Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

LV Thạc sỹ_Hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại cty tư vấn xây dựng điện 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.39 KB, 84 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Chuyển đổi hình thức sở hữu được coi là nhiệm vụ chiến lược trong
công cuộc đổi mới của đất nước ta, là động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh
và là kênh huy động vốn rất hiệu quả đối với các doanh nghiệp. Một trong
những khâu quan trọng của quá trình này là xác định giá trị doanh nghiệp, nó
là cơ sở có sức chi phối rất lớn đến các quyết định và hành động của chính
phủ, nhà đầu tư, nhà quản lý và các bên liên quan.
Tất cả đều thừa nhận, giá trị doanh nghiệp được xác định hợp lý sẽ đảm
bảo lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của Nhà nước. Nhưng nhiều ý kiến cho
rằng việc định giá trị doanh nghiệp hiện nay vẫn còn mang tính chủ quan,
hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn. Bên cạnh đó việc
xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc định giá trị doanh nghiệp
cổ phần hoá. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn vấn đề tài chính khi
chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề
này vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Mỗi doanh nghiệp có đặc điểm riêng về tài sản đầu tư, lao động, ngành
nghề kinh doanh nên việc xác định giá trị doanh nghiệp ở những thời điểm
nhất định là một việc rất phức tạp. Công ty Tư vấn Xây dựng Điện 1 là một
doanh nghiệp nhà nước đang trong giai đoạn triển khai cổ phần hóa. Trong
quá trình xác định giá trị doanh nghiệp đã gặp phải một số khó khăn như lựa
chọn phương pháp xác định, cách xác định giá trị của tài sản vô hình …điều
này cho kết quả xác định giá trị doanh không đúng hoàn toàn với giá trị thực
của nó.
Nghiên cứu, tìm hiểu phương pháp định giá doanh nghiệp mà Công ty
Tư vấn Xây dựng Điện 1 đã áp dụng từ đó đưa ra các đề xuất nhằm khắc phục


2


những sai sót, hạn chế, đồng thời giúp cho các nhà đầu tư xác định được giá
trị thực sự của công ty để có cho mình được quyết định đầu tư đúng đắn và
hiệu quả. Đồng thời phần nào có thể giải thích cho nguyên nhân sự chậm trể
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nói chung.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác định
giá doanh nghiệp tại Công ty Tư vấn Xây dựng Điện 1” làm luận văn thạc
sỹ.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Bắt đầu từ năm 1990 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến cổ phần hóa, phương pháp định giá doanh nghiệp, thẩm định giá trị
doanh nghiệp ...; Như luận án của tác giả Nguyễn Minh Hoàng năm 2001, chỉ
nghiên cứu về “hoàn thiện phương pháp định giá doanh nghiệp”. Tác giá
Trịnh Thị Kim Ngân năm 1999 nghiên cứu với luận văn thạc sỹ về “Giải
pháp về tài chính tín dụng nhằm thúc đẩy quá trình CPH của DNNN trong
lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dụng”. Tác giả Nguyễn Thị Hương Nga năm
2002 cũng chỉ nghiên cứu “hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Ngoài ra còn nhiều bài viết liên quan đến
phương pháp định giá doanh nghiệp, CPH, định giá TSVH ... Có thể thấy
phạm vi của các nghiên cứu và các bài viết này chỉ đề cập một phần đến định
giá doanh nghiệp hoặc một số khía cạnh của phương pháp định giá doanh
nghiệp mà thôi.
Đặc biệt, năm 2005 tác giả Nguyễn Vũ Thùy Hương với luận văn thạc
sỹ đã nghiên cứu “hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp ở Việt Nam”.
Tuy nhiên, luận văn này chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đến năm 2004, đối
tượng khảo sát hẹp, chủ yếu là các doanh nghiệp định giá doanh nghiệp bằng


3


phương pháp tài sản.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về định giá doanh nghiệp,
công tác định giá doanh nghiệp.
- Phân tích công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Tư vấn Xây dựng
Điện 1.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại
Công ty Tư vấn Xây dựng Điện 1.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Đối tượng nghiên cứu: tập chung vào trình tự, công tác tổ chức , thực
hiện định giá doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu công tác định giá doanh nghiệp tại
Công ty Tư vấn Xây dựng Điện 1.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình nghiên cứu các nội dung của đề tài tác giả đã sử dụng
phép biện chứng và quan điểm lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn. Ngoài ra tác giả còn dùng phương pháp phân tích thống kê, tổng hợp và
đối chiếu so sánh để nghiên cứu thực trạng và đưa ra những giải pháp cho
hiện tại và tương lai.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

-

Hệ thống hoá những lý luận cơ bàn về công tác định giá doanh nghiệp.

-


Phân tích công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Tư vấn Xây dựng


4

Điện 1.
-

Đưa ra các phương pháp định giá khác nhằm so sánh kết quả định giá

của Công ty Tư vấn Xây dựng Điện 1 đã áp dụng. Đồng thời đưa ra giải
pháp hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Tư vấn Xây
dựng Điện 1 và đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước.
KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày theo 3 chương.
Chương 1: Lý luận cơ bản về công tác định giá doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Tư vấn
Xây dựng Điện 1.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công
ty Tư vấn Xây dựng Điện 1.


