Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

tiểu luận phân tích chi phí lợi ích ngành công nghiệp việt nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.26 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Theo vòng quay của thời gian và lịch sử, con người từng bước tiến
từ xã hội nguyên thủy, qua chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, rồi tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Dù trong thời đại nào, việc phát triển kinh
tế vẫn luôn luôn là vấn đề để giữ cho xã hội ấy được phát triển. Tuy nhiên,
chỉ đến khi cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên diễn ra, thế giới mới bắt
đầu cảm thấy những bước chuyển mình đầy mạnh mẽ , đánh dấu bước
ngoặt kinh tế lớn chưa từng có, thay đổi những thứ cũ kĩ, lạc hậu, tiếp
nhận và phát triển những công nghệ mới. Mỗi một cuộc cách mạng công
nghiệp, đều mang đến nhũng thay đổi cho ngành công nghiệp toàn thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng không ngoại lệ. Là một cơ
hội cho ngành công nghiệp Việt Nam có thể vươn mình, nhưng đồng thời
cũng mang lại những thách thức không hề nhỏ.
Cách mạng công nghiệp 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự động
hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống
không gian mạng thực-ảo (cyber-physical system), Internet Vạn Vật và
điện toán đám mây và điện toán nhận thức (cognitive computing).
Công nghiệp 4.0 tạo ra nhà máy thông minh (smart factory). Trong các nhà
máy thông minh với cấu trúc kiểu mô-đun, hệ thống thực-ảo giám sát các
quy trình thực tế, tạo ra một bản sao ảo của thế giới thực và đưa ra các
quyết định phân tán. Qua Internet Vạn Vật, các hệ thống thực-ảo giao tiếp
và cộng tác với nhau và với con người trong thời gian thực, và với sự hỗ trợ
của Internet Dịch vụ, dịch vụ nội hàm và dịch vụ xuyên tổ chức được cung
cấp cho các bên tham gia chuỗi giá trị sử dụng.

1


Có thể không mới, có thể ai cũng đã từng nghe về nó, nhưng thực tế
nó ra sao? Giá trị của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 này, đối với ngành


công nghiệp Việt Nam như thế nào? Trên cơ sở đó chúng em đã chọn đề
tài “Ngành công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 ” để làm tiểu luận cho môn học Phân tích chi phí lợi ích. Trong
quá trình thực hiện bài tiểu luận này do thời gian và nguồn tư liệu không
nhiều nên chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Chúng em rất mong
nhận được những góp ý của cô giáo để bài tiểu luận hoàn thiện hơn!

2


Chương 1. Cơ sở lý luận
1.1 Sơ lược về cách mạng công nghiệp 4.0
Để đánh giá được sự ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 tâc
động tới ngành công nghiệp như thế nào, chắc chắn ta cần tìm hiểu sơ qua
về cách mạng công nghiệp và cách mạng công nghiệp 4.0
Nói đến cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay đổi lớn lao mà nó
mang lại trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, và xã hội. Nhìn lại lịch sử,
con người đã trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn. Mỗi
cuộc cách mạng đều đặc trưng bằng sự thay đổi về bản chất của sản xuất và
sự thay đổi này được tạo ra bởi các đột phá của khoa học và công nghệ.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới được bắt đầu ở
nước Anh vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, mở đầu với sự cơ giới hóa
ngành dệt may. Sau đó là sự phát triển của ngành luyện kim, giao thông
vận tải, bắt nguồn từ động cơ hơi nước.
Cuộc cách mạng công nghiệp thứ hai lại được khởi xướng từ cuối thế
kỷ 19, kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Một trong những đặc điểm đáng lưu ý
trong nền đại công nghiệp là dây chuyền sản xuất hàng loạt - áp dụng
nguyên lý quản trị của F.W.Taylor. Tiếp theo đó là hàng loạt các phát minh
về tự động hóa, và cuộc tìm kiếm những nguồn năng lượng mới thay thế.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 diễn ra vào những năm 1970 với

sự ra đời của sản xuất tự động dựa vào máy tính, thiết bị điện tử và
Internet, tạo nên một thế giới kết nối. Có thể nói rất nhiều phát minh ra đời
từ cuộc cách mạng công nghiệp này đã mang lại thế giới hiện nay.
Vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có gì?
Theo Gartner, Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công
nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm "Industrie 4.0" trong một báo cáo
của chính phủ Đức năm 2013. "Industrie 4.0" kết nối các hệ thống nhúng
và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công
nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.
3


Nếu định nghĩa từ Gartner còn khó hiểu, Klaus Schwab, người sáng
lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế Thế Giới mang đến cái nhìn đơn
giản hơn về Cách mạng Công nghiệp 4.0 như sau:
"Cách mạng công nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và hơi
nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng
điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 sử dụng điện tử và
công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Bây giờ, cuộc Cách mạng
Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các
công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh
học".
Theo ông Klaus Schwab, tốc độ đột phá của Cách mạng Công nghiệp
4.0 hiện "không có tiền lệ lịch sử". Khi so sánh với các cuộc cách mạng
công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không
phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công
nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này
báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.
Nối tiếp từ định nghĩa của Klaus Schwab, Cách mạng Công nghiệp
4.0 sẽ diễn ra trên 3 lĩnh vực chính gồm Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số

và Vật lý.
Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ
nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big
Data).
Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập
trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp,
Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái
tạo, hóa học và vật liệu.
Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự
lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.

4


Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực, với sự xuất hiện của robot có trí tuệ nhân tạo mang lại nhiều
ứng dụng trong xã hội. Nhờ công nghệ AI, người máy làm việc càng thông
minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô biên, trong khi khả năng đó ở con
người càng già càng yếu đi.
Trong lĩnh vực Giao thông, thế hệ xe không người lái sẽ phát triển
nhờ đảm bảo an toàn cao gấp nhiều lần vì không có tình trạng say rượu bia,
vượt đèn đỏ, phóng nhanh vượt ẩu.
Hồi tháng 8/2016, người đàn ông Mỹ đang sử dụng xe tự lái của
Tesla thì có triệu chứng đau tức ngực. Ông đã kịp thời liên hệ với vợ để gọi
tới bệnh viện báo cho bác sĩ chờ đón sẵn rồi ra lệnh cho xe di chuyển tới
bệnh viện. Các bác sĩ đã cấp cứu kịp thời, cứu sống người đàn ông này.
Trong lĩnh vực Y tế, cỗ máy IBM Watson có biệt danh “Bác sĩ biết
tuốt” có thể lướt duyệt cùng lúc hàng triệu hồ sơ bệnh án để cung cấp cho
các bác sĩ những lựa chọn điều trị dựa trên bằng chứng chỉ trong vòng vài
giây nhờ khả năng tổng hợp dữ liệu khổng lồ và tốc độ xử lý mạnh mẽ.

