Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

LV Thạc sỹ_Đảm bảo an toàn tài chính quốc gia trên thế giới và thực trạng tại Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.61 KB, 83 trang )

1

CHƯƠNG 1
ĐẢM BẢO ATTCQG VÀ BHTG TRONG VIỆC
ĐẢM BẢO ATTCQG
1.1. Những vấn đề cơ bản về đảm bảo ATTCQG
1.1.1. An toàn tài chính - Các khái niệm cơ bản
Để nhận thức một cách hệ thống các vấn đề liên quan đến ATTC, ta sẽ tìm hiểu
một số khái niệm về: Hệ thống tài chính; Ổn định tài chính, An toàn tài chính và
Mạng an toàn tài chính.
 Hệ thống tài chính:
Hệ thống tài chính là tập hợp các cấu phần bao gồm: TTTC, định chế tài chính,
luật pháp, quy chế điều chỉnh và các yếu tố kỹ thuật, nhờ đó trái phiếu, cổ phiếu
và các công cụ tài chính khác được mua bán, vay mượn, lãi suất được xác định,
các dịch vụ tài chính được cung cấp, luân chuyển trên toàn thế giới.
Các định chế tài chính là một cấu thành của Hệ thống tài chính, bao gồm: các
NHTM, các Hiệp hội và NH tiết kiệm, các Công ty bảo hiểm nhân thọ, các Quỹ
hưu trí, các Quỹ hỗ trợ đầu tư, các Công ty tài chính, các QTDND…
 Ổn định tài chính:
Trên thực tế, ổn định tài chính vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng. Phần lớn các
định nghĩa nhìn nhận ổn định tài chính qua lăng kính các cuộc khủng hoảng tài
chính. Chẳng hạn Macfarlane (1999) cho rằng ổn định tài chính là sự tránh thoát
khỏi khủng hoảng tài chính. Một định nghĩa khác của Schinasi (2004) cho rằng
ổn định tài chính là một tình trạng mà ở đó hệ thống tài chính có khả năng: i)
Phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả giữa các hoạt động trong một thời
gian dài; ii) Quản lý và đánh giá các rủi ro về tài chính một cách tốt nhất; iii)
Giải quyết nhạy bén các cú sốc. Qua tìm hiểu và tổng hợp từ các tài liệu, ta có
thể khái quát: Ổn định tài chính là tình trạng tài chính được duy trì hoạt động
bình thường, không xảy ra những biến động đột ngột, thất thường. Hơn thế nữa,
sự ổn định này được đặt trong nguyên lý của sự phát triển, nghĩa là không ngừng
được cải tiến, hoàn thiện hơn.Ổn định tài chính là một chính sách công rất quan




2

trọng, được thể hiện qua hiệu quả của hoạt động trung gian tài chính, sự mở rộng
các chức năng của các TTTC, sự phát triển hệ thống tài chính lành mạnh và minh
bạch, giảm đi các cú sốc và rủi ro hệ thống.
 An toàn tài chính:
An toàn tài chính là tình trạng tài chính không bị nguy hiểm bởi các tác động bên
trong và bên ngoài liên quan tới các rủi ro tài chính, từ đó dẫn đến khủng hoảng
tài chính. An toàn tài chính là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận động của hệ
thống tài chính. Tình trạng an toàn tài chính được thể hiện qua tính thanh khoản
và quản lý rủi ro của hệ thống tài chính, mà trước hết là của các định chế tài
chính và TTTC. Cũng như ổn định tài chính, an toàn tài chính là một chính sách
công quan trọng nhằm đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng qua tiết kiệm và đầu
tư. Có thể nói, giữa an toàn tài chính và ổn định tài chính có mối quan hệ mật
thiết, bổ sung và hỗ trợ nhau trong việc đảm bảo cho hệ thống tài chính ngày
càng phát triển tốt hơn.
Hệ thống tài chính của một quốc gia muốn ổn định, an toàn phải dựa trên 4 nền
tảng: thứ nhất, có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định; thứ hai, có một khung pháp
lý tốt bảo đảm cho hoạt động giám sát được thực hiện một cách cẩn trọng và
hiệu quả; thứ ba, hệ thống thanh toán được thiết kế đủ mạnh và an toàn; thứ tư,
các định chế tài chính và TTTC phải được quản trị tốt. Ngoài ra, để duy trì ổn
định, an toàn tài chính, vấn đề mấu chốt là: (1) Phải có một khuôn khổ toàn diện
và rõ ràng bao gồm các chuẩn mực và quy định, các chính sách và cơ chế xử lý
khủng hoảng; (2) Tạo dựng hạ tầng tài chính, khung pháp lý và kỷ cương thị
trường; (3) Cơ chế điều phối có hiệu quả giữa các tổ chức tham gia mạng ATTC
( Finacial Safety Nets – FSN) bao gồm các cơ quan giám sát của BTC, NHTW,
tổ chức BHTG và các cơ quan giám sát khác.



3

Hình 1.1: Mô hình Mạng an toàn tài chính quốc gia

Nguồn: BHTG Việt Nam
 Mạng an toàn tài chính quốc gia:
Mạng an toàn tài chính quốc gia là một cơ chế an toàn, ổn định tài chính, thường
bao gồm chức năng BHTG, các quy định và quản lý về an toàn hoạt động NH và
chức năng người cho vay cuối cùng.
Mạng an toàn tài chính là khái niệm không mới nhưng để thiết chế này hoạt
động và ngày càng phát triển là điều cần trao đổi để có sự thống nhất phối hợp
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mang tính toàn cầu. Tại hầu hết các
nước trong khu vực châu Á, mạng ATTC đã được thiết kế và hoạt động có hiệu
quả, góp phần ổn định tài chính trong mỗi nước và khu vực. Để phát triển mạng
ATTC cần phải phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm như sau:
-

Khuôn khổ pháp lý xác định rõ vai trò và trách nhiệm của các cơ quan
tham gia mạng bao gồm cơ chế điều phối của các cơ quan Chính phủ có
liên quan trong việc duy trì sự an toàn, ổn định hệ thống tài chính. Các
chính sách của mạng ATTC phải được ghi trong các điều luật.