5

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC
ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP


1.1. GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ .
1.1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế .
1.1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp:
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Kinh doanh là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của Doanh nghiệp rất phong
phú và đa dạng nhưng nhìn chung các Doanh nghiệp có những nét đặc trưng
chủ yếu sau:
Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã
hội.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp là quá trình
kết hợp và biến đổi các yếu tố đầu vào tạo thành các yếu tố đầu ra là sản phẩm
dịch vụ đem lại giá trị mới. Chính sự tạo ra giá trị mới này đưa đến sự tăng
trưởng kinh tế, phồn vinh xã hội và củng cố địa vị của Doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một đơn vị phân phối


6

Trong quá trình hoạt động, khi tiêu thụ các sản phẩm đầu ra, Doanh nghiệp có
một khoản thu nhập trên cơ sở đó thực hiện việc phân phối cho các tác nhân
trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình như: trả lương cho người lao
động, thanh toán cho người cung ứng, trả lãi vay, nộp thuế, chia cổ tức …Như
vậy Doanh nghiệp là khâu đầu tiên của việc phân phối lần đầu và các chính
sách phân phối của Doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng lớn đến rất nhiều đối tượng.
Doanh nghiệp là một tổ chức sống

Quá trình hoạt động của Doanh nghiệp là quá trình vận động không ngừng để
thực hiện các mục tiêu của nó. Điều đó đòi hỏi khi nhìn nhận đánh giá một
Doanh nghiệp phải đặt nó trong trạng thái vận động. Trong nền kinh tế thị
trường, mỗi Doanh nghiệp đều hoạt động nhằm mục tiêu khác nhau: mục tiêu
lợi nhuận, mục tiêu cung ứng, mục tiêu phát triển.
Qua các đặc trưng của Doanh nghiệp cho thấy: Doanh nghiệp như một cơ thể
sống bao gồm nhiều bộ phẩn cấu tthành vận động không ngừng nhằm đạt lợi
nhuận ngày càng nhiều cho nhà đầu tư.
1.1.1.2. Các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp Nhà nước:
Theo nhận thức thông thường, thuật ngữ “Doanh nghiệp Nhà nước” (DNNN)
dùng để chỉ Doanh nghiệp (DN) do Nhà nước đầu tư vốn và quyết định các
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Về mặt pháp lý, luật DNNN quy định: DNNN có tư cách pháp nhân, có các
quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh
doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý. Vốn Nhà nước giao cho các DN


7

quản lý và sử dụng là vốn ngân sách cấp, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn
do DNNN tự tích luỹ.
Công ty Cổ phần
Công ty Cổ phần là Doanh nghiệp được thành lập mà trong đó các cổ đông
cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro,
cùng chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ khác trong phạm vi số
vốn mình góp.
Trước dây CTCP ở nước ta hoạt động theo Luật Công Ty, và kể từ ngày
01.01.2000 hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn mức
vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về mọi hoạt động của Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Doanh nghiệp được thành lập
do một tổ chức làm chủ sở hữu (Chủ sở hữu công ty), tự chịu trách nhiệm và
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của Doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn điều lệ của Doanh nghiệp. Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng
toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, các nhân khác.
1.1.2. Giá trị doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Khái niệm về giá trị doanh nghiệp cần được xem xét trên các góc độ về
đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp.


8

- Thứ nhất: Là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh. Nhưng đồng thời
cũng là một hàng hoá đặc biệt. Theo đó, doanh nghiệp cũng có thể trao đổi,
mua bán như những hàng hoá thông thường khác. Khái niệm “doanh nghiệp”
cũng như khái niệm về “giá trị doanh nghiệp” là những khái niệm thuộc phạm
trù của kinh tế thị trường. Quan niệm về giá trị, cũng như tiêu chuẩn để nhận
biết giá trị như đã nêu ở phần trên được sử dụng để định giá doanh nghiệp.
- Thứ hai: Là một tổ chức, một đơn vị kinh tế, không giống như những
tài sản thông thường. Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế luôn vận động.
Thông qua sự vận động để nhận ra doanh nghiệp.Doanh nghiệp không phải là
một tập hợp các loại tài sản với nhau. Khi phá sản, doanh nghiệp không còn
tồn tại với tư cách của một tổ chức kinh doanh nữa và chỉ là một sự hỗn hợp
các loại tài sản đơn lẻ, rời rạc để thanh lý, phát mãi như những hàng hoá
thông thường. Nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một doanh nghiệp. Chính vì
vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ dùng cho những doanh nghiệp

đang trong quá trình liên tục hoạt động.
- Thứ ba: Là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng
là một phần tử trong hệ thống lớn - nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của doanh
nghiệp là ở mối quan hệ của nó với các phần tử khác của hệ thống, tức là mối
quan hệ với các cơ quan, các thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn tại
của doanh nghiệp không chỉ được quyết định bởi các mối quan hệ bên trong
doanh nghiệp mà còn bởi mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, như: môi
trường kinh doanh, nguồn lực, nhà cung cấp ….
Sự phát triển của doanh nghiệp ở mức độ nào là tuỳ thuộc vào mức đô
bền chặt của các mối quan hệ đó với môi trường xung quanh. Doanh nghiệp
có đạt được mục tiêu lợi nhuận của mình hay không sẽ phụ thuộc có tính
quyết định ở các mối quan hệ đó. Chính vì vậy, công tác định giá doanh


