm lý của các tôn giáo khác và các dân tộc khác… Sự
hỗn dung trong tôn giáo bản địa ở Nam Bộ như là đạo Cao Đài cũng có gốc rễ sâu
xa và chịu sự chi phối, tác động trực tiếp của những tiền đề kinh tế-văn hóa-xã hội
và lịch sử của vùng đất Nam bộ.
Ngoài ra, một số tài liệu khác [53][54][65] còn phân tôn giáo thành các
dạng như: tôn giáo hỗn hợp, tôn giáo mới… Trong đó:
- Tôn giáo hỗn hợp là tôn giáo xây dựng giáo lý và cả cơ cấu của mình dựa
trên khuôn mẫu của nhiều tôn giáo đã có từ trước, có thể là vì chịu ảnh hưởng xã
hội của các tôn giáo kia, cũng có thể vì muốn dễ thu hút tín đồ mới trong quần
chúng tín đồ các tôn giáo cũ đã mang thói quen tín ngưỡng không dễ sửa bỏ
[54:648].
- Tôn giáo mới, gọi chung là “đạo lạ”, “đạo mới”, “tạp giáo”… là các tôn
giáo xuất hiện từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX trở lại đây, trong đó có nhiều tôn giáo
bị ghi vào “danh sách đen” của chính quyền nhiều nước vì được coi là thủ phạm
của các hoạt động gây bất ổn cho xã hội. Tôn giáo mới có thể chia thành bốn loại
dựa trên tính đặc thù hoạt động của nó là: Phong trào thờ cúng, Phong trào thánh
linh mới giáng lâm, Phong trào tà giáo đương đại và Phong trào tu luyện thân
tâm [54:648-650].
Tóm lại, theo các nguồn tài liệu thư tịch, tôn giáo hiện nay được chia thành
nhiều loại hình khác. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở Việt Nam và

nước ngoài, đạo Cao Đài ở Nam Bộ mà chúng tôi chọn để nghiên cứu cho luận án
tiến sĩ thuộc loại hình Tôn giáo bản địa.


20
* Đời sống tôn giáo
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Đời sống có nghĩa là toàn
bộ những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của con người, của xã hội hay toàn
bộ những điều kiện sinh hoạt của con người, của xã hội [177:348]. Trong quyển
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, xuất bản năm 1994, Đời sống có nghĩa là
hoạt động về một mặt nào đó của một xã hội, cá nhân [118:319]. Như vậy, đời
sống tôn giáo có thể hiểu là những hoạt động liên quan đến tôn giáo của con
người, của xã hội. Những hoạt động này có thể bao gồm: hoạt động tôn giáo, hoạt
động tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, hội đoàn tôn giáo… Theo pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo của Quốc hội Việt Nam ban hành 2004 [17:8-9], thì:
- Hoạt động tôn giáo có nghĩa là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
- Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm
và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh,
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
- Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo
lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công
nhận.
- Hội đoàn tôn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra
nhằm phục vụ hoạt động tôn giáo.
Ngoài ra, theo Từ điển Bách khoa về tôn giáo (Encyclopedia of Religion),
“đời sống tôn giáo bao hàm toàn bộ các quan hệ nội bộ của tôn giáo và các quan
hệ giữa tôn giáo với xã hội”.
Như vậy có thể hiểu, đời sống tôn giáo bao gồm những hoạt động cũng

như các mối quan hệ trong tôn giáo của con người, của xã hội. Do đó, khi nghiên
cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ, chúng tôi chỉ xét đến
các khía cạnh liên quan đến hoạt động tôn giáo, cũng như các mối quan hệ trong
tôn giáo của tín đồ Cao Đài qua các vấn đề như đức tin tôn giáo, phụng thờ trong
tôn giáo, tổ chức tôn giáo và các nghi lễ tôn giáo của đạo Cao Đài. Trong vấn đề


21
hoạt động tôn giáo, đạo Cao Đài giai đoạn trước năm 1975 còn có những khía
cạnh khác như việc xây dựng và phát triển quân đội, hệ thống phát thanh, trường
học, sự xung đột giữa các chi phái…, chúng tôi không đề cập đến trong luận án
này, vì không thuộc phạm vi nghiên cứu.
1.1.2. Quan điểm tiếp cận của đề tài
Chúng tôi nhận thức, tôn giáo là một thành tố của văn hóa, bởi tôn giáo là
sản phẩm của con người, do con người sáng tạo nên. Do đó, khi nghiên cứu về đời
sống tôn giáo của cộng đồng tín đồ, chúng tôi chú trọng đến các hướng tiếp cận
sau:
* Bối cảnh văn hóa
Bối cảnh văn hóa là nhân tố quan trọng cho việc hình thành và phát triển
tôn giáo, đặc biệt chúng tôi quan tâm đến bối cảnh biến đổi văn hóa của tộc người,
vì ngoài yếu tố phát triển nội tại do ảnh hưởng văn hóa trong khu vực, trong xã hội
hiện đại còn có sự tác động của nhiều yếu tố khác như sự thay đổi về môi trường
sống (gồm môi trường tự nhiên và xã hội) của tộc người, sự tiếp xúc giữa các tộc
người khác nhau thông qua hôn nhân, buôn bán, lao động, di cư, truyền đạo…
Những biến đổi này có thể xét trên hai tính chất của văn hóa là tính truyền thống –
hiện đại và tính cộng sinh văn hóa. Trong đó, tính truyền thống – hiện đại được
dựa trên cơ sở tích lũy, lưu truyền và tái tạo những giá trị của văn hóa trong cộng
đồng. Một nền văn hóa không bao giờ tồn tại trong sự bất biến, mà luôn trải qua
những biến đổi, nhất là trong thời kỳ hòa nhập vào hệ thống xã hội hiện đại, khi
các dân tộc không còn sống riêng biệt và khi quan hệ sản xuất hàng hóa, lối sống