-

Người cho vay cuối cùng chính là vai trò của NHTW để duy trì ổn định tài
chính cả trong điều kiện bình thường bằng cách làm thông suốt hoạt động
của hệ thống thanh toán, cả trong điều kiện khẩn cấp bằng cách hỗ trợ tài
chính cho thanh khoản khẩn cấp nhằm ngăn chặn khủng hoảng hệ thống.



4

-

Hoàn thiện hệ thống BHTG, thành lập công ty BHTG hoạt động theo mô
hình giảm thiểu rủi ro để đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của hệ thống tai
chính. Thay thanh toán bảo hiểm toàn phần bằng bảo hiểm có giới hạn
nhằm giảm thiểu rủi ro đạo đức.

-

Thành lập các hệ thống giám sát hợp nhất có đủ năng lực và thẩm quyền
quyết định các chính sách can thiệp và xử lý khủng hoảng.

1.1.2. Đảm bảo an toàn tài chính quốc gia
Qua việc xem xét về an toàn tài chính, ta có thể hiểu an toàn tài chính quốc gia là
tình trạng tài chính của một quốc gia không bị nguy hiểm bởi các tác động bên
trong và bên ngoài liên quan tới các rủi ro tài chính. Hơn nữa, an toàn tài chính
quốc gia phải được xem xét cả trong quá trình huy động các nguồn tài chính, cả
trong quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính, trong tất cả các lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế quốc dân, trong tất cả các mắt, các khâu của hệ thống
tài chính quốc gia.
Đảm bảo an toàn tài chính quốc gia là việc đảm bảo cho hệ thống tài chính của
quốc gia luôn được an toàn, ổn định ngay cả trong điều kiện khẩn cấp. Chức
năng, nhiệm vụ này thường được thực hiện bởi mạng an toàn tài chính quốc gia
hay cơ quan giám sát dịch vụ tài chính quốc gia và tổ chức BHTG của mỗi nước.
1.2. Bảo hiểm tiền gửi trong việc đảm bảo an toàn tài chính quốc gia
Kinh nghiệm trên thế giới chỉ ra rằng, tổ chức BHTG là một thành phần không
thể thiếu của mỗi hệ thống tài chính quốc gia được thiết kế theo chuẩn quốc tế và

tổ chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro là một mắt xích quan trọng trong
mạng ATTCQG, qua đó góp phần ổn định hệ thống TC-NH, đặc biệt là trong bối
cảnh khủng hoảng. Đi sâu xem xét về BHTG sẽ cho ta nhìn nhận rõ hơn về dịch
vụ tài chính công này cũng như vai trò của nó trong việc đảm bảo ATTCQG.
1.2.1. Khái niệm
Hoạt động của các TCTC nói chung và các NH nói riêng luôn có những rủi ro,
trong đó mất khả năng thanh toán là rủi ro lớn nhất. Hậu quả có thể dẫn tới là hệ
thống tài chính quốc gia bị tê liệt, xã hội bất ổn và niềm tin của các nhà đầu tư bị


5

giảm sút. Một trong những công cụ phòng ngừa được sử dụng phổ biến trên thế
giới hiện nay là BHTG.
BHTG là cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG
và người gửi tiền về việc tổ chức BHTG sẽ chi trả tiền gửi được bảo hiểm cộng
với tiền lãi nhập gốc cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt
hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
Cam kết công khai này thể hiện dưới hình thức là hợp đồng bảo hiểm giữa
ba đối tác: tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền; khi tổ
chức có hoạt động huy động tiền gửi đề nghị tham gia BHTG và được tổ
chức BHTG chấp nhận. Tùy theo chính sách cụ thể của mỗi hệ thống BHTG
để xác định người có loại tiền gửi nào được bảo hiểm (gọi là người gửi tiền
thuộc đối tượng được bảo hiểm).
Xét về tính chất, BHTG là loại hình bảo hiểm bắt buộc và hoạt động không vì
mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, mà phục vụ cho chính sách kinh tế
quốc gia, vì quyền lợi của người gửi tiền và nhằm tương hỗ giữa các thành viên
tham gia BHTG. Trên thế giới, hầu hết các hệ thống BHTG đều do chính phủ
thành lập hoặc là một bộ phận của NHTW, do đó tổ chức BHTG là định chế an
toàn, có thể tạo lập và duy trì được lòng tin của người gửi tiền ngay cả trong thời

điểm khó khăn nhất. Có BHTG, nghĩa là chính phủ bảo đảm an toàn các khoản
tiền gửi, nhờ vậy người gửi tiền hoàn toàn yên tâm khi gửi tiền vào các tổ chức
nhận tiền gửi. Ngoài việc bảo vệ người gửi tiền, BHTG còn có mục đích là ngăn
ngừa những vụ hoảng loạn của NH, đảm bảo an toàn, ổn định hoạt động hệ
thống TC-NH, góp phần ổn định nền kinh tế.
1.2.2. Cơ chế tạo lập quỹ BHTG
Theo Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI), thiết lập được một cơ chế tạo
vốn lành mạnh, đảm bảo năng lực tài chính cho tổ chức BHTG có vai trò rất
quan trọng đối với cơ cấu và hoạt động của hệ thống BHTG.
 Nguồn quỹ BHTG
Mục đích của quỹ BHTG trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền,
sau nữa là bảo đảm an toàn kinh tế - xã hội, thực hiện các chính sách công của