9

nghiệp đòi hỏi phải xem xét tất cả các mối quan hệ nói trên không chỉ đơn
thuần bao gồm nội dung đánh giá về những tài sản trong doanh nghiệp, mà
điều quan trọng hơn là phải đánh giá nó về mặt tổ chức, nguồn nhân lực,
danh tiếng, những triển vọng …
- Thứ tư: Các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp không nhằm vào việc
sở hữu các tài sản cố định, tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh
doanh năng động mà nhằm vào mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu
chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động - lợi ích doanh nghiệp đối với các nhà
đầu tư là ở các khoản thu nhập từ hoạt động SXKD. Vì vậy, tại các nước có
nền kinh tế thị trường phát triển, giá trị doanh nghiệp được xác định căn cứ
vào các khoản thu nhập trong quá trình SXKD.
Nói tóm lại, giá trị doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình
SXKD. Để định giá doanh nghiệp, xét về mặt nguyên lý, chỉ có thể tồn tại hai

cách tiếp cận, đó là:
(1) Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp và đánh
giá giá trị của yếu tố tổ chức.
(2) Bằng một phương pháp nào đó để lượng hoá các khoản thu nhập mà
doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư một cách đáng tin cậy.
Do đó, trong công tác định giá doanh nghiệp, một phương pháp định
giá doanh nghiệp, được gọi là cơ bản và khoa học, trước hết, phải
thuộc vào một trong hai cách tiếp cận nói trên. Đồng thời, kết quả định
giá doanh nghiệp không phải là giá cả của doanh nghiệp vì cũng giống
như các loại hàng hoá khác, giá trị thị trường của doanh nghiệp chịu
sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị,


10

quy luật cung cầu … nên kết quả định giá doanh nghiệp chỉ là một căn
cứ, một cơ sở tin cậy để các bên xem xét thương lượng và thống nhất.
Giá cả là giá được chấp nhận giữa các bên
1.2.

ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ.

1.2.1. Khái niệm về định giá doanh nghiệp và công tác định giá doanh
nghiệp.
Định giá doanh nghiệp là một khâu rất quan trọng trong quá trình đổi
mới doanh nghiệp, cấu trúc lại nền kinh tế và cũng thường được áp dụng khi
các doanh nghiệp tổ chức sắp xếp, cơ cấu lại dây chuyền sản xuất hoặc các bộ
phận sản xuất kinh doanh. Quá trình định giá nhằm mục tiêu tính toán, xác
định giá trị của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Thông thường, đây
là quá trình ước tính khoản tiền mà người mua có thể trả để có được doanh

nghiệp. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế đều cho rằng: Định giá doanh
nghiệp là quá trình mang nhiều tính nghệ thuật hơn là tính chính xác, vì quá
trình định giá doanh nghiệp chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh dự tính trong tương lai chứ không chỉ đơn thuần dựa trên các hoạt động
quá khứ. Điều này đòi hỏi các chuyên gia không những chỉ nắm vững kỹ
thuật định giá mà còn phải có khả năng phán đoán nghiệp vụ tốt.
Hoạt động của doanh nghiệp là liên tục và biến đổi không ngừng nên
khi lập báo cáo tài chính người ta không quan tâm đến giá trị thực tế của các
loại tài sản mà chỉ phản ánh tài sản của doanh nghiệp theo “Nguyên tắc giá
gốc”,trên “cơ sở dồn tính” và tính “Liên tục hoạt động”.Theo đó, giá trị thực
tế của doanh nghiệp sau một thời gian hoạt động sẽ không còn phù hợp với
giá trị sổ sách kế toán.
Do vậy, có thể đưa ra khái niệm định giá doanh nghiệp như sau: “Định


11

giá doanh nghiệp là xác định giá trị ước tính của doanh nghiệp theo giá cả
thị trường” và “Công tác Định giá doanh nghiệp là trình tự, cách thức và
phương pháp định giá được áp dụng để tiến hành định giá doanh nghiệp”.
“Giá trị ước tính” của doanh nghiệp gồm hai bộ phận: ”Giá trị thực”
của doanh nghiệp chính là giá trị còn lại của doanh nghiệp theo sổ sách kế
toán được tính theo giá thị trường vào thời điểm định giá và “Giá trị kỳ vọng”
chính là thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho chủ sở hữu
trong tương lai.
1.2.2. Sự cần thiết phải định giá doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp được coi như là một loại
hàng hoá để được mua bán, được trao đổi. Vì vậy, nhu cầu định giá hay xác
định giá trị đối với loại hàng hoá này là một đòi hỏi khách quan. Trong việc
điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước cũng như trong hoạt động quản trị kinh

doanh của các doanh nghiệp luôn cần thiết các thông tin về giá trị doanh
nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm
của các pháp nhân và thể nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp
đến các doanh nghiệp được đánh giá, cụ thể:
- Thứ nhất: Đối với các giao dịch hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp
nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính chất
thường xuyên và phổ biển trong cơ chế thị trường. Nó phản ánh các nhu cầu
về đầu tư trực tiếp vào SXKD, phản ánh nhu cầu đi tìm nguồn tài trợ cho sự
tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố từ bên ngoài, làm gia tăng một cách
nhanh chóng tiềm lực tài chính, nhằm tăng cường giao dịch đó, đòi hỏi phải
có sự đánh giá các yếu tố tác động tới doanh nghiệp; trong đó, giá trị doanh
nghiệp là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để quyết định


