Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LV Thạc sỹ_nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của CN Vietcombank hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 112 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển đều phải cạnh tranh với nhiều đối thủ khác trên thị trường. Đây là xu
thế tất yếu đòi hỏi các doanh nghiệp phải thích nghi và chuẩn bị những điều kiện
tốt nhất để có thể giành lợi thế trong cạnh tranh. Cạnh tranh là một môi trường
để các doanh nghiệp “thử sức mình” qua đó có thể giúp doanh nghiệp đạt được
thành công trong hoạt động kinh doanh hoặc cũng để loại bỏ những doanh
nghiệp kinh doanh không có hiệu quả. Để củng cố vị thế và đứng vững trên
thương trường, các doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải không ngừng
đổi mới, đa dạng hoá hàng hoá, dịch vụ của mình để đáp ứng và thoả mãn một
cách tốt nhất nhu cầu của thị trường mà cụ thể ở đây là các khách hàng trực tiếp
sử dụng hàng hoá, dịch vụ của họ.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp với hoạt động kinh
doanh đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại đều chịu tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị
trường trong đó có cạnh tranh. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động
kinh doanh cơ bản và quan trọng của ngân hàng thương mại nên cũng không
nằm ngoài tác động của quy luật này. Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng giúp
các ngân hàng thương mại khẳng định vị thế trong hoạt động tín dụng qua đó kết
hợp việc giới thiệu và bán chéo các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng để có thể
mở rộng thị phần hoạt động chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để góp phần làm rõ thêm vấn đề này, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu lý
luận và thực tiễn tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tôi đã tiếp cận đề tài
“Nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội”.


2



2. Mục tiêu nghiên cứu:
+ Luận giải để làm rõ hơn về vấn đề cạnh tranh trong hoạt động tín dụng
của các Ngân hàng thương mại.
+ Phân tích những ưu điểm và hạn chế về năng lực cạnh tranh trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội hiện nay.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng mà tập trung vào hoạt động
cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong giai đoạn 20042008.
4. Kết cấu của đề tài:
Nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của các Ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của
Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín
dụng của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.


3

Chương 1:
NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền

kinh tế. Loại hình kinh doanh ngân hàng có một lịch sử hình thành lâu đời bắt
đầu từ những người đổi tiền, công nghiệp Ngân hàng đã dần dần lan rộng từ nền
văn minh cổ đại Hy Lạp và La Mã sang văn minh Bắc Âu, Tây Âu và phát triển
rộng rãi trên toàn thế giới cho đến ngày nay.
Để đưa ra được một định nghĩa về ngân hàng thương mại (NHTM), người
ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Luật Ngân hàng của Pháp, năm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình
thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các
nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay như Luật của Ngân
hàng ấn Độ năm 1950, được bổ sung năm 1959 đã nêu:“Ngân hàng là cơ sở
nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”. Những định nghĩa
đại loại như vậy là căn cứ vào mục đích, tính chất hoạt động.
Một loạt định nghĩa khác lại căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt
động. Ví dụ như Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930 địng nghĩa: “những nhà
băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành
nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu,
thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm... ”
Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng cách tiếp cận thận trọng
nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà


4

chúng cung cấp. Ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặt biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “ Tổ chức

tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy
định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán” .
1.1.1.2 Các chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại
Từ những khái niệm cơ bản về ngân hàng thương mại, có thể khái quát
được các chức năng cơ bản của chúng như sau:
Thứ nhất là chức năng trung gian tài chính: Ngân hàng là một tổ chức
trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư,
ngân hàng huy động vốn của các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng dư vốn để
cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân tạm thời thâm hụt trong chi tiêu. Cơ chế
hoạt động của trung gian tài chính hạn chế rủi ro của quan hệ tín dụng trực tiếp
do trung gian sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế và phân tán rủi ro cũng
như giảm chi phí giao dịch trong quá trình hoạt động.
Thứ hai là chức năng tạo phương tiện thanh toán: Khi ngân hàng sử dụng
nguồn vốn huy động của mình để cho vay, số dư trên tài khoản thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoá, dịch vụ qua đó
các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Xét trên toàn bộ hệ thống ngân
hàng, chức năng tạo tiền được thực hiện khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ
ngân hàng này sang ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
Thứ ba là chức năng trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung
gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng,
ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Để việc thanh toán
nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng
nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các


5

loại thẻ… và cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp

tiền giấy khi khách hàng cần. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp
phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong
một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh
toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng,
biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục
vụ đắc lực cho kinh tế toàn cầu.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn:
Các NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với nền kinh tế bằng
cách cung ứng những điều kiện thuận lợi và những phương thức dễ dàng để nhận
tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng (TCTD) khác dưới các
hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Các tổ chức, cá nhân, các TCTD khác được nhận một khoản tiền thưởng dưới
danh nghĩa lãi suất trên tổng số tiền gửi, với mức độ an toàn và hình thức thanh
khoản cao.
Ngoài ra, các NHTM còn huy động vốn dưới dạng phát hành các giấy tờ
có giá, vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước (NHNN) dưới hình thức tái
cấp vốn, vay của các TCTD khác...Số tiền huy động được thông qua hình thức
tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của
các doanh nghiệp và cá nhân. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao do đó
các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các
ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn
sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm
thời để kinh doanh.
Các hình thức huy động vốn của NHTM bao gồm:
 Vốn chủ sở hữu:


6


Nguồn vốn này là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được luật pháp cho phép hoạt
động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài. Nguồn hình thành nên
vốn chủ sở hữu gồm nguồn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá
trình hoạt động, nguồn vay nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phần và các quỹ.
Vốn chủ sở hữu ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính
chất sở hữu và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là
vốn do các cá nhân bỏ ra, nếu thuộc sở hữu nhà nước thì do ngân sách nhà nước
cấp, nếu là ngân hàng cổ phần thì do cổ đông đóng góp, nếu là ngân hàng liên
doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp.
Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động bao gồm: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm theo một tỷ lệ nhất định nhằm tăng cường
vốn chủ sở hữu, quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình
hoạt động kinh doanh nhằm bảo toàn vốn điều lệ, lợi nhuận chưa phân bổ và các
quỹ nghiệp vụ khác (quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, khấu hao, quỹ phát triển kỹ
thuật nghiệp vụ ngân hàng….).
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
song vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng. Vốn chủ sở hữu thể hiện sức
mạnh bản thân ngân hàng, là chỗ dựa quan trọng đảm bảo thanh toán tiền lãi cho
các khoản vay khi ngân hàng lâm vào tình trạng xấu nhất là phá sản. Vì vậy, với
chức năng bảo vệ này, vốn chủ sở hữu được coi như tài sản đảm bảo mang lại
niềm tin với khách hàng. Nó là căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng vốn
huy động của ngân hàng cũng như danh mục tài sản đầu tư của NHTM…
 Huy động tiền gửi:
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Tiền gửi được chia thành các
loại sau:
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn)
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của



7

doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Nhìn chung, lãi suất của
tiền gửi thanh toán rất thấp, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các
dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Tuy nhiên hiện nay các NHTM đã sử dụng
nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất của loại tiền
gửi này để cạnh tranh trong việc huy động vốn.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm
Tiền gửi thanh toán mang lại thuận tiện cho hoạt động thanh toán nhưng lãi suất
thu được rất thấp. Nhiều khoản thu của doanh nghiệp chưa cần thanh toán ngay,
vì vậy các doanh nghiệp thường gửi có kỳ hạn tại ngân hàng để được hưởng lãi
suất cao hơn. Khoản mục quan trọng nhất trong nguồn huy động là tiền gửi tiết
kiệm của tầng lớp dân cư. Mục đích bảo toàn và sinh lợi được đặt lên hàng đầu,
đặc biệt là nhu cầu an toàn. Nhằm thu hút nhiều tiền gửi tiết kiệm, ngân hàng mở
rộng mạng lưới huy động vốn: đa dạng về hình thức (nội tệ, ngoại tệ, vàng…)
và kỳ hạn (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Về
mặt nguyên tắc, tiền gửi tiết kiệm có thời hạn không được rút ra theo yêu cầu mà
phải thông báo trước, tuy nhiên do cạnh tranh trong việc huy động các khoản
tiền gửi nên các NHTM cho phép khách hàng rút tiền ngay, thậm chí còn được
hưởng lãi không kỳ hạn hoặc theo một số lãi suất đặc biệt khác. Lãi suất mà
ngân hàng trả cho tiền gửi có kỳ hạn (bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm) thường cao
hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền gửi của các ngân hàng khác
Ngày nay, nhằm cung cấp các tiện ích ngân hàng một cách hoàn hảo và
để phát triển hệ thống liên kết giữa các ngân hàng với nhau, NHTM này có thể
gửi tiền tại NHTM khác để thanh toán hộ… Trong bảng tổng kết tài sản, bên
phần nguồn vốn, khoản mục này thường không lớn.
 Nguồn đi vay

Tỷ trọng nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền gửi. Khác với nhận tiền gửi,
ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên, chỉ vay lúc cần thiết và
hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng.


8

Các khoản vay thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời
khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. Hơn nữa vay ngân hàng trung
ương (NHTU) phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Các nguồn vay chủ yếu của NHTM:
Vay trên thị trường vốn: Để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, NHTM cũng
phát hành các loại công cụ nợ như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu…trên
thị trường vốn nhằm mục đích đã định. Ví dụ phát hành kỳ phiếu để có tiền cho
vay khắc phục hậu quả bão lụt, để cho vay thu mua nông sản, để đầu tư cho một
dự án…Trong phát hành giấy tờ có giá thì chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn
hạn với mệnh giá quy định; trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Nguồn
này thông thường không có đảm bảo, lãi suất thường cao hơn lãi suất trả cho tiền
gửi huy động. Ngân hàng có uy tín và trả lãi cao sẽ vay mượn được nhiều hơn,
các ngân hàng nhỏ rất khó vay được nguồn này mà thường phải vay thông qua
các ngân hàng đại lý. Tuy nhiên, để có thể sử dụng được các công cụ nợ trên thị
trường vốn, đòi hỏi mỗi nước phải có thị trường tài chính phát triển tạo khả năng
chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Trước khi phát hành,
NHTM phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi
suất và thời hạn thích hợp. Nói chung, sự ổn định về tình hình kinh tế – chính trị
sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới phương thức vay này.
Vay các tổ chức tín dụng khác: là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và
vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng
đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy
động hoặc giảm cho vay có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm

kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu
vay mượn tức thời để đảm bảo khả năng thanh khoản. Như vậy, nguồn vay mượn
từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách nhằm bổ
sung hoặc thay thế nguồn vay mượn từ NHNN. Khi đó, lãi suất mà NHTM phải
chấp nhận thường cao hơn lãi suất huy động từ các nguồn khác. Khoản vay đó
có thể không cần đảm bảo hoặc đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc.