6

nhà nước. Vì thế, BHTG thường được hỗ trợ từ NSNN và nguồn vốn ngân sách
cấp hình thành nên vốn điều lệ của tổ chức BHTG. Trong quá trình hoạt động,
quỹ BHTG sẽ được bổ sung từ mức đóng góp tài chính của các tổ chức tham gia
BHTG, còn gọi là phí bảo hiểm. Nguyên tắc cơ bản trong việc xác định phí
BHTG là phải đảm bảo cân bằng thu chi có tính đến yếu tố phát triển và dự
phòng. Quy định về hình thức đóng phí bảo hiểm cũng chính là các phương pháp
tạo vốn cho hệ thống BHTG. Theo kinh nghiệm của các nước đã xây dựng hệ
thống BHTG trên thế giới, có ba phương pháp tạo vốn cho hệ thống BHTG: tạo
nguồn vốn trước đổ bể, tạo nguồn vốn sau đổ bể hoặc hỗn hợp cả hai. Mỗi
phương pháp tạo vốn lại có những ưu và nhược điểm riêng.
* Phương pháp tạo vốn sau đổ bể (Ex-post Funding)
Nội dung của phương pháp này là các tổ chức tham gia BHTG chỉ phải đóng góp
tài chính khi có đổ bể NH. Điều này khuyến khích các tổ chức tham gia BHTG
giám sát lẫn nhau để tránh chi phí do xảy ra đổ vỡ của một tổ chức thành viên.

Tuy nhiên, theo hình thức này tổ chức BHTG khó chi trả kịp thời cho người gửi
tiền khi xảy ra đổ bể. Nó cũng gây ra tình trạng thiếu công bằng do tổ chức bị đổ
vỡ không phải chịu chi phí cho khoản thất thoát do mình gây ra, không ngăn
chặn được khủng hoảng dây chuyền và không tạo được niềm tin nơi công chúng.
* Phương pháp tạo vốn trước đổ bể (Ex-ante Funding)
Ngược lại với phương pháp trên, hình thức tạo vốn trước đổ bể sẽ tích lũy được
một lượng vốn an toàn và có khả năng thanh khoản cao. Nó được coi như một
khoản dự phòng, tích lũy trong giai đoạn nền kinh tế phát triển ổn định, các tổ
chức nhận tiền gửi hoạt động tốt để sử dụng khi kinh tế bất ổn và các tổ chức này
gặp khó khăn. Với phương pháp này, ngay khi xảy ra đổ vỡ NH, tổ chức BHTG
đã có một lượng vốn nhất định để chi trả kịp thời cho người gửi tiền thuộc đối
tượng được bảo hiểm, góp phần củng cố niềm tin của công chúng đối với tổ chức
BHTG, từ đó nâng cao uy tín cho cả hệ thống TC-NH trong việc huy động vốn.
Mặc dù việc tạo nguồn vốn trước đổ bể thường bị coi là ảnh hưởng tới khả năng
tài chính của hệ thống NH nhưng so với những lợi ích mà nó mang lại thì điều
đó là không đáng kể.


7

Về cơ chế tạo nguồn vốn trước đổ bể có thể được thiết kế và tiến hành thông qua
khoản phí đồng hạng, tức là tỉ lệ thu phí như nhau đối với mọi tổ chức tham gia
BHTG hoặc phí dựa vào rủi ro hay là phí khác biệt, theo đó khoản đóng góp của
mỗi tổ chức tham gia BHTG được xác định căn cứ vào mức độ rủi ro của tổ chức
này. Lựa chọn hình thức phí đồng hạng hay theo mức độ rủi ro là tùy thuộc vào
tình hình của từng quốc gia, theo từng thời kì.
* Phương pháp hỗn hợp
Trên thực tế, tổ chức BHTG của các nước trên thế giới thường lựa chọn cách
phối hợp cả hai phương pháp trên để khai thác tối đa ưu điểm, hạn chế nhược
điểm của từng phương pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống BHTG.

Ngoài hai nguồn chính trên, quỹ BHTG còn có thể được hình thành từ:
-

Tiền do các tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ

-

Tiền phạt do đóng BHTG chậm

-

Tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư, sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi tạm
thời…..

 Đầu tư bảo toàn và phát triển quỹ
Để bảo toàn và phát triển vốn của quỹ BHTG, trong khi vốn của quỹ chưa sử
dụng đến có thể tạm thời dùng để đầu tư phát triển kinh tế với mục đích sinh lời
nhằm duy trì và làm tăng giá trị của quỹ, góp phần thực hiện tốt hơn mục tiêu
BHTG, nhất là trong thời kì lạm phát cao.
Quỹ BHTG có thể dùng để đầu tư vào các công cụ tài chính đem lại nguồn thu
nhập cố định và ít rủi ro như tín phiếu, trái phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá
khác hoặc đầu tư vào các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng về y tế, giáo dục, nhà ở cho
người có thu nhập thấp… phù hợp với phương hướng chính sách công của chính
phủ. Tuy nhiên, để đảm bảo yêu cầu an toàn tài chính cho quỹ BHTG cần tăng
cường công tác phân tích dự báo tài chính, đặc biệt là thẩm định tài chính đối với
các phương án đầu tư của quỹ BHTG.
Đầu tư của BHTG nhằm mục đích tăng trưởng, bảo toàn quỹ nên phải có chính
sách đầu tư hợp lý, tránh tình trạng quá cẩn trọng, chọn phương án đầu tư sinh
lời thấp, không đủ bù đắp lạm phát làm suy giảm giá trị của quỹ hay lựa chọn



8

phương án đầu tư mạo hiểm gây ra rủi ro mất mát vốn gốc. Việc đầu tư tăng
trưởng quỹ cần chú ý đến ba yếu tố sau:
-

Xác định được xác suất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình đầu tư.