12

mức giá trong các giao dịch.
- Thứ hai: Giá trị doanh nghiệp thực chất là sự phản ánh năng lực tổng
hợp của một doanh nghiệp, phản ánh khả năng tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào đó, các nhà quản trị kinh doanh có thể thấy được
khả năng cạnh tranh không chỉ của doanh nghiệp mình mà còn cả khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp khác trong ngành và trong nền kinh tế. Vì
vậy, giá trị doanh nghiệp là một căn cứ thích hợp, là cơ sở để đưa ra các
quyết định về kinh doanh, về tài chính …. một cách đứng đắn. Ngoài ra, khi
phát hành chứng khoán nhằm thu hút vốn trên thị trường cũng cần định giá
doanh nghiệp làm cơ sở để tính toán được số lượng cần thiết cho mỗi đợt phát
hành chứng khoán.
- Thứ ba: Dưới giác độ của các nhà đầu tư, của người cung cấp thì
thông tin về giá trị doanh nghiệp cho thấy một sự đánh giá tổng quát về uy tín
kinh doanh, về khả năng tài chính, về vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra

các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc có tiếp tục cấp tín dụng cho doanh
nghiệp nữa hay không.
- Thứ tư: Giá cả của các loại chứng khoán trong điều kiện bình thường
(cung cầu về chứng khoán tương đối cân bằng) được quyết định bởi giá trị
thực của doanh nghiệp có chứng khoán được trao đổi, mua bán trên thị
trường. Vì vậy, trên phương diện quản lý kinh tế vĩ mô, thông tin về giá trị
doanh nghiệp được coi là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định
chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán kịp thời nhận
ra sự biến động không bình thường của giá cả chứng khoán, nhận ra dấu hiệu
của hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, đầu cơ thâu tóm quyền kiểm soát
doanh nghiệp …; Để từ đó sớm có biện pháp cần thiết ngăn chặn mối nguy cơ
xẩy ra khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ hiện tượng của một nền “kinh tế ảo”.


13

- Thứ năm: Nội dung cốt lõi của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét
cho đến cùng là phải tăng được giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, việc định giá
doanh nghiệp định kỳ sẽ là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt
động tài chính trong các doanh nghiệp.
- Thứ sáu: Việc xác định và thực hiện tốt các trình tự, cách thức và
phương pháp định giá áp dụng trong quá trình định giá doanh nghiệp sẽ là yêu
cầu căn bản để công tác định giá doanh nghiệp được hiệu quả và đem lại giá
trị phù hợp để các bên có liên quan dễ dàng chấp thuận.
Trên đây là những lý do cơ bản đòi hỏi phải tiến hành công tác định giá
doanh nghiệp. Đó vừa là những yêu cầu đời sống kinh tế nói chung, cũng vừa
là đòi hỏi có tính chất thường nhật trong hoạt động sản xuất kinh doanh đối
với các doanh nghiệp nói riêng. Đó cũng là những đòi hỏi, là mối quan tâm
của 3 loại chủ thể khác nhau: Nhà nước, Nhà đầu tư và Nhà quản trị doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc định giá doanh nghiệp là một vấn đề không đơn giản,

xét cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn của Việt nam cũng như trên thế giới.
1.2.3. Yêu cầu của định giá doanh nghiệp
1.2.3.1. Đảm bảo tính chính xác.
Có thể nói, đây là mục tiêu quan trọng nhất, là yêu cầu cần thiết nhất
của công tác định giá doanh nghiệp. Tất nhiên, những đối tượng quan tâm đến
kết quả định giá sẽ mong muốn thu được một kết quả chính xác nhất để phục
vụ tốt nhất cho những kế hoạch và dự định của mình. Đảm bảo tính chính xác
là mong muốn của tất cả mọi người. Chính bởi mục tiêu này là quan trọng
nhất nên cũng rất nhiều khó khăn để có thể đạt được nó. Chúng ta phải cần rất
nhiều yêu cầu và điều kiện khác nữa thì mới có thể đảm bảo được mục tiêu
này.