9

Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả
của NHTM. Việc cấp vốn của NHNN thường thông qua hình thức tái chiết khấu
các giấy tờ có giá của NHTM, cho vay tái cấp vốn hoặc cho vay theo hạn mức
tín dụng. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; tuỳ thuộc vào
chính sách tiền tệ từng thời kỳ mà NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo
và kiểm soát nhất định.
Một điều cho thấy, đặc biệt là ở những nước có nền kinh tế phát triển, cho dù
NHNN áp dụng mức lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất phạt cao hay thấp thế
nào đi nữa thì NHNN vẫn phải cho các NHTM vay khi NHTM bị kẹt thanh toán
để tránh những cơn khủng hoảng tài chính không đáng xảy ra và thực hiện tốt
chức năng là “người cho vay cuối cùng” của nền kinh tế.
 Các nguồn khác:
Ngoài những phương thức huy động vốn kể trên, NHTM còn có các
nguồn uỷ thác, vay từ công ty mẹ, nguồn trong thanh toán, nguồn khác (thuế
chưa nộp, lương chưa trả…)
Tất cả những hình thức huy động như trên nếu xét theo loại tiền sẽ bao gồm huy
động vốn nội tệ và ngoại tệ, nếu xét theo phạm vi hoạt động sẽ có huy động vốn
trong nước và nước ngoài…
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng :
Tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản

ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Có thể hiểu rằng: “ Tín dụng ngân hàng
là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng, còn bên kia là các pháp nhân
và thể nhân khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả”. Việc hoàn trả
được nợ gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên
thị trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được
giá trị thặng dư trên thị trường.
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Chính
vì vậy, hoạt động tín dụng của NHTM phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định
nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời, đó là:


10

Thứ nhất: Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn ( gốc) và lãi với thời gian xác
định: Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền
gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu
người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân
hàng tồn tại và phát triển.
Thứ hai: Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả
thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định
khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các
ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt
động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân
hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp
với cương lĩnh của ngân hàng.
Thứ ba: Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án) có hiệu quả. Thực
hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án
hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi vốn đầu
tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền

với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an
toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
Hoạt động tín dụng của các NHTM có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí
khác nhau. Nếu phân theo thời gian, tín dụng ngân hàng được chia thành tín
dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn; Nếu phân theo hình thức
tài trợ tín dụng được chia thành các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho
thuê…; Nếu phân theo cách thức cho vay tín dụng được chia thành các nghiệp
vụ cho vay thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng,
cho vay luân chuyển, cho vay trả góp…; Nếu phân theo loại tài sản đảm bảo tín
dụng được chia thành tín dụng có tài sản đảm bảo và tín dụng không có tài sản
đảm bảo.
Hoạt động tín dụng có vai trò to lớn đối với các khách hàng các NHTM và cả
nền kinh tế.


11

Đối với nền kinh tế: Tín dụng ngân hàng là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ, góp phần
thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, điều tiết sự tăng trưởng kinh tế
và theo đuổi các mục tiêu xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn với mức vốn đầu tư
tương ứng bằng các nguồn vốn tích luỹ trong nước, vốn từ nước ngoài. Tín dụng
ngân hàng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua đi vay để cho vay. Đồng thời tín
dụng ngân hàng cũng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng
giao lưu kinh tế quốc tế. Tín dụng là động lực mạnh mẽ đối với việc hình thành
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng
thời sẽ làm biến đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các chủ thể kinh
tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kỳ vận động của tiền tệ rút ngắn về
thời gian, nâng cao vòng quay của tiền tệ.
Đối với khách hàng: Với vai trò làm trung gian cho quá trình luân chuyển vốn,

làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng ngân hàng trở thành động lực kích
thích các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và dân cư trong các thành phần kinh
tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi, phân tán thành nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đồng thời, tín dụng ngân hàng kích thích và buộc các doanh nghiệp sử dụng
vốn có hiệu quả hơn để đảm bảo nguyên tắc hoàn trả và sử dụng vốn đúng mục
đích của tín dụng.
Đối với Ngân hàng: Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất (quá nửa giá
trị tổng tài sản) ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân
hàng. Tín dụng tạo thu nhập từ lãi lớn nhất, từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu của ngân
hàng và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tình trạng khó khăn về tài
chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt
nguồn từ một số nguyên nhân sau: Quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ
nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái
ngoài dự kiến của nền kinh tế. Những rủi ro này đều có thể gây ra tổn thất, làm
giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm


12

phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải
cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ.
1.1.2.3. Các hoạt động khác :
Mua bán ngoại tệ
Trong sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính ngày nay, hoạt động
mua bán ngoại tệ thường chỉ do các NHTM lớn thực hiện bởi có mức độ rủi ro
cao và yêu cầu trình độ chuyên môn cao. Đối với các nước có nền kinh tế phát
triển, từ các nghiệp vụ chuyển đổi và kinh doanh ngoại tệ, ngân hàng có thêm
một khoản mục gọi là doanh lợi hối đoái.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán

Thực hiện mở tài khoản giao dịch và cho phép người gửi tiền viết séc
thanh toán mua hàng hoá, dịch vụ được xem là một trong những bước đi quan
trọng nhất của công nghiệp ngân hàng. Các tiện ích thanh toán không dùng tiền
mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn
thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho cá nhân. Điều này đã khuyến
khích các doanh nghiệp và cá nhân gửi tiền vào ngân hàng nhờ ngân hàng thanh
toán hộ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nhiều thể thức
thanh toán được phát triển như Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng
điện, thẻ...
Bảo quản vật có giá
Đây là việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho
bảo quản. Ngân hàng giữ tài sản của khách hàng và giao cho khách hàng tờ biên
nhận. Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy biên nhận nên đã có một thời
giấy biên nhận kiểu này được sử dụng như tiền- dùng để thanh toán các khoản
nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng
phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận ngân hàng. Ngày nay,
vật có giá được tách khỏi tiền gửi và ngân hàng thu được phí bảo quản.


13

Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền cho các doanh nghiệp để quản lý
việc thu chi cho doanh nghiệp và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm
thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng
cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách khi thu không đủ, Chính
phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay,

Chính phủ có quyền cấp giấy phép hoạt động và kiểm soát ngân hàng. Các ngân
hàng được thành lập với điều kiện phải cam kết thực hiện ở một mức độ nào đó
các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua
trái phiếu của Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà
ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các
doanh nghiệp của Chính phủ.
Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong
bảo lãnh cho khách hàng mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng
khoán, vay vốn của các TCTD khác.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn; môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản
lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả hình thức ủy thác
vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư. Các chuyên gia về
quản lý tài chính của ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính,
thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Các ngân hàng cũng thực hiện bán
các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ
phiếu, trái phiếu ... mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
Ngân hàng cũng có thể thành lập công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới
chứng khoán.