-

Tính toán chặt chẽ khả năng sinh lời.

-

Xác định lợi ích xã hội của việc đầu tư.

1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu của BHTG
BHTG là một tổ chức bảo hiểm, hoạt động theo những nguyên lý của bảo hiểm.
Tuy nhiên trong nền kinh tế hiện đại, BHTG không phải chỉ là một tổ chức bảo
hiểm đơn thuần, làm nhiệm vụ thu phí của nhiều người tham gia bảo hiểm để bù
đắp, khắc phục hậu quả cho một số ít người bị rủi ro. BHTG có và phải có vai trò
nhất định trong việc tham gia quản lý rủi ro của các NHTM, các tổ chức tham
gia BHTG khác và hơn nữa là có vai trò trong giám sát và góp phần bảo đảm an
toàn của hệ thống tài chính quốc gia.
Ở các nước phát triển, tham gia vào mạng ATTCQG, tổ chức BHTG có vai trò
không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ giám sát an toàn,
phối hợp hoạt động, chia sẻ thông tin và cùng chịu trách nhiệm với các cơ quan
khác về sự an toàn và phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc
gia. Vai trò tham gia giám sát, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính – tiền tệ quốc

gia của BHTG không phải với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước như BTC,
NHNN mà là một định chế tài chính độc lập cùng gánh vác và chia sẻ trách
nhiệm đó với các cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính khác thông qua
hoạt động nghiệp vụ BHTG của mình với những chức năng và mục tiêu sau:
 Chức năng tổ chức nghiệp vụ BHTG

Đây là chức năng chủ yếu của BHTG. Tổ chức BHTG sinh ra là để thực hiện
chức năng bảo hiểm cho tiền gửi của những người gửi tiền ở các tổ chức có huy
động tiền gửi của dân cư. Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản
thì tổ chức BHTG đứng ra chi trả tiền bảo hiểm cho người dân. Để thực hiện
chức năng này, tổ chức BHTG tiến hành các nhiệm vụ như: cấp chứng nhận
BHTG cho các TCTD; cung cấp, tư vấn thông tin cho người gửi tiền; thực hiện


9

nhiệm vụ chi trả bảo hiểm khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản và cuối cùng là
tiến hành xử lý ( thanh lý và thu nợ) đối với tổ chức tham gia BHTG phá sản.
 Chức năng tham gia giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động của các

tổ chức tham gia BHTG, góp phần đảm bảo an toàn, ổn định hệ thống
tài chính
Đây là chức năng không thể thiếu của tổ chức BHTG, vừa có tính chất bổ trợ
vừa có tính chất phái sinh. Tính chất bổ trợ thể hiện ở chỗ, để thực hiện tốt chức
năng bảo hiểm, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí cũng như phòng chống đổ vỡ thì
tổ chức BHTG phải tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG. Từ kết quả giám sát, tổ chức
BHTG còn có thể hỗ trợ, thậm chí có quyền can thiệp vào hoạt động của các tổ
chức tham gia BHTG khi có dấu hiệu mất an toàn có thể xảy ra. Tính chất phái
sinh thể hiện ở chỗ, từ nhu cầu giảm thiểu rủi ro, phòng ngừa đổ vỡ, phục vụ cho

chính tổ chức BHTG thực hiện chức năng trung tâm của mình là BHTG thì kết
quả của hoạt động giám sát thì kết quả của hoạt động giám sát đã tự nhiên góp
phần bảo đảm an toàn của hệ thống tài chính quốc gia. Và từ đó, BHTG khẳng
định được vai trò của mình trong mạng ATTCQG.
Với những chức năng, nhiệm vụ như trên, mục tiêu hoạt động của BHTG đó
là:
- Bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Đây là mục tiêu hàng đầu của
BHTG.
- Bảo đảm sự an toàn của hệ thống TC-NH, tránh đổ vỡ dây chuyền hoặc
khủng hoảng. BHTG trước hết tạo ra cơ chế giám sát cảnh báo, ngăn chặn và hỗ
trợ các tổ chức tham gia BHTG phòng tránh rủi ro trong kinh doanh; sau nữa là
tạo tâm lý an toàn cho tất cả những người gửi tiền, tránh tình trạng rút tiền hàng
loạt khi có sự đổ vỡ của một hay một vài NH, ngăn chặn được sự lây lan trong
đổ vỡ tín dụng tạo hiệu ứng dây chuyền trong hệ thống các NH và các tổ chức
huy động tiền gửi. Từ đó, góp phần rất lớn vào bảo đảm an toàn hệ thống TCNH, tránh được những cuộc khủng hoảng.
- Tạo ra một cơ chế BHTG chính thức trong việc xử lý đổ vỡ NH.