“Bác sĩ biết tuốt” này còn cho phép con người tra thông tin về tình hình sức
khỏe của mình. Các bác sĩ chỉ cần nhập dữ liệu người bệnh để được phân
tích, so sánh với kho dữ liệu khổng lồ có sẵn và đưa ra gợi ý hướng điều trị
chính xác.
Trong lĩnh vực Giáo dục, công nghệ thực tế ảo sẽ thay đổi cách dạy
và học. Sinh viên có thể đeo kính VR và có cảm giác như đang ngồi trong
lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những trận đánh giả lập,
ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc, giúp bài học
thấm thía hơn. Hoặc khi đào tạo nghề phi công, học viên đeo kính và thấy
phía trước là cabin và học lái máy bay như thật để thực hành giúp giảm
thiểu rủi ro trong quá trình bay thật. Trong tương lai, số lượng giáo viên ảo
có thể nhiều hơn giáo viên thực rất nhiều.

5


1.2 Tổng quan về tình hình ngành công nghiệp Việt Nam
1.2.1 Ngành công nghiệp Việt Nam trước khi ứng dụng cách mạng công
nghiệp 4.0
Trong mười năm 2001-2010, nhất là trong những năm 2008-2010,
sản xuất công nghiệp nước ta chịu ảnh hưởng rất lớn của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thu hẹp đáng kể thị trường xuất
khẩu hàng công nghiệp; sau đó là sự tăng giá của hầu hết các loại nguyên
vật liệu của ngành công nghiệp mà nước ta phải nhập khẩu khối lượng
tương đối lớn như sắt thép, hóa chất cơ bản, bông sợi và phụ liệu dệt may...
làm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp chế biến.
Mặc dù gặp khó khăn, thách thức nhưng sản xuất công nghiệp vẫn
duy trì được tốc độ tăng trưởng khá với tốc độ tăng hàng năm 2 chữ số (trừ
năm 2009 tăng 7,6%). Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994)
năm 2010 ước tính đạt 795,1 nghìn tỷ đồng, gấp 4,0 lần năm 2000. Tính ra,

trong mười năm 2001-2010 bình quân mỗi năm tăng 14,9%, trong đó khu
vực Nhà nước gấp 2,1 lần, bình quân mỗi năm tăng 7,8%; khu vực ngoài
Nhà nước gấp 6,5 lần, bình quân mỗi năm tăng 20,5%; khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài gấp 4,7 lần, bình quân mỗi năm tăng 16,7%. So với mười
năm 1991-2000 thì tốc độ tăng của ngành công nghiệp mười năm 20012010 đã cao hơn 1,1 điểm phần trăm.
Nếu xem xét động thái và thực trạng sản xuất công nghiệp mười năm
2001-2010 theo 3 ngành cấp I: Công nghiệp khai khoáng; Công nghiệp chế
biến, chế tạo; Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước thì
diễn biến tình hình của từng ngành như sau:
Công nghiệp khai khoáng bao gồm 4 ngành: khai thác than; khai thác
dầu thô và khí tự nhiên; khai thác quặng kim loại; khai thác đá và khai thác
mỏ khác. Khai thác dầu thô, chiếm tỷ trọng lớn, nhưng trong 10 năm vừa
qua lượng khai thác chỉ tăng trong những năm đầu, sau đó giảm dần do
6


điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, do chủ trương của Nhà nước hạn
chế dần khai thác tài nguyên thiên nhiên cho mục tiêu phát triển bền vững.
Sản lượng dầu thô khai thác năm 2001 và năm 2002 mỗi năm 16,8 triệu
tấn, tăng lên 17,7 triệu tấn năm 2003; 20,0 triệu tấn năm 2004; sau đó giảm
xuống 18,5 triệu tấn năm 2005; 16,8 triệu tấn năm 2006; 15,9 triệu tấn năm
2007; 14,9 triệu tấn năm 2008; 16,3 triệu tấn năm 2009 và chỉ còn 14,9
triệu tấn năm 2010. Tuy nhiên, do khai thác than, khai thác khí tự nhiên và
khai thác các loại khoáng sản khác tương đối ổn định nên tỷ trọng giá trị
sản xuất công nghiệp khai khoáng chiếm trong giá trị tổng sản lượng toàn
ngành công nghiệp theo giá thực tế giảm không nhiều, từ tỷ trọng 13,2%
năm 2001 xuống 11,2% năm 2005 và 9,2% năm 2010. Giá trị sản xuất theo
giá so sánh năm 1994 của công nghiệp khai khoáng năm 2010 vẫn tăng
42,3% so với năm 2000, bình quân mỗi năm trong mười năm 2001-2010
tăng 3,6%.

Công nghiệp chế biến, chế tạo, bao gồm 24 ngành cấp II, nhưng sản
xuất chế biến thực phẩm và sản xuất đồ uống chiếm tỷ trọng cao nhất với
trên 20% giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến, chế tạo. Một số ngành
tương đối lớn khác, mỗi ngành chiếm tỷ trọng trên dưới 5% là sản xuất hóa
chất và các sản phẩm hóa chất, sản xuất sản phẩm bằng kim loại (trừ máy
móc thiết bị), sản xuất sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại, sản xuất sản
phẩm dệt may, sản xuất và sửa chữa phương tiện vận tải... Trong mười năm
2001-2010 ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển tương đối cao
với tốc độ bình quân mỗi 47 năm tăng 16,2%. Giá trị sản xuất công nghiệp
chế biến, chế tạo năm 2010 theo giá so sánh 1994 đã gấp 4,5 lần năm 2000
và tỷ trọng chiếm trong giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp theo
giá thực tế tăng từ 81,2% năm 2001 lên 83,2% năm 2005 và 85,7% năm
2009.