14

Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý
Ngân hàng thực hiện bán bảo hiểm cho khách hàng nhằm đảm bảo việc hoàn trả
trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro về tính mạng và tài sản, mất khả năng
thanh toán. Nhiều ngân hàng do không có mạng lưới chi nhánh rộng khắp nên
được các ngân hàng khác cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý như thanh toán hộ,

phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối cho hoạt động đồng tài
trợ...
1.2 Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại
1.2.1 Cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
1.2.1.1 Cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng thương mại.
Cạnh tranh xuất hiện, gắn liền với nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh xuất
phát từ lợi ích kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế. Nói cách khác cơ sở của
cạnh tranh là nhằm mục đích đạt được lợi ích kinh tế nào đó. Trong nền kinh tế
thị trường luôn có sự khác biệt về lợi ích kinh tế do tồn tại nhiều hình thức sở
hữu vì vậy cạnh tranh là một kết quả tất yếu khách quan và là môi trường không
thể thiếu của nền kinh tế thị trường.
Theo một số nhà kinh tế học cho rằng: cạnh tranh liên hệ đến sự ganh đua
giữa các công ty với nhau trong một thị trường nào đó. Về mặt lý thuyết cho
thấy sức mạnh của cuộc ganh đua tuỳ thuộc vào số lượng và quy mô của người
mua và người bán trên thị trường đó. Cũng có quan điểm khác cho rằng cạnh
tranh là “hành động của các cá nhân hay tổ chức để cố gắng chiến thắng hoặc
giành được công việc kinh doanh từ đối thủ của mình”. Thực ra, cạnh tranh
thuần tuý có thể được định nghĩa như là một tình huống trong đó có quá nhiều
người mua và người bán đến nỗi một người có thể gia nhập hoặc tách rời thị
trường đó mà không để lại một ảnh hưởng cụ thể nào.


15

Nói chung hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cạnh tranh tuỳ
thuộc vào góc độ nghiên cứu, lý luận của từng bộ môn kinh tế học. Có thể khái
quát khái niệm về cạnh tranh như sau:
Cạnh tranh là hoạt động diễn ra giữa các tổ chức kinh doanh trong nền

kinh tế nhằm giành lợi thế trong việc chiếm lĩnh thị trường và đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của khách hàng thông qua những hàng hóa, dịch vụ mà mình
cung cấp.
Qua khái niệm về cạnh tranh, ta có thể thấy được việc cạnh tranh giữa các
tổ chức kinh doanh nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản sau:
- Mở rộng, chiếm lĩnh thị trường
- Thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng
- Tăng lợi nhuận cho tổ chức
Để đạt được những mục tiêu đặt ra, cạnh tranh giữa các tổ chức kinh doanh
trong nền kinh tế thường diễn ra với hai phương thức đó là: cạnh tranh về giá cả
và cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực
kinh doanh nội dung của cạnh tranh của các tổ chức kinh doanh sẽ có những
biểu hiện khác nhau. Ví dụ:
- Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng: để đạt mục tiêu chiếm
lĩnh thị trường và tăng lợi nhuận họ phải sử dụng phương thức cạnh tranh: giảm
giá bán để tăng số lượng hàng hoá bán ra hoặc nâng cao chất lượng hàng hoá để
cạnh tranh, thu hút khách hàng.
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại - dịch vụ phương thức
cạnh tranh của họ là giảm phí dịch vụ kết hợp với các chính sách khuyến mại
đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ, chăm sóc khách hàng...
- Còn đối với NHTM : mục tiêu cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của
NHTM là mở rộng cho vay đối với khách hàng với hy vọng là thu được nhiều lãi
nhưng đồng thời phải đảm bảo an toàn cho hoạt động của khách hàng và chính
ngân hàng. Để làm được điều này Ngân hàng phải thực hiện:


16

 Thay đổi lãi suất cho vay phù hợp với nhu cầu vay vốn của từng đối
tượng khách hàng. Khi đó, tuỳ theo từng đối tượng khách hàng, Ngân hàng có

chính sách thu hút khách hàng phù hợp từ đó có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay
vốn của khách hàng. Tuy nhiên, trong cạnh tranh về hoạt động tín dụng, các
NHTM không thể liên tục giảm lãi suất cho vay để thu hút khách hàng đến với
mình như các doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh thương mại – dịch vụ đơn
thuần là giảm giá bán hàng hoá hay phí dịch vụ. Bởi vì, lãi suất chịu ảnh hưởng
của rất nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và hiệu quả của
NHTM. Do đó, về lâu dài giảm lãi suất cho vay không được coi là phương thức
cạnh tranh hiệu quả đối với NHTM trong hoạt động tín dụng.
 Do không thể liên tục giảm lãi suất cho vay để cạnh tranh, thu hút khách
hàng NHTM phải thực hiện việc đổi mới và đang dạng hoá các loại hình tín
dụng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bởi khi nền kinh tế phát triển, trên
thị trường sẽ xuất hiện ngày càng nhiều nhu cầu về những loại hình tín dụng
mới. Đối tượng khách hàng của hoạt động tín dụng sẽ phong phú hơn do đó
NHTM cũng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc đạt được mục tiêu cạnh tranh
của mình khi đáp ứng tốt những nhu cầu đó.
 Nâng cao chất lượng của từng khoản vay thể hiện: các khoản cho vay của
ngân hàng phải khuyến khích, hỗ trợ cho sự phát triển hoạt động kinh doanh của
khách hàng và đồng thời ngân hàng phải đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ vốn
cho vay của mình. Đây chính là điểm khác biệt trong cạnh tranh giữa NHTM với
các lĩnh vực kinh doanh khác.
Từ sự phân tích những biểu hiện của cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh
doanh khác nhau trên đây, thực chất cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của
NHTM có thể được hiểu là:
Quá trình diễn ra giữa các NHTM nhằm chiếm lĩnh thị trường, mở rộng
cho vay đối với khách hàng đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng và
đa dạng hoá hoạt động tín dụng.