10

- Giảm gánh nặng tài chính cho Chính phủ, tạo sự công bằng và động lực
cạnh tranh của các tổ chức tham gia BHTG. Ở nhiều quốc gia, tổ chức BHTG có
đủ năng lực tài chính để xử lý những vụ đổ vỡ NH, Chính phủ không cần phải
can thiệp hoặc chỉ can thiệp, hỗ trợ khi có khủng hoảng. Ngoài ra, việc thu phí
bảo hiểm được áp dụng theo định mức rủi ro tạo ra sự công bằng cũng như động
lực cho sự cạnh tranh trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG.
- Tạo niềm tin và tâm lý an toàn cho người gửi tiền đối với tổ chức huy
động tiền gửi, từ đó khuyến khích người dân gửi tiền tiết kiệm, thúc đẩy tăng
trưởng TTTC và nền kinh tế.
1.2.4. Mô hình và hoạt động của BHTG nhằm đảm bảo ATTCQG

1.2.4.1. Mô hình hoạt động BHTG
BHTG được xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1934 sau những vụ vỡ nợ NH
hàng loạt, đó là tổ chức BHTG liên bang Mỹ (FDIC). FDIC là cơ quan của chính
phủ có nhiệm vụ thực hiện việc bảo hiểm đối với toàn bộ hoạt động của hệ thống
NH Mỹ. Sau sự ra đời của FDIC, nhiều quốc gia bắt đầu thành lập tổ chức
BHTG.Tính đến nay trên thế giới có khoảng 99 quốc gia có hệ thống BHTG và
20 quốc gia đang có kế hoạch xây dựng hệ thống BHTG. Ngày 6/5/2002, Hiệp
hội BHTG Quốc tế được thành lập, có trụ sở tại Thụy Sĩ với sự tham gia của
nhiều hệ thống BHTG trên thế giới tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của
BHTG đối với sự kiểm soát hoạt động TC-NH, bảo vệ người gửi tiền của các
nước trên thế giới.
Hiện nay trên thế giới có ba mô hình hoạt động BHTG phổ biến: (i) Mô hình
chuyên chi trả; (ii) Mô hình chi trả với chức năng mở rộng; (iii) Mô hình giảm
thiểu rủi ro.
 Mô hình chuyên chi trả (pay-box)

Theo mô hình này, tổ chức BHTG được thành lập chỉ nhằm thực hiện một nhiệm
vụ duy nhất đó là chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia
BHTG bị phá sản, nhằm thực hiện một số mục tiêu của chính sách công, trong
đó hai mục tiêu quan trọng nhất là khẳng định sự tuyên bố của chính phủ về sự
bảo đảm của nhà nước ( ở một mức độ nào đó) đối với tiền gửi của dân cư ở các


11

NH thông qua một tổ chức và một cơ chế BHTG công khai và mục tiêu thứ hai
là bảo vệ những người gửi tiền nhỏ thông qua việc hình thành cơ chế bồi thường.
Mô hình này tồn tại ở các nước đang phát triển, tổ chức BHTG mới được thành
lập và còn nhỏ bé cả về quy mô tổ chức lẫn năng lực tài chính.
 Mô hình chi trả với chức năng mở rộng (pay-box with extended


function)
Theo mô hình này, tổ chức BHTG không chỉ thực hiện nhiệm vụ với những mục
tiêu như đã nói ở trên mà còn được trao thêm một số quyền hạn mở rộng như: hỗ
trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn trong thanh toán, theo
dõi và khuyến nghị sự cẩn trọng và phòng tránh rủi ro đối với các tổ chức tham
gia BHTG, tham gia xử lý nợ và thu hồi nợ của tổ chức tham gia BHTG bị phá
sản…. Qua đó cũng làm tăng thêm các mục tiêu cần đạt được của chính sách
công như hạn chế rủi ro, tránh đổ vỡ hệ thống hoặc khủng hoảng tài chính, gia
tăng niềm tin của công chúng…
 Mô hình giảm thiểu rủi ro (risk minimizer)

Đây là một mô hình tiên tiến, phổ biến trên thế giới hiện nay. Theo mô hình này,
tổ chức BHTG được trao những quyền hạn và phạm vi hoạt động rộng lớn hơn.
Ngoài nhiệm vụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, tổ chức BHTG
theo mô hình giảm thiểu rủi ro còn tham gia cùng với các cơ quan nhà nước, NH
và các định chế tài chính khác góp phần bảo đảm sự an toàn và hoạt động bình
thường của hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia; tạo sự công bằng và động lực
cạnh tranh lành mạnh của các tổ chức tham gia BHTG thông qua cơ chế tính phí
bảo hiểm dựa trên cơ sở định mức tín nhiệm; được trao các nghiệp vụ kinh
doanh, đầu tư nhằm bảo toàn phát triển vốn ban đầu cũng như tăng cường sức
mạnh tài chính, giảm dần sự phụ thuộc vào NSNN. Theo đó cũng nhận được
hiệu quả lớn hơn của việc thực hiện các mục tiêu của chính sách công như phòng
tránh có hiệu quả những đổ vỡ dây chuyền hoặc khủng hoảng tài chính, khuyến
khích tiết kiệm, tăng trưởng tín dụng… góp phần vào tăng trưởng chung của nền
kinh tế (phụ lục 1.1). Đây là mô hình hiệu quả nhất để BHTG có thể thực hiện
tốt vai trò đảm bảo ATTCQG.


12


1.2.4.2. Nguyên tắc hoạt động cơ bản của BHTG trong việc đảm bảo ATTCQG
Để có thể thực hiện tốt vai trò của mình, tổ chức BHTG phải có được các điều
kiện tiền đề ngoài khả năng kiểm soát của tổ chức BHTG. Những tiền đề này
bao gồm:
-

Có một nền tảng đánh giá tình trạng của nền kinh tế và hệ thống TC-NH
cập nhật.

-

Năng lực điều hành của các cơ quan quản lý trong mạng an toàn tài chính
quốc gia phải mạnh.

-

Có một nền tảng giám sát và quy định pháp luật NH chặt chẽ, cẩn trọng.

-

Có một hệ thống pháp luật đồng bộ cũng như một cơ chế hạch toán kế
toán công khai, rõ ràng và minh bạch.