7


Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước, bao gồm 2
ngành cấp II là sản xuất và phân phối điện, ga; sản xuất và phân phối nước
với sản phẩm chủ yếu là điện và nước máy. Đây là những sản phẩm có nhu
cầu lớn và ưu tiên đầu tư nên trong những năm vừa qua duy trì được tốc độ
phát triển tương đối ổn định. Sản lượng điện phát ra đã tăng từ 26,7 tỷ kwh
năm 2000 lên 52,1 tỷ kwh năm 2005 và 91,6 tỷ kwh năm 2010. Sản lượng
nước máy cũng tăng từ 780,2 triệu m3 năm 2000 lên 1180,4 triệu m3 năm
2005 và 1812,4 triệu m3 năm 2010. Tính chung, giá trị sản xuất công
nghiệp theo giá so sánh năm 1994 của ngành công nghiệp sản xuất và phân
phối điện, khí đốt và nước năm 2010 gấp trên 3,4 lần năm 2000, bình quân
mỗi năm trong mười năm 2001-2010 tăng 13,1%. Do tăng trưởng ổn định
nên tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp này trong tổng giá trị
sản xuất của toàn ngành công nghiệp theo giá thực tế những năm vừa qua

vẫn chiếm trên dưới 5% (năm 2001 chiếm 5,7%; 2005 chiếm 5,6%; 2010
chiếm 6,6%).
Ngoài những thành tựu đạt được nêu trên, Ngành công nghiệp Việt
Nam lúc đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế:
Sản xuất công nghiệp nhìn chung vẫn phân tán, quá trình tích tụ
trong sản xuất diễn biến chậm chạp. Chủ trương xây dựng một số tập đoàn
công nghiệp nhưng định hướng hoạt động không rõ ràng, đầu tư dàn trải
sang cả những lĩnh vực khác như tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bất
động sản ngoài khả năng về vốn, công nghệ và trình độ quản trị nên mức
độ thành công không cao. Việc hình thành các khu công nghiệp kết quả
cũng hạn chế. Tại thời điểm 1/7/2007 cả nước có 550 khu công nghiệp với
tổng diện tích đất quy hoạch 88,1 nghìn ha nhưng hệ số lấp đầy mới đạt
32,5 %.
Sản xuất công nghiệp nói chung và công nghiệp chế biến nói riêng
chủ yếu vẫn sử dụng công nghệ thấp. Tỷ trọng công nghệ cao mới chiếm
8


19,2%; công nghệ trung bình 26,8%; công nghệ thấp chiếm tới 54,0%.
Công nghiệp phụ trợ chưa được quan tâm đầu tư thích đáng nên phát triển
rất chậm. Một số sản phẩm cơ khí, dệt may, giầy da, đồ điện dân dụng tỷ lệ
nội địa hóa thấp, chủ yếu là tham gia khâu chế tạo phần vỏ và khâu hoàn
thiện cuối cùng nên vẫn mang nặng tính chất gia công và lắp ráp linh kiện,
vì vậy, giá trị gia tăng thấp. Đồng thời bị tác động mạnh từ giá thế giới do
phần lớn phải nhập khẩu nguyên, nhiên liệu và phụ kiện. Công nghiệp chế
biến nông sản, thực phẩm mới đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu chế
biến nông sản hàng hóa xuất khẩu và phục vụ tiêu dùng trong nước, chủ
yếu là sơ chế.
Trong những năm vừa qua ngoại trừ dầu thô, ngành công nghiệp đã
tập trung khai thác tài nguyên khoáng sản với mức độ cao. Ngoài số giấy

phép do Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp thì các địa phương cũng đã cấp
4 nghìn giấy phép khai thác khoáng sản trên địa bàn. Đó là chưa kể hàng
nghìn hoạt động khai thác khoáng sản tự phát, không có giấy phép. Việc
cấp giấy phép dễ dãi và sơ hở, quản lý khai thác bị buông lỏng và trình độ
công nghệ khai thác, tuyển chọn, chế biến thấp đã làm tài nguyên tổn thất
lớn và suy giảm nhanh. 51 Theo Báo cáo của Viện Tư vấn phát triển
(CODE), Bộ Tài nguyên và Môi trường do nhiều đơn vị được cấp giấy
phép không đủ năng lực về tài chính và công nghệ nên khi khai thác chủ
yếu mới lấy được phần quặng giàu nhất và dễ khai thác nhất, bỏ đi phần
nghèo hơn và các khoáng sản khác đi cùng, dẫn tới tổn thất than trong khai
thác hầm lò lên tới 46-60%; khai thác apatit tổn thất 26-43%; quặng kim
loại 15-30%; vật liệu xây dựng 15-20%; khai thác vàng 60-70%. Tình trạng
trên khiến nhiều nhà khoa học, nhà quản lý trong nước và quốc tế cảnh báo
nước ta về “bẫy tài nguyên” hay “lời nguyền tài nguyên”, tức là cảnh báo
hiện tượng có nguồn tài nguyên khoáng sản dồi dào, nhưng chủ quan
không tăng cường khâu quản trị khai thác không có quy hoạch dài hạn nên
9


phát triển kém các quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản và gây nguy cơ cạn
kiệt tài nguyên.
Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước lẽ ra là phải đi trước
một bước, nhưng trong mười năm 2001-2010 ngành công nghiệp này chỉ
tăng bình quân mỗi năm 13,2%, thấp hơn tốc độ tăng bình quân 14,9%/năm
của toàn ngành công nghiệp. Mặt khác, tốc độ tăng lại có xu hướng giảm,
từ tốc độ tăng bình quân mỗi năm 14,2% trong những năm 2001-2005,
giảm xuống chỉ còn tăng 12,2% trong những năm 2006-2010. Do vậy, các
sản phẩm điện, nước không đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh
tế và nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Một số dự án phát triển điện, nước triển
khai chậm, không hoàn thành đúng tiến độ đề ra; một số khác hoàn thành

đưa vào sử dụng nhưng vận hành không ổn định nên tình trạng thiếu điện,
khan hiếm nước sạch trở thành vấn đề thời sự ngày càng nóng bỏng. Sản
lượng điện bình quân đầu người của nước ta năm 2010 mới đạt 1053,7
kwh, trong khi chỉ tiêu này năm 2008 của Thái Lan đã đạt 2187,2 kwh; Malai-xi-a 3835,7 kwh; Xin-ga-po 86197,7 kwh. Một bộ phận dân cư đô thị
đến nay vẫn chưa được cung cấp nước máy; nhiều vùng nông thôn vẫn phải
sử dụng nước hồ, ao, sông, suối không hợp vệ sinh. Mục tiêu đến năm 2010
“Cung cấp đủ nước sạch cho đô thị, khu công nghiệp và 90% dân cư khu
vực nông thôn” đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ
2001-2010 đã không thực hiện được.
Tỷ lệ chi phí trung gian chiếm trong giá trị sản xuất của khu vực
công nghiệp và xây dựng năm 2000 là 0,69% và năm 2007 là 0,7%. Tỷ lệ
này có xu hướng tăng lên qua các năm là hệ quả tất yếu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa do mức độ chuyên môn hóa ngày càng cao trong
sản xuất công nghiệp. Đồng thời, sự gia tăng của chi phí trung gian thể hiện
sử dụng lãng phí vật tư sản xuất. Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nhiều tài
nguyên không thể tái tạo được, việc tiết kiệm nguyên liệu không có khả
10