17


Để đạt được được những mục tiêu cạnh tranh trong hoạt động tín dụng, NHTM
cần phải chuẩn bị những điều kiện, nguồn lực cần thiết nào cho quá trình cạnh
tranh. Vấn đề này sẽ được làm rõ ở phần sau.
1.2.1.2 Các phương thức cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng
thương mại.
Để tăng cường năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng, các NHTM
phải lựa chọn và xây dựng phương thức cạnh tranh phù hợp.
Nhà kinh tế học Micheal E. Porter đã cho rằng: trong quá trình cạnh tranh
mỗi công ty đều có thể thực hiện theo hai phương thức: cạnh tranh bằng sự dẫn
đầu về giá và cạnh tranh dựa trên sự khác biệt của sản phẩm công ty cung cấp.
Mỗi phương thức cạnh tranh đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng đòi hỏi
các công ty phải vận dụng linh hoạt tuỳ theo đặc điểm, cấu trúc ngành của mình.
Hiện nay, có nhiều quan điểm thống nhất cho rằng có ba phương thức cạnh tranh
mà một ngân hàng có thể áp dụng: phương thức cạnh tranh về giá, phương thức
cạnh tranh bằng sự khác biệt thông qua công cụ Marketing và phương thức cạnh
tranh có trọng điểm.
Một là phương thức cạnh tranh thông qua công cụ lãi suất:
Đối với hoạt động tín dụng, lãi suất là một công cụ cạnh tranh dễ nhận thấy
của ngân hàng và được áp dụng tương đối rộng rãi. Bởi vì, lãi suất thể hiện chi
phí vốn vay đối với khách hàng. Khi mà sản phẩm tín dụng giữa các ngân hàng
không có sự khác biệt lớn và các điều kiện khác không đổi thì khách hàng sẽ lựa
chọn thiết lập quan hệ tín dụng tại ngân hàng nào có lãi suất thấp hơn. Tuy
nhiên, lãi suất cho vay của ngân hàng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: lãi suất
huy động vốn trên thị trường, lãi suất trên thị trường quốc tế, lãi suất chiết khấu
của ngân hàng trung ương và đặc điểm cơ cấu tổ chức hoạt động của chính ngân
hàng đó. Vì vậy, về lâu dài phương thức cạnh tranh thông qua công cụ lãi suất
của ngân hàng rất khó thực hiện. Bởi vì trong dài hạn, lãi suất huy động vốn có
xu hướng tăng lên để bù đắp rủi ro, trong khi để cạnh tranh với các đối thủ khác
ngân hàng phải cố gắng hạ thấp lãi suất cho vay. “Cuộc ganh đua” giảm lãi suất
để giành lợi thế trong cạnh tranh của ngân hàng sẽ vấp phải khó khăn vì mức độ



18

chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động càng nhỏ sẽ ảnh hưởng lớn
đến sự ổn định trong hoạt động của ngân hàng đó. Tuy nhiên, trong ngắn hạn
ngân hàng vẫn có thể áp dụng phương thức cạnh tranh thông qua việc giảm lãi
suất cho vay.
Như vậy, phương thức cạnh tranh thông qua lãi suất chỉ có thể được thực
hiện tạm thời trong ngắn hạn và nhiều khi không mang lại hiệu quả như mong
muốn. Lãi suất phụ thuộc vào quá nhiều yếu tố nên ngân hàng sẽ rất bị động và có
nguy cơ sụt giảm lợi nhuận khi áp dụng phương thức cạnh tranh này.
Hai là phương thức cạnh tranh bằng sự khác biệt thông qua công cụ
Marketing:
Khi mà sự cạnh tranh thông qua lãi suất không phải là giải pháp hiệu quả và
quan trọng nữa thì việc tạo ra sự khác biệt về sản phẩm tín dụng để thu hút
khách hàng được các ngân hàng quan tâm. Như phần trên đã phân tích, sản phẩm
tín dụng của các ngân hàng thường không có nhiều sự khác biệt rõ rệt nên việc
làm sao cho khách hàng thực sự cảm nhận được sự khác biệt để lựa chọn sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng là yếu tố quyết định thắng lợi trong cạnh tranh.
Muốn làm được như vậy, ngân hàng phải sử dụng tốt công cụ Marketing. Công
cụ Marketing giúp ngân hàng định hướng các hoạt động, sản phẩm dịch vụ của
mình theo nhu cầu của khách hàng, thị trường đồng thời là nhân tố cải thiện các
nguồn lực trong ngân hàng. Sự khác biệt trong sản phẩm tín dụng của ngân hàng
thể hiện ở các yếu tố như: chất lượng tín dụng, công tác quản trị rủi ro, tổ chức
bộ máy lãnh đạo, chất lượng nguồn nhân lực, chính sách tín dụng, uy tín của
ngân hàng, các sản phẩm dịch vụ và công nghệ hỗ trợ, thời gian giao dịch…
Ba là phương thức cạnh tranh có trọng điểm:
Trong quá trình cạnh tranh ngân hàng sẽ tự nhận ra mình có những điểm
mạnh và và điểm yếu gì so với đối thủ. Sau đó, ngân hàng phải xây dựng phương

thức cạnh tranh nhằm phát huy những ưu điểm và hạn chế tối đa những điểm yếu
trên cơ sở phân tích, đánh giá các đối thủ cạnh tranh của mình. Nói cách khác đó
là phương thức cạnh tranh có trọng điểm. Cạnh tranh có trọng điểm sẽ giúp ngân