Với những tiền đề này, một chính sách hay cơ chế hoạt động BHTG hiệu quả
nhằm đảm bảo ATTCQG sẽ được xây dựng. Nó cần bao gồm các nguyên tắc cơ
bản sau:
-

Mục tiêu chính sách công: Những mục tiêu này phải được cụ thể hóa và

phù hợp với cấu trúc của hệ thống BHTG, theo đó chú trọng đến tính ổn
định, an toàn của hệ thống tài chính và bảo vệ người gửi tiền.

-

Hạn chế rủi ro đạo đức nghề nghiệp: Hệ thống BHTG cần được tổ chức
sao cho giảm thiểu rủi ro đạo đức nghề nghiệp.

-

Công tác điều hành: Cơ quan hoạt động BHTG cần được hoạt động độc
lập, có tính minh bạch và tin cậy cao.

-

Mối quan hệ với các cơ quan khác trong mạng an toàn tài chính quốc gia:
Hoạt động của cơ quan BHTG cần bảo đảm phối hợp chặt chẽ và chia sẻ
thông tin hàng ngày với các thành viên khác trong mạng ATTCQG cũng
như với các NHTM . Những thông tin này cần chính xác, kịp thời và đảm
bảo tối mật (nếu cần).

-

Các vấn đề quốc tế: Tất cả những thông tin liên quan cần được trao đổi
giữa các cơ quan BHTG quốc gia hoặc có thể với các cơ quan quản lý
Nhà nước thuộc các quốc gia khác với điều kiện những thông tin đó được
bảo mật.


13


-

Tư cách thành viên bắt buộc: Tất cả các TCTC có chức năng nhận tiền gửi
bắt buộc phải tham gia hệ thống BHTG nhằm trách những tác động bất lợi
của TTTC.

-

Mức độ bảo hiểm: Mức độ bảo hiểm cần được giới hạn song vẫn phải đảm
bảo hợp lý, chi trả một lượng lớn những người gửi tiền và đủ để tạo thái
độ hoài nghi ở người gửi tiền đối với tổ chức huy động tiền gửi.

-

Nguồn vốn huy động: Hệ thống BHTG cần phải có được tất cả các cơ chế
huy động vốn cần thiết để đáp ứng yêu cầu bồi hoàn của người gửi tiền,
bao gồm cả việc sử dụng nguồn vốn dự phòng bổ sung cho các mục đích
thanh khoản nếu cần. Các NHTM có trách nhiệm đóng góp các khoản phí
BHTG bởi họ và khách hàng của họ được hưởng lợi từ chính hệ thống
BHTG đó.

-

Nhận thức của cộng đồng: Để hệ thống BHTG phát huy hiệu quả thì công
chúng cần được cung cấp thường xuyên những lợi ích và hạn chế của hệ
thống BHTG.

-


Phát hiện sớm, can thiệp và khắc phục kịp thời: Cơ quan BHTG với tư
cách là cấu thành trong mạng an toàn tài chính quốc gia có trách nhiệm
phát hiện sớm, can thiệp và khắc phục kịp thời đối với các NH có vấn đề.

-

Quá trình khắc phục: Quá trình khắc phục hậu quả cần đẩy mạnh vai trò
của cơ quan BHTG trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, cơ
quan BHTG cần có được quyền hạn pháp lý trong việc thiết lập cơ chế
linh hoạt duy trì các nghiệp vụ NH bằng cách đẩy nhanh quá trình mua
bán các tài sản và công cụ nợ của NH phá sản.

-

Chia sẻ lợi ích: Cơ quan BHTG được quyền hưởng lợi số tiền được tạo ra
từ quá trình phục hồi các NH phá sản. Việc quản lý tài sản của NH phá
sản và quá trình phục hồi cần dựa trên những khía cạnh thương mại và
tiêu chuẩn kinh tế.

1.2.4.3. Các hoạt động của BHTG nhằm đảm bảo ATTCQG
Tùy theo mô hình tổ chức và mục tiêu hoạt động, cũng như vai trò của BHTG ở
mỗi Quốc gia mà tổ chức BHTG ở các nước khác nhau sẽ quy định những


14

nghiệp vụ cụ thể của mình. Tuy nhiên, dựa trên những nguyên tắc cơ bản nêu
trên, để bảo đảm ATTCQG mỗi tổ chức BHTG đều có các hoạt động sau:
 Hoạt động kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG
Công tác kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG đóng một vai trò rất quan trọng

trong hoạt động BHTG. Để đạt được các mục tiêu đề ra, tổ chức BHTG cần quy
định nội dung kiểm tra đối với các tổ chức tham gia BHTG, cụ thể là:
-

Kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTG, gồm các
nội dung như hồ sơ đăng kí tham gia BHTG, tính và nộp phí BHTG; hồ
sơ, tài liệu, sổ sách, chứng từ liên quan đến tiền gửi được bảo hiểm, đến
hỗ trợ tài chính.

-

Kiểm tra việc chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động NH như
các trường hợp không được cho vay và hạn chế tín dụng, giới hạn cho vay,
bảo lãnh, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, tỷ lệ đảm bảo an toàn, trích lập
dự phòng rủi ro….