14

1.2.3.2. Đảm bảo tính nhanh chóng và đúng thời điểm.
Định giá doanh ngiệp rất cần phải nhanh chóng, nhưng đương nhiên
vẫn cần phải đảm bảo tính chính xác. Bởi lẽ, khi một người bắt đầu có nhu
cầu muốn biết giá trị của doanh ngiệp, tức là một kế hoạhc cần sử dụng kết
quả này đã được sắp đặt trước. Do vây, định giá phải nhanh chóng để đảm bảo
cho kế hoạch được thực hiện kịp thời, đúng lúc. Như vậy, tính nhanh chóng
đảm bảo cho việc sư dụng kết quả định giá được đúng thời điểm. Mà tính
đúng thời điểm đạt được khi mà việc định giá được tiến hành nhanh chóng.
Hai yên cầu này thống nhất, ràng buộc và quyết định lẫn nhau.
1.2.3.3. Đảm bảo tính khách quan và trung thực
Như đã phân tích, mục tiêu quan trọng nhất của định giá doanh nghiệp
là tính chính xác. Nhưng đặc tính này chỉ có được khi mà công tác định giá
được tiến hành một cách khách quan và trung thực. Đây là điều kiện cần để
đảm bảo cho kết quả định giá được chính xác.
1.2.3.4. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp phải phù hợp.

Yêu cầu này cũng rất quan trọng. Khi tiến hành định giá doanh nghiệp,
tổ chức định giá luôn luôn mong muốn phương pháp định giá mà họ lựa chọn
là một phương pháp phù hợp. Có như vậy kết quả xác định giá trị doanh
nghiệp mới được đảm bảo chính xác. Lựa chọn đúng phương pháp hay không
sẽ quyết định thành công hay thất bại của công tác định giá doanh nghiệp.
Như vậy, định giá doanh nghiệp đòi hỏi rất nhiều mục tiêu, yêu cầu.
Trong quá trình định giá doanh nghiệp, chúng ta mong muốn sẽ đạt được tất
cả các mục tiêu yêu cầu đó. Nhưng đây là một vấn đề rất khó khăn bởi nó
mang tính rất toàn diện.


15

Cho đên nay, người ta vẫn không ngừng nghiên cứu tìm tòi giải pháp để
khắc phục các khó khăn nhằm đạt được càng nhiều càng tốt các mục tiêu này.
1.2.4. Nội dung công tác định giá doanh nghiệp
1.2.4.1. Thu thập thông tin
Có thể nói, công tác định giá doanh nghiệp là quá trình mang tính nghệ
thuật. Để giá trị doanh nghiệp được định giá phù hợp và dễ dàng được chấp
thuận trên thị trường thì việc thu thập thông tin là yếu tố rất quan trọng, các
thông tin thu thập trong công tác định giá bao gồm:
Thông tin liên quan đến các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp:Bao gồm
các yếu tố liên quan đến môi trường kinh doanh tổng quát và môi trường đặc
thù của doanh nghiệp.
Các yếu tố về môi trường kinh doanh tổng quát: Bao gồm môi trường
kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hoá-xã hội, môi trường tự nhiên,
kỹ thuật …
Các yếu tố về môi trường kinh doanh đặc thù: So với môi trường tổng
quát, môi trường đặc thù bao gồm các yếu tố tác đọng đến SXKD của doanh
nghiệp mang tính chất trực tiếp và rõ rệt hơn. Hơn nữa, đối với các yếu tố này,

doanh nghiệp còn có thể kiểm soát chúng ở một mức độ nhất định. Môi
trường đặc thù gồm các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh
tranh và cơ quan Nhà nước.
Thông tin liên quan đến các yếu tố nội tại doanh nghiệp:Hiện trạng
về tài sản trong doanh nghiệp; vị trí kinh doanh; giá trị quyền sử dụng đất; uy
tính danh tiếng, thương hiệu kinh doanh; nguồn nhân lực (năng lực quản trị
kinh doanh và trình độ kỹ thuật và tay nghề người lao động) ….


16

Hệ thống thông tin tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động định giá
doanh nghiệp bao gồm cả những thông tin được cung cấp bởi doanh nghiệp
được định giá cũng như hệ thống thông tin thị trường. Kết quả, chất lượng
định giá phụ thuộc rất lớn vào việc cung cấp thông tin từ các doanh nghiệp.
Đặc biệt, đối với các DNNN khi cổ phần hoá hầu hết được hình thành từ thời
bao cấp, việc lưu trữ thông tin, sổ sách không có hệ thống và nguồn nhân lực
mang tính thụ động cao nên việc định giá gặp khá nhiều khó khăn. Ngoài ra,
các thông tin và thị trường, về ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng là yếu tố quan trọng mà những người làm công tác định
giá phải xem xét, phân tích vì hoạt động của các doanh nghiệp không chỉ phụ
thuộc vào đặc điểm nội bộ của doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào tình hình
chung của thị trường.
1.2.4.2. Phương pháp định giá doanh nghiệp
Để có một quan niện đầy đủ và chính thức về giá trị doanh nghiệp trong
công tác định giá doanh ngiệp cần phải xem xét trên các giác độ cơ bản sau
đây:
- Thứ nhất: Giá trị doanh nghiệp khác với giá bán doanh nghiệp trên thị
trường. Giá trị danh nghiệp được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà
doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư. Giá bán thực tế của doanh nghiệp

là mức giá được hình thành trên thị trường, có thể có sự khác biệt tương đối
lớn so với đánh giá của các chuyên giá kinh tế và các nhà đầu tư. Giá mua bán
doanh nghiệp còn chịu tác động của các yếu tố về cung cầu “hàng hoá-doanh
nghiệp”, cung cầu về chứng khoán và cung cầu về tiền tệ trên thị trường
- Thứ hai: Giá trị doanh nghiệp luôn tồn tại ngay cả khi không có việc
mua bán và chuyển nhượng. Giá trị doanh nghiệp chỉ đơn giản là một khái