19

hàng có tính chuyên môn hoá cao và phát huy được thế mạnh riêng có của mình.
Trong điều kiện nhất định, việc tạo dựng và tập trung thực hiện quan hệ tín dụng
với một nhóm khách hàng truyền thống (trung thành) với ngân hàng sẽ tốt hơn là
với nhiều khách hàng không gắn bó. Khi đã trở thành khách hàng truyền thống
thì họ có thể sẽ dễ dàng chấp nhận những thay đổi, điều kiện của ngân hàng
đồng thời ngân hàng cũng phải dành cho họ những ưu đãi nhất định. Mối quan
hệ hai chiều đôi bên cùng có lợi này làm cho quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng trở nên khăng khít tạo ra một hàng rào vô hình ngăn cản sự “nhòm ngó”
của các đối thủ cạnh tranh khác.
1.2.2 Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại
1.2.2.1 Khái niệm về năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng thương mại
Trong điều kiện như hiện nay, cần thiết phải duy trì một môi trường cạnh
tranh trong nền kinh tế, trong hệ thống tài chính và cụ thể hơn nữa là cạnh tranh
giữa các NHTM. Khi mà trên thị trường ngày càng xuất hiện nhiều đối thủ khác
nhau, hoạt động kinh doanh của các NHTM chịu rất nhiều sức ép từ cả bên ngoài
và nội bộ ngân hàng. Nếu không cạnh tranh đồng nghĩa với việc ngân hàng đó tự
loại mình ra khỏi cuộc chơi. Hoạt động tín dụng có vai trò quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của NHTM nói riêng và nền kinh tế nói chung, do vậy việc
tăng cường năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng là yêu cầu bức thiết đặt
ra với các tổ chức này.
Năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng của NHTM là sự thể hiện

khả năng vượt trội về các điều kiện, nguồn lực mà NHTM có trong quá trình
cạnh tranh về hoạt động tín dụng so với các đối thủ khác.
Như đã phân tích ở trên, các điều kiện, nguồn lực mà NHTM có trong
quá trình cạnh tranh về hoạt động tín dụng đó là: vốn chủ sở hữu, vốn huy
động, đội ngũ cán bộ tín dụng, thông tin và trình độ công nghệ...Sự vượt trội


20

của NHTM về các điều kiện, nguồn lực thể hiện cả về mặt quy mô và chất
lượng so với các đối thủ khác.
Cũng như các hoạt động khác của NHTM, hoạt động tín dụng chịu tác động của
rất nhiều yếu tố. Người ta thường phân tích tác động của các yếu tố trên hai góc
độ: đó là các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong ngân hàng. Việc đánh giá
các yếu tố và mức độ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín
dụng sẽ giúp các nhà quản lý, kinh doanh ngân hàng đưa ra những biện pháp,
chính sách phù hợp với chiến lược cạnh tranh trong từng giai đoạn. Đồng thời nó
còn giúp dự báo xu hướng phát triển của hoạt động tín dụng cũng như các hoạt
động khác của NHTM trên cơ sở phân tích tác động qua lại giữa các yếu tố và
mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ trong các hoạt động của ngân hàng.
1.2.2.2 Một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng
của các Ngân hàng thương mại
- Các chỉ tiêu về dư nợ tín dụng:
+ Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng: chỉ tiêu này phản ảnh khả năng trong
việc mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng, đồng thời giúp dự tính được thu
nhập từ hoạt động cho vay. Khi ngân hàng duy trì được tốc độ tăng trưởng dư nợ
tín dụng ổn định ở mức cao cho thấy ngân hàng đang tận dụng được lợi thế cạnh
tranh và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được.
D nî tÝn dông b×nh qu©n
n¨m (n)

=
x
- 1)
( D nî tÝn dông b×nh qu©n
100
n¨m (n-1)
+ Cơ cấu dư nợ tín dụng: là chỉ tiêu thể hiện tỷ trọng dư nợ tín dụng theo

Tèc ®é t¨ng trëng
d nî tÝn dông

các ngành nghề kinh tế hoặc theo thời hạn cho vay đối với khách hàng. Nhìn vào
cơ cấu dư nợ tín dụng người ta có thể đánh giá được rằng hoạt động cho vay của
ngân hàng hiệu quả và bền vững hay mất cân đối. Một ngân hàng nếu quá trung
vào cho vay đối với một số ít ngành nghề hoặc chỉ cho vay ngắn hạn hay dài hạn
đơn thuần…sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Cơ cấu dư nợ tín dụng hợp lý
sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu và phân tán rủi ro, ngân hàng có thể dễ dàng thích
ứng với những biến động của nền kinh tế và môi trường pháp lý.


21

- Danh mục cho vay: Danh mục cho vay phản ánh bức tranh toàn cảnh hoạt
động tín dụng của một ngân hàng thương mại. Tuỳ theo chiến lược kinh doanh
mà mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một danh mục đầu tư tín dụng tối ưu.
Danh mục cho vay dựa trên cơ sở các các định hướng, chiến lược phát triển kinh
tế, các thành phần kinh tế, ngành và lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích phát
triển…
- Chỉ tiêu về thị phần tín dụng:
Thị phần tín dụng thể hiện quy mô hoạt động tín dụng của NHTM. Mỗi

NHTM tham gia cung ứng và chiếm một phần (tỷ lệ) nhất định trong toàn bộ thị
phần tín dụng. Thị phần tín dụng này cao hay thấp và có thể thay đổi tuỳ thuộc
vào năng lực cạnh tranh của mỗi NHTM. Thị phần tín dụng đạt được càng cao
chứng tỏ NHTM đó có những khả năng và lợi thế cạnh tranh nhất định trong
hoạt động tín dụng. Về lý thuyết, để gia tăng lợi nhuận các NHTM phải hướng
đến mục tiêu tăng thị phần tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế mỗi ngân hàng đều
có chiến lược kinh doanh riêng nên các biện pháp mà ngân hàng sử dụng để tăng
thị phần sẽ khác nhau.
- Số lượng và chất lượng khách hàng:
Nếu như thị phần tín dụng là chỉ tiêu phản ánh một cách tổng thể khả năng
xâm nhập và đáp ứng nhu cầu tín dụng của thị trường thì số lượng và chất lượng
khách hàng là nhóm chỉ tiêu cụ thể phản ánh quy mô về mặt khách hàng vay
vốn. Khách hàng vừa là mục tiêu vừa là đối tượng của hoạt động tín dụng. Một
điều dễ nhận thấy là trong quá trình cạnh tranh các NHTM sử dụng nhiều các
biện pháp khác nhau để thu hút được nhiều đối tượng khách hàng. Có một câu
hỏi đặt ra là trong “cuộc chiến” thu hút khách hàng này liệu có thể chấm dứt và
việc có càng nhiều khách hàng thì ngân hàng càng có lợi. Câu trả lời là không
phải lúc nào cũng đúng. Bởi vì, mục tiêu lâu dài mà một ngân hàng cần phải
quan tâm là chất lượng khách hàng vay vốn của mình có tốt hay không. Chất
lượng khách hàng mới là yếu tố quyết định đến hiệu quả và sự an toàn trong sử
dụng vốn của ngân hàng. Chất lượng khách hàng thể hiện ở một số mặt như: sự