Trong các quy định pháp lý đều chỉ rõ tổ chức BHTG được quyền kiểm tra toàn
diện các hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Để công tác kiểm tra có hiệu
quả, tổ chức BHTG cần xây dựng được quy trình, nội dung kiểm tra hợp lý, khoa
học sao cho công tác kiểm tra của tổ chức BHTG trở nên cần thiết và tránh
chồng chéo với công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng khác, đồng thời
kích thích tính tự giác tuân thủ quy định của các tổ chức tham gia BHTG.
 Hoạt động giám sát các tổ chức tham gia BHTG
Công tác giám sát các tổ chức tham gia BHTG được tiến hành thường xuyên trên
cơ sở nguồn thông tin mà tổ chức BHTG thu thập được về các tổ chức này. Đây
chính là công việc đánh giá hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Từ đó sớm
đưa ra những thông tin cảnh báo các nguy cơ trong hoạt động của các tổ chức
tham gia BHTG, phục vụ cho việc điều hành hoạt động BHTG. Quy chế giám
sát được thực hiện theo những nội dung như việc nộp báo cáo, nộp phí bảo hiểm
và theo các chỉ tiêu cơ bản như vốn tự có, vốn huy động, vốn góp liên doanh,

liên kết, tỷ lệ an toàn tối thiểu, chất lượng tài sản, trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng.


15

Giám sát các tổ chức tham gia BHTG là một hoạt động không thể thiếu của tổ
chức BHTG. Nó là cơ sở để tiến hành nghiệp vụ kiểm tra các tổ chức tham gia
BHTG, nhất là trong giai đoạn mới triển khai hoạt động BHTG, khi mà đội ngũ
nhân lực của tổ chức BHTG chưa đủ lớn để thực hiện thường xuyên công tác
kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG. Hoạt động giám sát cho phép tổ chức
BHTG có thể tiến hành kiểm tra theo phương thức chọn mẫu, không nhất thiết
phải kiểm tra đồng loạt các tổ chức tham gia BHTG. Hơn nữa, khi nền kinh tế
ngày càng phát triển cùng với những biến động ngày một phức tạp hơn của
TTTC thì hoạt động điều tiết đối với nền kinh tế cũng cần được tổ chức ở trình
độ cao hơn, hạn chế điều tiết trực tiếp và kích thích được tính tự giác tuân thủ
quy định điều tiết của các tổ chức tham gia BHTG.
 Hoạt động chi trả cho người gửi tiền được bảo hiểm
Khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là mất
khả năng thanh toán và có văn bản yêu cầu chấm dứt hoạt động, tổ chức BHTG
sẽ tiến hành việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền theo trình tự quy định.
Đây là hoạt động mà tổ chức BHTG thực hiện cam kết thanh toán cho người gửi
tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm, bao gồm cả gốc và lãi, theo một mức độ
nhất định, tùy thuộc vào quy định về hạn mức chi trả của tổ chức BHTG ở mỗi
quốc gia.
Mục đích của hoạt động này là nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền cả về
mặt giá trị lẫn hình thức. Về mặt giá trị, mức độ chi trả sẽ phụ thuộc vào chính
sách BHTG của mỗi quốc gia khi xem xét đến các chỉ tiêu như GDP bình quân
đầu người, lạm phát….nhằm hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động BHTG. Về
mặt hình thức, hoạt động chi trả được thực hiện kịp thời, thuận tiện và an toàn.

Đây là hoạt động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý của người gửi tiền, niềm tin
của họ đối với tổ chức tham gia BHTG cũng như với tổ chức BHTG và do đó,
ảnh hưởng tới tính an toàn của toàn bộ hệ thống TC-NH.
 Hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG
Hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG nhằm mục tiêu duy trì sự ổn định
và phát triển an toàn hệ thống TC-NH của BHTG. Nghiệp vụ này bao gồm các


16

nội dung như: hỗ trợ tài chính, hỗ trợ ổn định tổ chức, hỗ trợ kĩ năng hoạt động,
hỗ trợ tuyên truyền về hoạt động BHTG. Cụ thể:
-

Tổ chức BHTG thực hiện hoạt động hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức
tham gia BHTG dưới hình thức cho vay hỗ trợ khi các tổ chức này có khó
khăn về khả năng thanh khoản, thanh toán, mua tài sản có và bảo lãnh cho
tổ chức tham gia BHTG đi vay vốn tại đơn vị khác.

-

Qua nghiệp vụ kiểm tra và giám sát, tổ chức BHTG phát hiện ra những
khó khăn, yếu kém, thiếu sót trong quản lý điều hành, ảnh hưởng tới kết
quả hoạt động kinh doanh của tổ chức tham gia BHTG và tính an toàn đối
với tiền gửi tại các tổ chức này. Từ đó đề ra phương án hỗ trợ để ổn định
và cải thiện, nâng cấp năng lực quản lý của các tổ chức đó trên cơ sở đưa
ra các kiến nghị như đổi mới cơ cấu tổ chức hoặc tìm đối tác là các NH
lớn mạnh, hoạt động tốt để đàm phán liên kết hoạt động hay dàn xếp việc
sáp nhập… để khắc phục những tồn tại.


-

Tổ chức BHTG có thể tiến hành hỗ trợ kĩ năng hoạt động trong lĩnh vực
TC-NH cho các tổ chức tham gia BHTG một cách thường xuyên dưới
nhiều hình thức như tổ chức các cuộc trao đổi giữa các cán bộ lãnh đạo
của các tổ chức tham gia BHTG để nhân rộng các mô hình tổ chức hoạt
động có hiệu quả hay tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ, viên
chức của tổ chức tham gia BHTG, hoặc cử cán bộ của tổ chức BHTG
xuống làm việc và hướng dẫn cho tổ chức tham gia BHTG.

-

Bản chất của dịch vụ BHTG là dịch vụ công, không mang tính chất
thương mại, cung cấp lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp tới mọi chủ thể trong
xã hội.Tổ chức tham gia BHTG là đơn vị thụ hưởng trực tiếp dịch vụ
BHTG. Do đó, tổ chức BHTG xem hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến
thức về BHTG là một trong những nhiệm vụ chính mà họ cần triển khai
thực hiện, đồng thời thông qua đó hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG tạo
dựng lòng tin với khách hàng đến gửi tiền tại các tổ chức này.