17

niệm được các nhà đầu tư, các chuyên gia sử dụng trong việc đánh giá tổng
thể các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đưa lại. Để định giá doanh
nghiệp thường đòi hỏi phải có các chuyên gia có kinh nghiệm và hiểu biết
không những về chuyên môn và còn phải có vốn hiểu biết tương đối rộng về
kinh tế, chính trị và xã hội. Đồng thời cũng đòi hỏi về mặt đạo đức nghề
nghiệp cần thiết để đảm bảo tính trung thực, bí mật, khách quan, hạn chế sự
chi phối của các yếu tố mang tính gian lận làm bóp méo giá trị thực của doanh
nghiệp.
- Thứ ba: Công tác đinh giá doanh nghiệp không chỉ để cổ phần hoá,
mua, bán, sáp nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp mà còn nhằm phục
vụ cho nhiều hoạt động giao dịch kinh tế khác, như: xác định vị thế thị
trường, vị thế tín dụng, cung cấp thông tin cho hoạt động quản lý kinh tế vĩ
mô, cho hoạch định chiến lược v.v.
Như vậy, Công tác định giá doanh nghiệp, về thực chất là các trình tự,
cách thức và phương pháp định giá áp dụng trong việc lượng hoá mang tính
tin cậy về giá trị hiện tại của các tài sản trong doanh nghiệp theo giá thị
trường và các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong tương lai
làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
Trong thực tế, khi xây dựng các trình tự, cách thức và phương pháp
định giá doanh nghiệp, các nhà kinh tế trong các nước có nền kinh tế thị

trường phát triển, đã đứng trên nhiều góc độ khác nhau để đánh giá về lợi ích
của doanh nghiệp. Chính sự khác nhau trong việc nhìn nhận này đã quyết
định đến sự khác nhau về cách thức và phương pháp định giá doanh nghiệp.
Về phương pháp định giá doanh nghiệp được lựa chọn thông thường gồm 2
nhóm chủ yếu sau:


18

1.2.4.2.1. Nhóm phương pháp dựa trên cơ sở kết quả hoạt
động
Nhóm phương pháp định giá này dựa trên quan điểm cho rằng giá trị
doanh nghiệp không đơn thuần là tổng số học giá trị các tài sản hiện có của
doanh nghiệp mà nó là tổng hợp các giá trị kinh tế được đo bằng khả năng
sinh lời của doanh nghiệp. Lợi nhuận luôn là mục tiêu quan trọng đối với
doanh nghiệp cũng như với các nhà đầu tư. Do đó, điều mà các nhà đầu tư
mong đợi là khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.
Nhóm phương pháp này gồm 5 phương pháp chủ yếu:
 Phương pháp chiết khấu dòng tiền (Discounted Cash Flow – DCF)
 Phương pháp chiết khấu dòng cổ tức
 Phương pháp Hệ số giá thị trường trên thu nhập (P/E)
 Phương pháp Hiện tại hoá lợi nhuận thuần (PV)
 Phương pháp Dòng tiền vốn chủ (FCFE)
(1) Phương pháp chiết khấu dòng tiền (Discounted Cash Flow – DCF)
DCF là phương pháp mà giá trị doanh nghiệp được xác định bằng cách hiện tại hoá
các luồng tiền thuần doanh nghiệp dự kiến thu được trong tương lai theo một tỷ lệ chiết
khấu tương ứng với mức độ rủi ro của doanh nghiệp.

Dòng tiền thuần của dự án đầu tư = Dòng tiền vào


- Dòng tiền ra

Trong đó:
- “Dòng tiền vào” là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang
lại dưới hình thức như: khấu hao TSCĐ, lợi nhuận thuần hàng năm và các
khoản vốn doanh nghiệp thu được khi dự án đầu tư kết thúc.


19

- “Dòng tiền ra” là các khoản chi đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm
các khoản vốn đầu tư vào TSCĐ và TSLĐ thường xuyên cho doanh nghiệp.
Phương pháp này được thực hiện thông qua công thức tổng quát sau:
Vo

=

CFt

 (1  i)
t 1

t



Vn
(1  i ) n

Trong đó:

Vo

: Giá trị doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại

CFt

: Dòng tiền thuần năm thứ t

Vn

: Giá trị doanh nghiệp ở cuối chu kỳ đầu tư (năm thứ n)

i

: Tỷ suất hiện tại hoá.