đô thị và sự thay đổi về quan hệ giáo dục không ngừng tác động vào các đặc điểm
truyền thống tộc người. Do đó, nghiên cứu tôn giáo cần chú trọng đến sự biến đổi
của bối cảnh văn hóa, nhất là chú trọng đến khía cạnh truyền thống – hiện đại
trong văn hóa, nghĩa là nghiên cứu văn hóa truyền thống trong sự biến đổi, đổi
mới của nó. Quy luật của sự vận động, biến đổi sẽ bảo đảm cho văn hóa tồn tại
liên tục, không ngưng đọng. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm đến tính cộng
sinh văn hóa. Sự cộng sinh văn hóa phổ biến nhất là cộng sinh giữa hai yếu tố văn
hóa nội sinh và văn hóa ngoại sinh [75:110]. Trong lịch sử phát triển của tộc


22
người bao giờ cũng có quá trình hoạt động nội tại của văn hóa, được gọi là văn
hóa bản địa- tức là yếu tố nội sinh, ngoài ra còn có yếu tố do tiếp nhận và ảnh
hưởng từ bên ngoài, gọi là ngoại sinh. Khi các yếu tố văn hóa ngoại sinh hòa nhập
với các yếu tố văn hóa nội sinh và lâu dần yếu tố ngoại sinh sẽ có xu hướng nội
sinh hóa. Nói khác đi, đó là yếu tố ngoại sinh được nội sinh hóa. Trong quá trình
phát triển văn hóa tộc người, yếu tố nội sinh luôn đóng vai trò chủ đạo, nó củng cố
nền tảng bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc đó. Trên nền tảng văn hóa nội
sinh, yếu tố văn hóa ngoại sinh du nhập vào sẽ được sàng lọc, chọn lựa để làm
phong phú thêm cho nền văn hóa bản địa.
Trong tôn giáo cũng vậy, sự biến đổi về mặt văn hóa cũng dẫn đến sự biến
đổi về mặt tôn giáo. Ví dụ một tôn giáo cũng sẽ có những biểu hiện niềm tin, hành
vi tôn giáo khác nhau khi nó được truyền sang những nền văn hóa khác. Nguyên
nhân của sự biến đổi văn hóa là do “sự thẩm thấu” qua bức màn văn hóa bản địa
và bị chi phối bởi yếu tố bản địa trong văn hóa tộc người. Trong lịch sử tôn giáo,
mỗi tộc người sẽ có cách biểu hiện niềm tin tôn giáo theo hành vi văn hóa của
mình. Đạo Bàni ở người Chăm miền Trung Việt Nam là một ví dụ. Khi đạo Islam
được truyền bá vào người Chăm miền Trung, một thời gian sau nó bị chi phối bởi
những yếu tố bản địa để trở thành một đạo Bàni khác xa so với đạo Bà La môn
hoặc Islam chính thống; hay như đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ khi truyền sang

Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á cũng bị biến đổi rất nhiều,
sự biến đổi đó gọi là “bản địa hóa” mà một trong những nguyên nhân chính là do
văn hóa bản địa của tộc người chi phối. Theo quan niệm của các nhà khoa học thì
tôn giáo sẽ khác nhau ở mỗi giai đoạn lịch sử, ở mỗi vùng, mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia… kể cả tôn giáo có cùng nguồn gốc xuất phát. Nguyên nhân của sự khác nhau
đó là do sự chi phối của nhiều yếu tố, từ yếu tố văn hóa của cộng đồng- xã hội đến
yếu tố tự nhiên, yếu tố của không gian và thời gian.
Từ những phân tích trên, quan điểm của chúng tôi khi nghiên cứu về đời
sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ là luôn tìm hiểu ở trạng thái động. Do
bởi, động thái văn hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa, trong đó có yếu tố văn hóa
truyền thống bền vững được giữ lại, có yếu tố mất đi, có yếu tố được tái tạo, có