22

lành mạnh trong hoạt động tài chính, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh,
lĩnh vực hoạt động và bộ máy quản lý…Như vậy, số lượng và chất lượng khách
hàng luôn là hai chỉ tiêu không thể tách rời trong việc đánh giá năng lực cạnh
tranh về hoạt động tín dụng của mỗi NHTM.
- Chỉ tiêu về chất lượng tín dụng: khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một

doanh nghiệp về một hoạt động (sản phẩm) nào đó thì chỉ tiêu đánh giá không
thể không nhắc đến là chất lượng hoạt động (sản phẩm) của doanh nghiệp đó
như thế nào. Do vậy, hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng phải dựa trên sự
đánh giá về mặt chất lượng. Chất lượng tín dụng vừa là thước đo tính hiệu quả
tín dụng của một ngân hàng đồng thời là thước đo tính cạnh tranh giữa các ngân
hàng với nhau. Nâng cao chất lượng tín dụng là một trong những mục tiêu quan
trong trong chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh nói chung của các NHTM.
Vậy chất lượng tín dụng được hiểu như thế nào? Chất lượng tín dụng phản ánh
sự hiệu quả, an toàn và nhất quán trong hoạt động cho vay, thể hiện sự hài lòng
và thoả mãn của khách hàng vay vốn cũng như thời gian và độ chính xác trong
quá trình thực hiện quy trình tín dụng hay xử lý nghiệp vụ.
- Khả năng xử lý nợ có vấn đề: hoạt động tín dụng bao giờ cũng gắn liền
với rủi ro bởi bản chất của hoạt động này là dựa trên cơ sở của lòng tin do đó
trong nó tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Đó là hai mặt của một vấn đề. Một ngân hàng
khi xây dựng các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh về tín dụng phải tính
đến khả năng giải quyết nợ có vấn đề. Khi tiến hành cho vay không ngân hàng
nào có thể đảm bảo chắc chắn rằng khoản vay đó là khoản vay hoàn toàn tốt.
Một ngân hàng khôn ngoan phải biết dự kiến những khoản nợ có vấn đề và
chuẩn bị về mặt tài chính để giải quyết nó. Khả năng giải quyết nợ có vấn đề của
một ngân hàng càng tốt sẽ giúp ngân hàng đó hoạt động ổn định hơn và có thể
hạn chế tối đa những tác động xấu khi phát sinh những khoản nợ có vấn đề.
Tỷ lệ nợ quá hạn: tỷ lệ nợ quá hạn được xác định bằng công thức sau đây:
Tỷ lệ nợ quá hạn

=

Dư nợ quá hạn cuối kỳ
x 100%
Tổng dư nợ cho vay cuối kỳ



23

Dường như có sự mâu thuẫn trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Một mặt, ngân
hàng phải chịu sức ép phải tăng tổng dư nợ tín dụng một mặt phải hạn chế tối đa
phát sinh nợ quá hạn. Trên thực tế cho thấy, khi ngân hàng càng mở rộng hoạt
động tín dụng để tăng dư nợ thì kèm theo đó là nợ quá hạn cũng gia tăng. Điều
này đặt ra bài toán khó cho các ngân hàng nếu phải thực hiện đồng thời hai mục
tiêu. Hướng giải quyết đối với các ngân hàng hiện nay là phải tăng cường công
tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm hạn chế và ngăn ngừa phát sinh nợ quá hạn.
- Lãi suất cho vay: Lãi suất được coi là chi phí của việc sử dụng vốn tín
dụng ngân hàng. Về lý thuyết, khách hàng bao giờ cũng kỳ vọng được vay vốn
tín dụng với lãi suất (chi phí) càng thấp càng tốt. Do vậy, khi ngân hàng duy trì
một mức lãi suất hấp dẫn với chính sách lãi suất linh hoạt thì sẽ thu hút được sự
quan tâm của khách hàng. Chính sách lãi suất linh hoạt sẽ tạo cho khách hàng
nhiều sự lựa chọn hơn đối với các quyết định vay vốn của mình. Chính sách này
của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tài chính, độ nhạy cảm của các
nguồn vốn hay tài sản khi lãi suất thay đổi. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh
về tín dụng càng diễn ra gay gắt thì các NHTM thường bị hạn chế trong khi cố
gắng hạ thấp lãi suất thấp để hấp dẫn khách hàng vì nó ảnh hưởng nhiều đến lợi
nhuận và sự ổn định trong hoạt động của các ngân hàng.
Bên cạnh các chỉ tiêu phản ánh năng lực cạnh tranh nêu trên của NHTM
thì các yếu tố về nguồn lực sau cũng có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh
trong hoạt động tín dụng của một NHTM, đó là:
Một là quy mô vốn chủ sở hữu của Ngân hàng:
Đây là điều kiện tiền đề để NHTM mở rộng việc cho vay đối với các
khách hàng. Theo quy định của Nhà nước, mỗi NHTM chỉ được phép cho một
khách hàng vay vốn với điều kiện ràng buộc là không được vượt quá một tỷ lệ
nhất định tính trên mức vốn chủ sở hữu của ngân hàng ví dụ ở Việt Nam tỷ lệ
này là 15%. Đây là quy định bắt buộc đối với mỗi ngân hàng. Do vậy, một