năng tái tạo là điều vô cùng quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển bền
vững trong tương lai.
1.2.2 Ngành công nghiệp Việt Nam trong khi ứng dụng cách mạng công
nghiệp 4.0
Trong thời gian qua, với việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa
trên đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, giảm sự phụ thuộc vào tài
nguyên thiên nhiên và nguồn nhân công giá rẻ, nền công nghiệp Việt Nam
đã có bước phát triển ấn tượng
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, GDP cả năm 2018 tăng 7,08%
so so với năm 2017, đây là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 tới nay.
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây

dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; trong đó, ngành công nghiệp duy trì
mức tăng trưởng 8,79%, chiếm 28,44% trong GDP. Dấu ấn của ngành công
nghiệp trong năm 2018 được thể hiện qua những khía cạnh cụ thể sau:
Ngành công nghiệp đạt được mức tăng trưởng cao, đóng góp đáng kể
vào tăng trưởng GDP cả nước.
Năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng cao
và ổn định (tăng 10,2%, cao hơn mục tiêu Chính phủ giao là 9%). Trong
đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực chính thúc đẩy mức
tăng trưởng chung của ngành công nghiệp. Cụ thể, ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo tăng trưởng 12,98%, tuy thấp hơn so với mức tăng của năm
2017, nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm từ 2012 đến 2016.
Đây là kết quả của việc thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo
môi trường thuận lợi thúc đẩy đầu tư sản xuất, kinh doanh trong thời gian
qua của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, là kết quả của việc
vận dụng hiệu quả cơ hội của các hiệp định thương mại tự do (FTA) song
phương và đa phương đã ký kết, góp phần mở rộng thị trường, gia tăng đầu
11


tư để mở rộng sản xuất trong nước, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của Việt
Nam.
Bên cạnh đó, tình hình tiêu thụ một số mặt hàng công nghiệp diễn ra
thuận lợi, tồn kho toàn ngành công nghiệp ở mức thấp nhất trong nhiều
năm qua[2]. Sản xuất trong nước đã đáp ứng hầu hết nhu cầu một số mặt
hàng công nghiệp thiết yếu, như: xi măng, thép xây dựng, phân đạm, phân
NPK, đáp ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng dân cư... Sản xuất liên tục
được mở rộng (chỉ số nhà quản trị mua hàng - PMI các tháng trong năm
2018 luôn cao hơn 50 điểm) với sự đóng góp tích cực của các ngành, như:
điện tử, dệt, thép, ô tô...
Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp đang đi đúng hướng, phù

hợp với Đề án Tái cơ cấu ngành công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt.
Cụ thể là, tỷ trọng của công nghiệp chế biến, chế tạo tăng và tỷ trọng
ngành khai khoáng giảm. Tỷ trọng GDP của nhóm ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo tăng dần theo các năm (16,2% năm 2016; 17,4% năm 2017 và
ước 18,3% năm 2018), trong khi tỷ trọng của nhóm ngành khai khoáng
giảm từ 8,8% bình quân giai đoạn 2011-2015 xuống 7,6% năm 2016, 6,6%
năm 2017 và 6% ước cho năm 2018.
Năng lực sản xuất, kinh doanh của ngành công nghiệp đã được tăng
lên đáng kể.
Trong ngành thép, Công ty TNHH Formosa Hà Tĩnh tăng công suất
sản xuất với việc đưa lò cao số 2 (công suất 4 triệu tấn/năm) đi vào sản xuất
trong 6 tháng cuối năm 2018, giúp nâng tổng công suất của Fomosa lên 7,5
triệu tấn/năm; Tập đoàn Hòa Phát đưa vào hoạt động dự án thép cán 600
nghìn tấn trong tháng 08/2018 ở Quảng Ngãi; Tập đoàn Hoa Sen đưa thiết

12


bị dây chuyền cán nguội, mạ kẽm/lạnh, mạ màu vào hoạt động với công
suất 350 nghìn tấn.
Trong ngành dầu khí, Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn đi vào hoạt
động đã sản xuất và cung ứng ra thị trường khoảng 3-3,2 triệu tấn xăng dầu
các loại năm 2018.
Còn trong ngành điện, theo số liệu của Tập đoàn Điện lực Việt Nam,
năm 2018, công suất nguồn điện tăng thêm khoảng 3.150MW; đường dây
500-220kV tăng thêm khoảng 1.092km; đường dây 110kV tăng thêm
khoảng 1.267km.
Các nhà đầu tư đặt niềm tin vào sự ổn định kinh tế vĩ mô, nên đã đổ
vốn mạnh vào ngành công nghiệp, đặc biệt là chế tạo, lắp ráp ô tô, như: Tổ

hợp sản xuất ô tô Vinfast (tổng vốn đầu tư 35.000 tỷ đồng, công suất
500.000 xe/năm), Nhà máy sản xuất ô tô Thaco Mazda (tổng vốn đầu tư
12.000 tỷ đồng, công suất 100.000 xe/năm), Nhà máy sản xuất ô tô
Huyndai Thành Công (tổng vốn đầu tư 1.320 tỷ đồng, công suất 40.000
xe/năm)...
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2018, ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn
đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt khoảng 9,067 tỷ USD, chiếm
50,5% tổng vốn đăng ký cấp mới; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt
5,216 tỷ USD, chiếm 29%; các ngành còn lại đạt 3,691 tỷ USD, chiếm
20,5%.
Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp tăng mạnh: Tổng kim ngạch xuất
khẩu ước đạt 244,7 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017, hoàn thành vượt
mức chỉ tiêu do Quốc hội và Chính phủ đặt ra (chỉ tiêu Quốc hội giao là
7%-8%; chỉ tiêu Chính phủ giao là 8%-10%). Nhập khẩu được kiểm soát
tốt, cán cân thương mại duy trì thặng dư năm thứ 3 liên tiếp. Kim ngạch
13


nhập khẩu năm 2018 ước đạt 237,5 tỷ USD, tăng 11,5%; thặng dư thương
mại đạt khoảng 7,2 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Con số xuất siêu của
Việt Nam trong năm nay đã gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích
cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản
phẩm công nghiệp. Quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng.
Năm 2018, có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 5 mặt hàng xuất
khẩu trên 10 tỷ USD.
Công tác chỉ đạo xử lý tồn tại, yếu kém ở các dự án, doanh nghiệp
ngành công thương bước đầu đã có những hiệu quả nhất định.
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, đến nay đã có 2 dự án hoạt động