23
yếu tố biến đổi, cách tân v.v… Nghiên cứu dưới góc độ này, chúng tôi muốn lý
giải những hiện tượng biến đổi về yếu tố văn hóa trong đạo Cao Đài và qua đó
nhấn mạnh đến yếu tố thích nghi của tín đồ Cao Đài trong khu vực.
* Nhu cầu tôn giáo của con người
Theo các quan điểm đã phân tích, tôn giáo ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu
tinh thần của con người trong xã hội. Trong xã hội nguyên thủy, con người yếu
đuối trước sức mạnh thiên nhiên, cũng như bất lực trong quan hệ xã hội, thường
phải cầu viện vào những hình thái tôn giáo như tôtem, ma thuật (phép màu, bùa,
yểm…), đạo phù thủy hay shaman giáo, để cầu cứu thần linh giúp họ tăng thêm
sức mạnh, vượt qua những khó khăn, cũng như chiến thắng những bệnh tật, thiên
tai và kẻ thù. Đến xã hội có giai cấp, mỗi dân tộc, tộc người, tổ chức xã hội, văn
hóa, cộng đồng huyết thống, cá nhân… vẫn cầu viện đến thần linh, đến các thế lực
siêu nhiên phù trợ cho cộng đồng được phát triển, cho cá nhân được che chở,
chống lại thiên tai và những bất công, rủi may trong cuộc sống [176:169]. Như
vậy, tôn giáo ra đời chính là chỗ dựa tinh thần khi con người gặp những khủng
hoảng không thể giải quyết được trong cuộc sống hàng ngày. Nhu cầu này không

phải ngẫu nhiên có, mà do điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội tạo nên.
Từ nhận định trên, chúng tôi cố gắng tìm hiểu nhu cầu của người dân Nam
Bộ ở đầu thế kỷ XX về sự ra đời của một tôn giáo mới như đạo Cao Đài nói riêng
và các tôn giáo khác nói chung.
* Quan điểm giới trong tổ chức tôn giáo
Giới là khái niệm được dùng để chỉ địa vị và vai trò của con người mang
giới tính khác nhau trong xã hội theo qui định của nền văn hóa [195:108]. Mỗi nền
văn hóa khác nhau sẽ có những qui định khác nhau về vai trò và địa vị cụ thể của
nam và nữ trong xã hội. Sự khác nhau là do văn hóa trong xã hội đó qui định. Văn
hóa còn qui định đến sự khác biệt giới trong cấu trúc xã hội của các tôn giáo trên
thế giới. Các nhà khoa học đã chứng minh, ở những nơi có sự bình đẳng về giới
thì vai trò của phụ nữ ngang với nam giới trong việc thực hiện những nghi lễ tôn
giáo. Ở những xã hội theo chế độ phụ hệ, coi trọng nam giới, thì vai trò của người
phụ nữ trong cấu trúc xã hội tôn giáo bị hạn chế [195:124]. Trong xã hội Islam,


24
phụ nữ rất hạn chế về việc thực hành tôn giáo. Họ không được đến Thánh đường
hành lễ như nam giới, chỉ hành lễ tại nhà; nếu đến Thánh đường cũng không thể
đứng hành lễ ở những vị trí trang trọng như nam giới. Họ không được quyền nắm
giữ chức vụ trong tôn giáo. Hoặc trong các tôn giáo lớn khác như Công giáo, Phật
giáo, Tin lành… vai trò của phụ nữ không thể sánh ngang với nam giới. Họ cũng
không có những chức danh tôn giáo như nam giới. Nguyên nhân của vấn đề này là
do qui định của xã hội, trong đó có sự chi phối từ yếu tố văn hóa.
Cao Đài là một tôn giáo được ra đời trong xã hội hiện đại, vậy yếu tố giới
trong tổ chức tôn giáo như thế nào, ở mức độ nào? Chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu,
lý giải các hiện tượng giới trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ.
1.1.3. Lý thuyết nghiên cứu
Từ việc xác định các hướng tiếp cận nêu trên, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi vận dụng một số lý thuyết sau:

* Các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa
Vùng văn hóa là một khái niệm được đưa ra nhằm nghiên cứu sự tương
đồng văn hóa và đặc trưng văn hóa của vùng, qua đó có thể phân biệt văn hóa của
vùng này với vùng khác. Hiện nay, có nhiều trường phái lý thuyết về vùng văn
hóa, trong đó có thể kể đến các trường phái của các nhà Nhân học Tây Âu với
thuyết “Khuyếch tán văn hóa”, Bắc Mỹ với thuyết mang tên “vùng văn hóa
(culture area)” và Xô Viết với tên “khu vực văn hóa – lịch sử” hay “vùng lịch sử –
dân tộc học”.
- Trường phái Tây Âu
Thuyết Khuyếch tán văn hóa được bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu
của các học giả Âu – Mỹ khi đề cập đến các cụm từ thiên di, lan tỏa, mô phỏng…
nhằm giải thích cho các hiện tượng tương đồng văn hóa. Đến thập niên cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, thuyết Khuyếch tán văn hóa được phát triển và hình thành
nên những trường phái như trường phái Văn hóa- lịch sử ở Đức và Áo, trường
phái truyền bá văn hóa ở Anh,… Nội dung của lý thuyết này giải thích sự phát
triển của các nền văn minh, văn hóa không phải là sự tiến hóa độc lập, mà cơ bản
hoặc thậm chí chỉ bằng những sự vay mượn các thành tựu văn hóa hay bằng các


×