NHTM không thể mở rộng cho vay đối với các khách hàng với mức vốn chủ sở
hữu thấp. Hơn nữa, việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của các khách hàng lớn của
Ngân hàng sẽ khó có thể thực hiện khi nhu cầu của họ vượt quá mức quy định


24

của Nhà nước. Do vậy, với mức vốn chủ sở hữu thấp, NHTM gặp rất nhiều khó
khăn trong việc mở rộng cho vay đối với khách hàng dẫn đến việc hạn chế
trong cạnh tranh về hoạt động tín dụng với các đối thủ khác trên thị trường.
Bên cạnh đó, mức vốn chủ sở hữu phản ánh quy mô và độ an toàn của một
NHTM. Với mức vốn lớn các khách hàng sẽ yên tâm và tin tưởng hơn đối với
ngân hàng do đó việc thu hút các khách hàng mới sẽ thuận lợi hơn.
Để tăng mức vốn chủ sở hữu NHTM có thể thực hiện thông qua huy động
từ việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc bổ sung từ hiệu quả kinh doanh, lợi
nhuận tích luỹ của Ngân hàng hoặc cũng có thể từ việc hợp nhất nhiều ngân
hàng với nhau. Tuỳ thuộc vào điều kiện của từng ngân hàng và chi phí của từng
nguồn vốn việc thực hiện tăng mức vốn chủ sở hữu của mỗi NHTM sẽ khác
nhau. Xu hướng diễn ra phổ biến trên thế giới hiện nay là các NHTM lớn thực
hiện sáp nhập để tăng vốn chủ sở hữu cũng như mở rộng quy mô hoạt động để
cạnh tranh với các ngân hàng khác, giành lợi thế và chiếm lĩnh thị trường.
Hai là quy mô nguồn vốn huy động:
Nguồn vốn huy động thông qua nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng tương đối lớn
trong tổng nguồn vốn của một NHTM bởi nhận tiền gửi là một trong những hoạt
động cơ bản của một NHTM. Trên thực tế, NHTM không cho vay bằng vốn tự
có của mình mà cho vay chủ yếu bằng nguồn vốn huy động được thông qua
nhận tiền gửi. Nguồn vốn huy động bằng nhận tiền gửi càng lớn và dồi dào thì
ngân hàng càng có điều kiện để mở rộng cho vay đối với khách hàng. Hơn nữa
với ngân hàng có thể lựa chọn huy động những nguồn vốn với chi phí thấp và
hợp lý sử dụng để cho vay với nhiều mức lãi suất linh hoạt đáp ứng nhu cầu của

nhiều đối tượng khách hàng.
Với quy mô vốn chủ sở hữu lớn, NHTM sẽ dễ dàng hơn trong việc tăng
nguồn vốn nhận tiền gửi bởi vốn chủ sở hữu lớn sẽ tạo được lòng tin và khuyến
khích những người gửi tiền vào ngân hàng. NHTM nào huy động được nhiều
vốn hơn sẽ có nhiều lợi thế hơn trong cạnh tranh về hoạt động tín dụng so với
các đối thủ khác trên thị trường.


25

Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi cũng chiếm vai
trò quan trọng và tác động lớn đến cơ cấu tín dụng của ngân hàng. Cơ cấu nguồn
vốn nhận tiền gửi được phân chia theo kỳ hạn: không kỳ hạn và có kỳ hạn. Rõ
ràng, nếu ngân hàng chỉ huy động được nhiều vốn không kỳ hạn sẽ không thể
mở rộng cho vay trung – dài hạn được vì điều này có thể gây ra rủi ro về thanh
khoản cho ngân hàng. Trong khi đó, vốn vay trung – dài hạn lại rất cần thiết cho
sự phát triển của nền kinh tế và hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp. Ngược
lại, nếu ngân hàng có thể nhận nhiều tiền gửi có kỳ hạn có thể dễ dàng đáp ứng
được nhu cầu vốn vay trung – dài hạn của các doanh nghiệp. Điều này giúp ngân
hàng có thể vừa mở rộng cho vay ngắn hạn vừa mở rộng cho vay trung – dài
hạn.
Ba là năng lực điều hành của Ban lãnh đạo và trình độ của cán bộ tín dụng:
Khi đã huy động được nguồn vốn dồi dào, việc NHTM mở rộng cho vay
đối với khách hàng để cạnh tranh với các đối thủ hay không phụ thuộc rất nhiều
vào năng lực và trình độ của Ban lãnh đạo cũng như đội ngũ cán bộ tín dụng.
Trình độ quản lý tốt cùng với các chính sách cơ bản phù hợp là sức mạnh
của ngân hàng: chính sách cơ bản của NHTM liên quan đến hoạt động tín dụng,
đầu tư là một tiêu chuẩn đo lường quan trọng. Nhờ đó mà người ta có thể đánh
giá được năng lực và trình độ của nhà quản lý. Một tổ chức ổn định và có tính kỷ
luật cao nói lên cho công chúng biết rằng các giao dịch tại ngân hàng đó sẽ được

điều hành một cách chính xác, hiệu quả và lành mạnh. Niềm tin vào một ngân
hàng nào đó bị giảm sút đáng kể thì sẽ dẫn đến khả năng “chạy trốn”. Sự tin
tưởng này phản ánh lòng trung thành của khách hàng đối với nhà quản lý ngân
hàng. Sự hiện diện của các nhân vật nổi tiếng trong hội đồng quản trị, các nhân
viên, cán bộ có năng lực của ngân hàng, phong cách làm việc tạo mối quan hệ
tốt đẹp trong các giao dịch, danh mục đầu tư và cho vay lành mạnh và một cơ
cấu vốn vững mạnh là biểu hiện của một trình độ quản lý tốt của một ngân hàng.


×