sản xuất, kinh doanh bước đầu có lãi (Nhà máy sản xuất phân bón DAP số
1 - Hải Phòng; Nhà máy Thép Việt – Trung); 2 dự án đã vận hành sản xuất
trở lại (Nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ; Nhà máy sản xuất nhiên liệu
sinh học Quảng Ngãi); 1 dự án sẵn sàng khởi động để vận hành thương mại
(Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Bình Phước) ngay khi thị trường
thuận lợi. Các dự án còn lại đang được tích cực xử lý để bảo đảm hoàn
thành đúng theo phương án, lộ trình đề ra.
Chương 2. Đánh giá ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 lên
ngành công nghiệp Việt Nam
2.1 Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy tăng trưởng GDP
Ông Đặng Quang Vinh, Phó Trưởng ban, Ban Môi trường kinh
doanh và Năng lực cạnh tranh, CIEM cho biết, các ngành công nghiệp mới
của cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là động lực tăng trưởng chính của Việt
Nam; đồng thời, hỗ trợ các ngành khác nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng
doanh thu và phát triển các dịch vụ mới. Theo đó, các ngành hưởng lợi

14


nhiều nhất là chế biến, chế tạo, thương mại, bán lẻ, nông nghiệp, tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm…
TS. Đặng Quang Vinh – Phó trưởng Ban môi trường kinh doanh và
năng lực cạnh tranh (CIEM) cho biết, theo phương pháp ước lượng tác
động của CMCN 4.0 trên nền dự báo kinh tế Việt Nam, đến năm 2030, so
với kịch bản cải cách kinh tế không thực hiện CMCN 4.0, CMCN 4.0 có
thể thúc đẩy GDP Việt Nam tăng thêm 28,5-62,1 tỷ USD, tương đương
mức tăng GDP 7-16% tùy theo từng kịch bản (cao, trung bình, thấp); GDP
bình quân đầu người sẽ tăng thêm 315-640 USD/người vào năm 2030 nhờ
tăng năng suất và tăng việc làm; Tăng trưởng sản xuất nhờ CMCN 4.0 tạo
ra việc làm mới với mức tăng thuần ước tính 1,3 triệu – 3,1 triệu việc làm.

2.2 Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy tăng trưởng năng suất lao
động
CMCN 4.0 được cho là cuộc cách mạng thần kỳ về kỹ thuật. Nó hỗ
trợ con người, giảm sức lao động, tạo ra hàng loạt chuyển biến tích cực về
kỹ thuật và công nghệ. Tuy nhiên, nó cũng tác động không nhỏ đến thị
trường lao động Việt Nam, nếu người lao động không thích ứng kịp với
những yêu cầu từ cuộc cách mạng, sẽ dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp, mất
việc làm và nhiều hệ quả xã hội khác.
CMCN 4.0 đã và đang dẫn đến nhiều thay đổi việc làm trong mọi lĩnh
vực, tiêu biểu như: ngân hàng; thương mại, dịch vụ, giải trí; viễn thông;
giao thông công cộng; y tế; giáo dục; nông nghiệp; ngành dệt may, da giày,
điện tử.
Nhiều việc làm có thể được tự động hóa và mất đi. Thay vào đó là các
loại việc làm mới ra đời, bao gồm: việc làm thiết kế các hệ thống tự động
hóa (tạo ra robot + trí tuệ nhân tạo, tạo ra hệ thống kết nối tự động, tạo ra
các bộ cảm ứng và phản ứng lại môi trường, nâng cấp và cải tiến các hệ
15


thống này…); việc làm thiết kế và vận hành in 3D; việc làm kết nối (nền
kinh tế chia sẻ); việc làm đòi hỏi tình yêu thương thực sự của con người
(các chuyên gia tư vấn tâm lý, bác sĩ tâm lý, trông trẻ sơ sinh); việc làm đòi
hỏi sự cảm thông (hòa giải viên, thẩm phán); việc làm đòi hỏi sự sáng tạo
(nghĩ ra cái mới thực sự); việc làm đòi hỏi tư duy phản biện (không chấp
nhận kiến thức như nó vốn có); việc làm của các chuyên gia trong các lĩnh
vực phân tích rủi ro, phân tích dữ liệu lớn, lựa chọn giải pháp...
Số liệu thống kê cho thấy, số lao động giản đơn hàng năm của nước ta
gần như không giảm (ở các năm 2015-2017) hoặc giảm còn rất chậm, giảm
không đáng kể trong giai đoạn 2012-2017. Đây thực sự là báo động “đỏ”
với sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh CMCN 4.0. Cụ thể, lực

lượng lao động của nước ta năm 2017 đã tăng thêm 2,9 triệu người so với
năm 2012, trong khi lao động giản đơn chỉ giảm được 0,5 triệu người năm
2017 so với năm 2012.
Đây là một nút thắt lớn trong trục phát triển kinh tế - xã hội của nước
ta và được cho là không dễ khai thông trong “một sớm một chiều” bởi một
lực lượng lao động giản đơn vẫn còn quá đông và chưa có dấu hiệu giảm
nhanh trong suốt hàng thập kỷ qua.
Hiện nay, để tăng NSLĐ, việc cấp bách là phải giảm nhanh số lao
động giản đơn theo hướng tinh gọn lại để gia tăng nhanh lao động có trình
độ, tay nghề phù hợp với nhu cầu xã hội. Đây là yêu cầu khách quan, cũng
là cơ hội tốt để nước ta giảm nguồn cung lao động lớn về lượng, thấp về
chất bằng cách đào tạo, bồi dưỡng có chọn lọc nguồn nhân lực này.
2.3 Ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0 đến tỷ lệ thất nghiệp
Mỗi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra đều dẫn tới thay đổi mạnh
mẽ về cơ cấu nguồn nhân lực, việc làm. Và cũng giống như ba cuộc CMCN
trước đó, CMCN 4.0 có tiềm năng đem lại nhiều lợi ích cho người lao động
16


thông qua việc tăng năng suất lao động dẫn tới tăng thu nhập, nhiều sản
phẩm, dịch vụ mới được ra đời giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, và đặc
biệt là việc mở cửa thị trường lao động, tạo ra nhiều việc làm mới.
CMCN 4.0 với sự xuất hiện của công nghệ cao, máy móc thông
minh, robot có trí tuệ nhân tạo... sẽ tác động làm thay đổi lớn đến thị trường
lao động và việc làm trên nhiều góc độ khác nhau. Cung - cầu lao động, cơ
cấu lao động, và bản chất việc làm đều sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đối
với nền công nghiệp, những lĩnh vực dựa vào lao động thủ công, những
ngành nghề gắn với quá trình tự động hóa sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt, những
lĩnh vực như dệt may, da giày, điện tử hay những lĩnh vực mà chúng ta sử
dụng nhiều lao động sẽ là những đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất. Chẳng