\

Việc xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này thường được
chia ra thành các bước cơ bản sau:
Quy trình thực hiện:
Bước 1: Phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ,
đánh giá, dự đoán chiến lược kinh doanh và kết quả kinh doanh trong tương
lai
Thực hiện dự báo dài hạn về các dòng tiền vào và dòng tiền ra trong
quá khứ để đánh giá ảnh hưởng đến dòng tiền phát sinh trong tương lai, bao
gồm: ước tính, dự đoán các chỉ tiêu như tỷ lệ tăng trưởng, tỷ suất hoàn vốn
đầu tư. Thường được thực hiện thông qua việc áp dụng phân tích SWOT
(điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) hoặc phân tích Five Forces (Khả
năng thâm nhập thị trường, sản phẩm/dịch vụ thay thế, nhà cung cấp, đối thủ

cạnh tranh, người mua/khách hàng) hoặc thông qua các bước:
- Đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (phân tích đăcj trưng của


20

ngành, những lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp qua đó đánh giá được khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như tiềm năng phát triển của doanh
nghiệp.
- Dự tính tiềm năng của doanh nghiệp trong tương lai (khả năng xây dựng
được hình ảnh của doanh nghiệp, các yếu tố có thể tác động mạnh tới hoạt
động SXKD như lạm phát, cầu của thị trường đối với sản phẩm của doanh
nghiệp)
- Dự báo về doanh thu, chi phí vận hành, các khoản vốn đầu tư bổ sung và
các khoản vốn rút ra khỏi quá trình luân chuyển trong từng năm
- Dự báo chu kỳ đầu tư (n) và giá trị doanh nghiệp ở thời điểm cuối của
chu kỳ đó ( Vn ). Thông thường thời điểm cuối của chu kỳ đầu tư được xác định
khi mà các số liệu dự báo trong tương lai xa không còn đủ độ tin cậy ở mức
độ cần thiết.
Bước 2: Xác định tỷ lệ chiết khấu dòng tiền i, nhưng phải đảm bảo các
nguyên tắc
- Tỷ suất chiết khấu được lựa chọn trên nguyên tắc vừa thể hiện được yếu
tố thời giá của tiền tệ vừa tính đến yếu tố rủi ro. Tỷ suất này thường dự tính
chi phí sử dụng vốn bình quân (phản ánh chi phí cơ hội đầu tư vốn vào doanh
nghiệp).
- Bao gồm i của tất cả các nguồn vốn vì CF phản ánh luồng tiền thuộc sở
hữu của tất cả các những người đầu tư vào doanh nghiệp. Lãi suất chiết khấu
phải được xác định cộng thêm với rủi ro hệ thống mà các nhà đầu tư phải
gánh chịu.



21

- Giá trị nợ và cổ phiếu ưu tiên tính theo luồng tiền trái chủ nhận được. Giá
trị vốn chủ sở hữu: lấy theo giá cổ phiếu của doanh nghiệp đang được giao
dịch trên thị trường. Nếu không có thì có thể sử dụng giá trị sổ sách và chính
sách cơ cấu vốn.
- Khi có những thay đổi bất thường trong tương lai như lạm phát, rủi ro hệ
thống thì phải điều chỉnh lại các yếu tố tính CF.
Bước 3: Xác định giá trị hiện tại của dòng tiền thuần theo tỷ suất chiết khấu
(i) nói trên để tìm ra giá trị doanh nghiệp.
Giá trị của toàn doanh nghiệp là tổng giá trị hoạt động SXKD trong các
năm của doanh nghiệp cộng với giá trị của tài sản khi kết thúc hoạt động
SXKD.
Giá trị vốn chủ sở hữu bằng giá trị toàn doanh nghiệp trừ đi giá thị
trường của tất cả các khoản nợ.
 Ưu điểm:
- Định giá sát thực hơn giá trị của các doanh nghiệp đang hoạt động có
hiệu quả, có kế hoạch và chiến lược kinh doanh tốt, thể hiện khả năng phát
triển trong tương lai.
- Quan niệm về dòng tiền còn cho phép các chuyên gia định giá doanh
nghiệp tránh được vấn đề phức tạp khi phải điều chỉnh số liệu kế toán sao cho
có thể phản ánh đúng thời điểm phát sinh các khoản tiền, như điều chỉnh
doanh thu, khấu hao, cách hạch toán hàng tồn kho …
 Nhược điểm:


22

- Áp dụng DCF sẽ gặp phải những khó khăn khi ước lượng tỷ suất hiện tại

hoá (i) và chu kỳ đầu tư (n). Mặt khác, việc dự báo các “dòng tiền vào” và
“dòng tiền ra” nhiều khi phức tạp và mang tính suy đoán.
- Đối với các doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh hoặc có chiến
lược kinh doanh không rõ ràng thì phương pháp này trong chừng mực nào đó,
có thể nói còn mang nhiều tính lý thuyết.
- Đòi hỏi một lượng thông tin lớn, mang tính tin cậy để đánh giá sự ảnh
hưởng của các yếu tố về môi trường vĩ mô, vi mô, các yếu tố bên trong và bên
ngoài tác động đến doanh nghiệp.
 Đối tượng áp dụng:
Đối với những doanh nghiệp có căn cứ để ước tính được tình hình hoạt
động trong tương lai, những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn thiết kế xây dựng, tin học và chuyển
giao công nghệ … mà tài sản của doanh nghiệp chủ yếu là tài sản vô hình
(2) Phương pháp chiết khấu dòng cổ tức (DDM)
Định giá trên cơ sở chiết khấu dòng cổ tức thu được trong tương lai về
hiện tại với một tỷ lệ thích hợp tương ứng với mức rủi ro của chứng khoán.
Phương pháp này được xây dựng trên cơ sở nhà đầu tư bỏ tiền ra mua
chứng khoán (tức là mua doanh nghiệp) không phải là để lấy những tài sản
hiện hành trong doanh nghiệp, mà là để đổi lấy các khoản thu nhập trong
tương lai. Giá trị thực của một chứng khoán phải được đánh giá bằng độ lớn
của khoản thu nhập mà nhà đầu tư chắc chắn sẽ nhận được từ chính doanh
nghiệp đó, chứ không phải thu nhập có được do yếu tố đầu cơ chứng khoán.