hạn, đối với Cổng thông tin kinh tế Việt Nam – VNEP Chuyên đề Số
10/2018 11 ngành dệt may, các thao tác như cắt, may thì máy móc đều có
thể thay thế được. Công nghệ 4.0 có thể làm việc liên tục 24/24h, robot có
thể thay thế đối với ngành lắp ráp điện tử, tư vấn, chăm sóc khách hàng sẽ
được trả lời bằng robot tự động. Như vậy, tác động của CMCN 4.0 đối với
việc làm sẽ là sự dịch chuyển từ sản xuất thâm dụng lao động sang thâm
dụng tri thức và thâm dụng công nghệ.
Báo cáo của Bộ KH-CN đã chỉ rõ 2 chiều hướng tác động của
CMCN4.0 đến lao động, việc làm.
Thứ nhất, CMCN4.0 có thể phá vỡ cấu trúc lực lượng lao động, dẫn
tới lao động dư thừa do sự thay thế lao động bằng các robot. Khi đó, NLĐ
chủ yếu đảm nhiệm việc quản lý hệ thống máy móc, thay vì tham gia trực
tiếp vào quá trình sản xuất. Điều này đồng nghĩa với nhu cầu về lao động
có trình độ cao, có kỹ năng sáng tạo, chuyên môn kỹ thuật sẽ tăng lên.
Trong khi đó, lao động không có kỹ năng, đảm nhiệm các công việc giản
đơn hoặc các công việc có tính chất lặp đi lặp lại sẽ phải đối mặt với nguy
cơ cao bị thay thế.
17


Thứ hai, CMCN4.0 có thể tạo ra nhiều việc làm hơn số việc làm bị
mất đi. Mặc dù có sự suy giảm về số lượng việc làm trong một số ngành sử
dụng nhiều lao động có kỹ năng thấp, CMCN4.0 sẽ giúp các ngành có hàm
lượng sáng tạo cao phát triển và tạo ra nhiều việc làm mới với tính chất
công việc khác biệt so với trước đây. Bên cạnh đó, NLĐ có điều kiện tiếp
cận với kiến thức và kỹ năng mới. Từ đó, tạo cơ hội cho những NLĐ đã
mất việc có thể quay trở lại lực lượng lao động với vai trò mới; cũng như
giúp những người đang làm việc mở rộng sự nghiệp của mình.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), công nghệ số không chỉ
thúc đẩy việc làm trong các ngành CNTT mà còn thúc đẩy việc làm trong

các ngành có sử dụng CNTT- khi số lượng các DN và NLĐ tự do áp dụng
công nghệ mới tăng lên. Các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) và
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng chỉ ra, tỉ lệ lao động ở các nước đang
phát triển sẽ có nguy cơ bị thay thế cao, vì đa phần các nước đang phát
triển (trong đó có Việt Nam) đều có nền công nghiệp sử dụng các lao động
chủ yếu không có kỹ năng, dễ bị thay thế bởi tự động hóa và robot. Do đó,
ILO dự báo, 74% trong tổng số lao động ngành chế biến, chế tạo của Việt
Nam có mức độ rủi ro cao do tự động hóa. Con số này cao hơn so với các
quốc gia trong khu vực như: Phillipines (54%), Thái Lan (58%) và
Indonesia (67%). Theo dự báo của Liên hợp quốc, sẽ có khoảng 75% lao
động trên thế giới có thể bị mất việc làm trong vài thập niên tới. Còn một
nghiên cứu khác của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khoảng 56% số lao
động tại 5 quốc gia Đông Nam Á đứng trước nguy cơ mất việc vì robot.
Trong đó, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ
CMCN 4.0. Cũng theo dự báo của Bộ Khoa học và Công nghệ, trong tương
lai, một số ngành nghề ở Việt Nam sẽ biến mất do tác động của cuộc
CMCN 4.0. Tuy nhiên, ở chiều hướng khác, tích cực hơn, CMCN 4.0 sẽ tạo
thêm ngành nghề, việc làm mới mà người máy hay robot không thể đáp
18


ứng được, điều đó đòi hỏi người lao động phải có kỹ năng, trình độ cao
mới có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Theo dự báo, tới năm 2025,
có tới 80% công việc sẽ là những công việc mới mà chưa từng có ở thời
điểm hiện nay.
2.4 Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo phát triển
Trong những năm qua, nền công nghiệp của Việt Nam có những
bước chuyển dịch tích cực: Tỉ trọng công nghiệp khai khoáng giảm; tỉ trọng
công nghiệp chế biến, chế tạo trong năm 2017 có mức tăng trưởng ấn tượng

12,8%- đây là mức tăng cao nhất của ngành này trong nhiều năm qua, đóng
góp 9 điểm phần trăm vào mức tăng chung của ngành công nghiệp.
Theo đánh giá của Bộ KH-ĐT, tốc độ tăng trưởng cao của công
nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng chung của toàn ngành
công nghiệp, phù hợp với định hướng tái cơ cấu mô hình tăng trưởng và
hạn chế phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đây là nhóm
ngành mà Việt Nam sẽ phải chịu tác động mạnh nhất vì ba lý do: Thứ nhất,
tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến nhóm ngành này
rất mạnh. Thứ hai, cơ chế lan truyền tác động của công nghệ trong kinh tế
toàn cầu rất nhanh thông qua kênh xuất nhập khẩu do bản chất thương mại
quốc tế cao của nhóm ngành này. Thứ ba, những đột phá về công nghệ, đặc
biệt là những tiến bộ vượt bậc trong tự động hóa và công nghệ in 3D đang
làm đảo ngược dòng thương mại theo hướng bất lợi cho các nước như Việt
Nam do làm giảm mạnh lợi thế lao động giá rẻ tại đây. Cụ thể, những tiến
bộ vượt bậc trong quá trình tự động hóa và số hóa đã và đang giúp giảm
mạnh chi phí chế tạo và vận hành người máy, và do vậy làm tăng khả năng
công nghiệp chế tạo quay trở lại các nước phát triển để gần hơn với thị
trường tiêu thụ lớn và các trung tâm R&D ở các nước này. Tác động đến
một số phân ngành cụ thể như sau:
19


Ngành giệt may, giày dép:
Có một số đột phá công nghệ quan trọng đang vẽ lại bức tranh của
ngành này trên phạm vi toàn cầu: (i) công nghệ chế tạo đắp dần, máy chụp
thân thể, thiết kế bằng máy tính giúp có thể sản xuất các sản phẩm hàng
loạt các sản phẩm phù hợp với những thông số đơn lẻ của từng khách hàng;
(ii) công nghệ nano giúp các sản phẩm dệt may, giày dép có thể tích hợp
các chức năng theo dõi sức khỏe (đo nhịp tim, lượng calo giải phóng liên
tục v.v…); (iii) tự động hóa khâu cắt và khâu may (sử dụng robots, trong

khâu may còn được gọi là sewbots). Điều này được kỳ vọng là sẽ làm thay
đổi toàn bộ ngành dệt may, da giày, đồng thời cũng mở ra nhiều cơ hội thu
hút đầu tư quay trở về Mỹ, trong một khoảng thời gian ngắn có thể chỉ là 5
năm tới.
Ở Việt Nam, ngành dệt may đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
cao, một phần lớn nhờ đơn hàng chuyển dịch ra khỏi Trung Quốc theo
chiến lược “Trung Quốc + 1” của các tập đoàn đa quốc gia do chi phí lao
động ở quốc gia này tăng mạnh. Tuy nhiên, tình hình đang thay đổi nhanh
chóng với đơn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
giảm mạnh, và khách hàng yêu cầu giảm giá đáng kể. Công nhân trong các
doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang bị kẹt ở giữa trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt trên toàn cầu, với một bên là nhân công rẻ hơn từ các nước
Campuchia, Bangladesh, Myanmar v.v…, và bên kia là người máy đang
được ứng dụng ngày một rộng rãi ở các nước phát triển và cả ở Trung
Quốc, dẫn đến sự chuyển dịch của sản xuất trong phân khúc có giá trị cao
hơn trở lại các nước phát triển và trở lại Trung Quốc để gần hơn với thị
trường tiêu thụ lớn, các trung tâm R&D và các trung tâm cung cấp nguyên
vật liệu, phụ kiện. Triển vọng của ngành dệt may hiện nay hết sức bấp
bênh, dẫn đến việc các doanh nghiệp hiện đang hoạt động kêu gọi không
đầu tư thêm vào ngành này nữa.
20


Việc Việt Nam tham gia TPP có thể giảm nhẹ phần nào cạnh tranh từ
các nhà cung ứng dựa trên lao động giá rẻ từ Campuchia, Bangladesh hay
Myanmar. Tuy nhiên TPP có thể lại là “con ngựa thành Tơ roa” mở toang
thị trường Việt Nam cho các sản phẩm có giá trị cao từ Mỹ nhắm vào tầng
lớp trung lưu và thượng lưu mới nổi ở nước ta do nguyên tắc “có đi có lại”
trong việc giảm thuế tại các nước tham gia TPP. Những sản phẩm dệt may,
giày dép chất lượng cao, thân thiện môi trường và hỗ trợ sức khỏe “Made

in USA” với giá cả hợp lý (nhờ tự động hóa và sản xuất với qui mô lớn) lại
may vừa với từng khách hàng (nhờ công nghệ chụp thân thể có thể tự thực
hiện trực tuyến trong đo và khâu đặt hàng) bán rộng rãi ở Việt Nam để phục
vụ những đối tượng có thu nhập khá có thể là kịch bản hiện hữu trong
tương lai trung hạn.Các mô hình tính toán mô phỏng tác động của TPP đến
Việt Nam của các chuyên gia quốc tếvới các kết quả rất lạc quan cho nền
kinh tế Việt Nam nói chung và cho các ngành thâm dụng lao động như dệt
may, giày dép nói riêng, đã bỏ qua yếu tố này. Tuy nhiên những giả định về
lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam dẫn đến luồng thương mại về dệt may
và giày dép mang tính một chiều từ Việt Nam sang các nước phát triển
tham gia TPP không còn đúng nữa dưới tác động của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là tự động hóa với giá người máy đang giảm đi
nhanh chóng. Do đó mà các kết quả tính toán nêu trên hiện được trích dẫn
rộng rãi trong các cuộc thảo luận về TPP ở Việt Nam rõ ràng là không còn
phù hợp.
Theo báo cáo của ILO công bố tháng 7/2016 cho thấy Việt Nam có
đến 86% lao động trong các ngành dệt may và giày dép ở Việt Nam có
nguy cơ cao mất việc dưới tác động của những đột phá về công nghệ như
được nêu trên. Tỷ lệ rất lớn này sẽ chuyển thành con số tuyệt đối rất lớn vì
dệt may và giày dép lại là các ngành đang tạo việc làm cho nhiều lao động
(khoảng gần 2,3 triệu người, trong đó khoảng 78% là lao động nữ làm việc
21


trong ngành dệt may; giày dép – 0,98 triệu người, trong đó có khoảng 74%
là lao động nữ làm việc trong ngành giày dép; lao động trong hai ngành
chiếm 6,2% tổng lực lượng lao động và 13,7% việc làm phi nông nghiệp).
Trong số đó có nhiều lao động ít kỹ năng (tương ứng là 17% và 26% lao
động dệt may và giày dép chỉ có trình độ tiểu học), và một tỷ lệ đáng kể
không còn trẻ, từ 36 tuổi trở lên: 35,84% đối với dệt may và 25,37% đối

với giày dép[14]. Đây là nhóm không dễ dàng tìm được việc làm thay thế ở
trong khu vực chính thức. Điều này cho thấy quá trình điều chỉnh sẽ rất khó
khăn, và có thể làm đảo ngược quá trình chuyển dịch lao động ra khỏi nông
nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực chính thức trong nền kinh tế trong quá
trình công nghiệp hóa đất nước.
Trong ngành giày dép, công nghệ in 3D đã tiến bộ đến mức có thể
sản xuất giầy ngay tại chỗ, và công nghệ này sẽ sớm được hoàn thiện trong
một tương lai không xa. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng ở các nước
phát triển có thể có ngay một đôi giày sản xuất theo nhu cầu của khách
hàng mà không cần phải trải qua quy trình sản xuất hay nhập khẩu từ một
quốc gia khác.
Ngành điện tử:
Ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam hiện nay có khoảng
510.000 lao động đang làm việc trong ngành, với khoảng 66% là lao động
nữ, và khoảng 6,7% có trình độ chỉ ở mức tiểu học, và chỉ khoảng 13,5% từ
36 tuổi trở lên. Ngành điện tử trong những năm gần đây có những tiến bộ
vượt bậc nhờ sự hiện diện của các tập đoàn đa công nghệ đa quốc gia dẫn
dắt các chuỗi giá trị toàn cầu. Các tập đoàn này đã thực hiện chiến lược
“Trung Quốc + 1” – chuyển dịch các nhà máy sản xuất ra khỏi Trung Quốc
(để tránh chi phí lao động đang tăng nhanh tại quốc gia này) để đến những
địa điểm gần với Trung Quốc (để hướng vào thị trường tiêu thụ khổng lồ
22


với tầng lớp trung lưu có qui mô lớn nhất nhì thế giới). Với lợi thế tương
đối về lao động giá rẻ, và vị trí địa kinh tế rất thuận lợi, Việt Nam đã hưởng
lợi nhiều từ quá trình này, là ngôi sao đang lên trong con mắt các nhà bình
luận quốc tế nhờ xuất khẩu điện tử tăng mạnh.
Tuy nhiên, trong trung hạn điều này có thể thay đổi do có những
công nghệ đột phá (i) in 3D; (ii) người máy và (iii) Internet kết nối vạn vật,