23

Theo đó, giá trị doanh nghiệp sẽ bằng tổng giá trị các loại chứng khoán mà
doanh nghiệp đã phát hành.
Công thức tổng quát xác định giá trị thực của các loại chứng khoán đã
được xây dựng như sau:

V0 =

Rt
R1
R2


....

(1  i ) (1  i ) 2
(1  i ) t

(1.3)

Trong đó :
V0 : Giá trị thực của một chứng khoán
Rt : Thu nhập của chứng khoán ở năm thứ t
i : Tỷ suất hiện tại hoá
n: Số năm nhận được thu nhập
Công thức (1.3) chỉ ra rằng giá trị thực của một chứng khoán được xác
định bằng tổng giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong tương lai mà
chứng khoán có thể đem lại cho người sở hữu nó. Dựa vào công thức tổng
quát này người ta thực hiện xác định giá trị cho từng loại chứng khoán cụ thể.
 Ưu điểm:
- Không cần quá nhiều giả thiết, dễ sử dụng
- Dễ dàng trong việc xác định Dt và tốc độ tăng trưởng của Dt
- Với một số doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng không ổn định thông qua
việc sử dụng mô hình Gordon nhiều giai đoạn thông qua việc xác định từng
giai đoạn phát triển của doanh nghiệp: giai đoạn tăng trưởng cao, giai đoạn
tăng trưởng ổn định áp dụng cho từng giai đoạn tăng trưởng.

 Nhược điểm:


24

- Mô hình rất nhạy cảm với hệ số đầu vào: tốc độ tăng trưởng của Dt
- Mô hình sẽ không sử dụng được nếu g> i
- Mô hình sẽ khó áp dụng hoặc có thể không áp dụng được với các doanh
nghiệp chưa thực hiện chi trả cổ tức trong quá khức và sẽ đánh giá thấp giá trị
cổ phiếu của doanh nghiệp có xu hướng chi trả cổ tức thấp, sử dụng lợi nhuận
để lại tái đầu tư.
- Giả định mà mô hình đưa ra không phải lúc nào cũng đúng vì trong thực
tế ít có doanh nghiệp nào cổ tức tăng trưởng với một tỷ lệ nhất định và tồn tại
mãi mãi.
 Đối tượng áp dụng:
Phương pháp này thường được sử dụng để định giá các doanh nghiệp
dựa trên dòng lợi tức cổ phần, khá thích hợp với các doanh nghiệp có chứng
khoán được giao dịch trên thị trường, xác định giá trị tài sản thuần gặp nhiều
khó khăn và những doanh nghiệp có tài sản hữu hình không đáng kể nhưng
được đánh giá rất cao ở những giá trị vô hình, chẳng hạn như các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, …
(3) Phương pháp hệ số giá thị trường trên thu nhập (P/E)
Phương pháp này dựa trên dự tính về khả năng sinh lời của doanh
nghiệp và tính toán theo hệ số giá thị trường trên thu nhập.
Công thức tính:

V

=


Pg x P/E

V: Giá trị doanh nghiệp

(1.9)


25

Pg : Lợi nhuận có thể đạt được
P/E: Hệ số giá thị trường trên thu nhập
Để xác định được giá trị doanh nghiệp thì cần phải xác định được:
 Lợi nhuận có thể đạt được Pg: Pg được coi như lợi nhuận của bất cứ
khoản đầu tư nào của doanh nghiệp. Nếu xem xét trên báo cáo kết quả
kinh doanh thì đó chính là lợi nhuận trước thuế.
 Hệ số giá thị trường trên thu nhập (P/E)
P/E =

Ps
EPS

(1.10)

Trong đó:
Ps:Giá mua bán cổ phiếu trên thị trường
ESP: TN dự kiến của mỗi cổ phần hoặc LNT cho mỗi cổ phiếu đang
lưu hành
Hệ số P/E cho biết để có được một đồng thu nhập từ cổ phiếu, người
đầu tư phải bỏ ra bao nhiêu. Nhà đầu tư thường ưa thích cổ phiếu có P/E cao

vì điều đó chứng tỏ doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nên thị trường trả
giá cao.
Với những doanh nghiệp mà hệ số P/E không được công bố thì có thể
tham khảo P/E của các doanh nghiệp cùng ngành có mức rủi ro tương ứng với
doanh nghiệp cần định giá. Tuy nhiên cần phải điều chỉnh để đưa ra chỉ số
chính xác, phù hợp với các đặc điểm của doanh nghiệp được định giá.
 Ưu điểm:


×