đang được triển khai áp dụng nhanh chóng trong ngành điện tử. Một thông
tin gần đây đáng được quan tâm là công ty Đài Loan Foxconn – hãng công
nghệ lớn nhất thế giới chuyên về sản xuất các bộ phận máy tính và lắp ráp
sản phẩm cho những “đại gia” như Apple, Sony và Nokia, đã sử dụng
người máy thay thế cho 60.000 lao động tại các nhà máy của công ty này
một số thành phố của Trung Quốc. Động thái trên của Foxconn nhằm cắt
giảm chi phí lao động cũng như nâng cao hiệu quả công việc, đồng thời tạo
hướng đi mới trong việc sử dụng nhân công vốn đã bị chỉ trích quá nhiều
của Foxconn. Đối với các công ty này, việc thay thế lao động bằng người
máy tiết kiệm được chi phí do giá người máyđang giảm nhanh, đồng thời
có thể vận hành liên tục trong hàng chục giờ mà ít bị lỗi, cũng như tránh
được chi phí đóng góp an sinh xã hội hay sản xuất gián đoạn do đình công,
không bị cáo buộc đối xử không tốt với người lao động v.v…
Ở Việt Nam, chi phí nhân công mới bằng khoảng 60% so với ở
Trung Quốc, xong xu thế này đáng lo ngại do giá người máy giảm nhanh.
Cần phải dự tính kịch bản mà các tập đoàn đa quốc gia có sự hiện diện ở
Việt Nam cũng có những bước đi tương tự như Foxconn trong trung hạn.Ví
dụ, nếu Samsung Việt Nam sẽ thực hiện điều này, việc làm của hàng chục
nghìn lao động tại Samsung sẽ bị ảnh hưởng. Các hoạt động kinh doanh có
liên quan như cung cấp suất ăn hay chỗ ở, vận chuyển công nhân đi làm mà
các doanh nghiệp Việt Nam đang cung cấp cho Samsung cũng bị ảnh
23


hưởng theo. Trong khi đó Samsung Việt Nam vẫn hưởng lợi từ qui định
xuất xứ trong TPP cho dù có thay thế lao động của Việt Nam bằng người
máy. Nói cách khác, trong trường hợp đó, các doanh nghiệp FDI được lợi
đơn lợi kép, trong khi phần của Việt Nam giảm mạnh bất chấp đây là cuộc
chơi hai bên cùng thắng.
Chương 3. Dự báo

3.1 Mô tả dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ trang SỐ LIỆU THỐNG KÊ của
Tổng cục Thống Kê Việt Nam được cập nhật mới nhất vào 28/2/2019.
Tổng cục Thống kê là cơ quan trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý nhà
nước về thống kê; tổ chức các hoạt động thống kê và cung cấp thông tin
thống kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và
quốc tế theo quy định của pháp luật.
Toàn bộ mẫu của bộ số liệu nhóm tác giả sử dụng được lựa theo
phương pháp có hệ thống từ kho dữ liệu của Tổng cục Thống kê về các chỉ
số liên quan đến ngành Công Nghiệp và Xây Dựng Việt Nam từ các
phương diện khác nhau như lượng GDP mà ngành này đóng góp vào tổng
GDP, năng suất lao động trong ngành,…
Với những chỉ số được đưa ra trong bộ số liệu mà chúng tôi lấy được
có thể kỳ vọng cung cấp được các dự báo đáng tin cậy cho nhiều chỉ tiêu
đánh giá và các quyết định về các chính sách của Việt Nam trong những
năm tiếp theo.
3.2 Mô hình nghiên cứu

 Dự báo lượng GDP ngành Công nghiệp và Xây dựng đóng góp vào
tổng GDP của Việt Nam năm 2019

24


Có không ít mô hình để dự báo về ngành công nghiệp sau khi ứng
dụng các đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 kể cả trong nước lẫn
ngoài nước. Marcellino, Stock và Watson (2001) sử dụng mô hình VAR ba
biến GDP, thất nghiệp và lạm phát. Một số tác giả như Robertson &
Tallman (1999) hay Andersson (2007) cho rẳng, mô hình tự hồi quy vector

là chính xác nhất để dự báo tăng trưởng cho tổng GDP cũng như lượng
GDP mà các ngành khác nhau đóng góp trong cơ cấu kinh tế của một quốc
gia.
Với bộ số liệu nhóm tác giả thu thập được lấy từ Tổng cục Thống kê
(2019) thì việc dự báo lượng GDP mà ngành công nghiệp và xây dựng
đóng góp vào tổng GDP của Việt Nam đòi hỏi phải sự dụng phương pháp
dự báo bằng mô hình cộng tính có sự xuất hiện của yếu tố mùa vụ.
Sau bước đầu tạm loại bỏ yếu tố mùa vụ ra khỏi ra mô hình, với yếu
tố xu thế, nhóm tác giả đưa đến hàm hồi quy mẫu (SRF) có dạng tổng quát
sau:
GDPtsa = α1 + α2.T + ut
Trong đó:
GDPtsa

Lượng GDP mà ngành Công nghiệp và Xây dựng đóng góp
vào tổng GDP Việt Nam năm 2019 sau khi đã được tách yếu tố

T
ut

mùa vụ
Biến yếu tố xu thế
Nhiễu

 Dự báo xuất khẩu dầu thô của Việt Nam năm 2019
Từ xưa đến nay, việc xuất khẩu một lượng sản phẩm thô như dầu thô,
than đá… mang lại cho Việt Nam một lượng ngoại tệ rất lớn. sau khi ứng
dụng được những tiến bộ về khoa học – kỹ thuật trong cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, các ngành công nghiệp phụ trợ như công nghiệp chế
biến… ngày càng phát triển. Chính vì vậy nhóm tác giả kỳ vọng rằng, trong

25


×