Nói tóm lại, hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG sẽ góp phần mở rộng
hoạt động, ngăn chặn sự đổ vỡ, hạn chế những rủi ro của hệ thống TC-NH, bảo


17

đảm được lòng tin của người dân đối với hệ thống này. Từ đó đạt được mục tiêu
đã đề ra của BHTG, nâng cao hơn nữa vai trò của BHTG đối với hệ thống TCNH nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Ngoài các hoạt động chính trên, tổ chức BHTG còn thực hiện một số hoạt động
khác như quản lý và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản. Khi

tổ chức tham gia BHTG bị phá sản thì tổ chức BHTG trở thành chủ nợ với số
tiền là số tiền mà tổ chức BHTG đã chi trả cho người gửi tiền và được quyền
tham gia thanh lý tài sản.
Qua việc thực hiện các hoạt động của mình một cách hiệu quả, BHTG đã góp
một phần lớn trong việc đảm bảo an toàn, ổn định trong hoạt động của hệ thống
TC-NH, từ đó đảm bảo ATTCQG. Đây cũng là mối quan hệ mật thiết giữa
BHTG với an toàn của hệ thống tài chính quốc gia.
1.2.4.4. Tiêu chí đánh giá hoạt động BHTG trong việc đảm bảo ATTCQG
Hiệu quả của hoạt động BHTG trong việc đảm bảo ATTCQG được đo lường
bằng vai trò của BHTG trước hết là đối với việc bảo vệ người gửi tiền, sau nữa
là góp phần đảm bảo an toàn hệ thống TC-NH. Vì vậy, ta có thể đưa ra các tiêu
chí đánh giá hiệu quả hoạt động BHTG sau:
 Số tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ

Với vai trò đảm bảo tính an toàn, ổn định cho hệ thống TC-NH, hiệu quả hoạt
động của BHTG được đánh giá qua năng lực kiểm soát rủi ro và sự giảm thiểu
các vụ đổ vỡ không đáng có của các tổ chức tham gia BHTG.
 Tăng trưởng tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại hệ thống TC-

NH
Dựa trên mục tiêu củng cố niềm tin của công chúng vào hệ thống TC-NH, hiệu
quả hoạt động của BHTG được đánh giá thông qua khối lượng tiền gửi của dân
cư vào NH. Tổ chức BHTG hoạt động tốt, đảm bảo được quyền lợi của người
gửi tiền sẽ tạo lập được niềm tin của họ đối với hệ thống TC-NH, kết quả cuối
cùng là khối lượng tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm vào hệ thống TC-NH
không ngừng gia tăng, giúp cho hệ thống TC-NH phát triển hoạt động của mình.
 Sự kịp thời, thuận tiện và an toàn của việc chi trả tiền bảo hiểm


18


Mục đích của hoạt động chi trả tiền BHTG là nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi
tiền cả về mặt giá trị lẫn hình thức, sau nữa là tạo niềm tin của công chúng đối
với tổ chức BHTG cũng như với tổ chức huy động tiền gửi yên tâm về những
khoản tiền gửi của mình. Do đó, hiệu quả hoạt động của BHTG được đo lường
bởi sự kịp thời, thuận tiện, an toàn của việc chi trả tiền bảo hiểm và những tiện
ích mà dịch vụ BHTG mang lại cho tổ chức tham gia BHTG lẫn người gửi tiền.
 Phản ứng của công chúng trước sự đổ vỡ của tổ chức tham gia

BHTG
Hiệu quả của hoạt động BHTG trong công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức
về BHTG có thể được đánh giá thông qua phản ứng tích cực hoặc tiêu cực của
công chúng trước sự đổ vỡ của tổ chức tham gia BHTG. Qua đó cũng cho thấy
lòng tin của công chúng vào hệ thống TC-NH, vào tổ chức BHTG. Qua đây cũng
đánh giá được hiệu quả hoạt động của BHTG trong việc xử lý đổ vỡ NH để
không gây nên đổ vỡ hệ thống và làm ảnh hưởng đến ATTCGQ.
Ngoài ra, ta còn có thể đánh giá hiệu quả hoạt động của một tổ chức BHTG
thông qua các tiêu chí khác như: sự phát triển của các NH mới thành lập hay các
NH quy mô nhỏ, qui mô vốn hoạt động của tổ chức BHTG…
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến BHTG trong việc đảm bảo ATTCQG
Như đã trình bày ở những phần trên ta có thể thấy hoạt động của BHTG luôn gắn
với vai trò bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo tính an toàn, ổn định cho
hệ thống TC-NH nên có thể nói, hoạt động của BHTG luôn gắn liền với việc
đảm bảo ATTCQG. Do đó, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động
BHTG cũng chính là các nhân tố ảnh hưởng đến vai trò đảm bảo ATTCQG của
BHTG.
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách BHTG
Chính sách BHTG bao gồm các quy định về tất cả các phương diện hoạt động
của BHTG như đối tượng bảo hiểm, tính phí BHTG, hạn mức chi trả… Việc đưa

ra các chính sách này sẽ có tác động tích cực hoặc tiêu cực với tình hình đảm bảo
ATTCQG của BHTG. Cụ thể:


19

 Loại tiền gửi được bảo hiểm
Việc xác định loại tiền gửi nào thuộc đối tượng được bảo hiểm có ảnh hưởng
trực tiếp đến phí bảo hiểm, dẫn tới ảnh hưởng đến quỹ BHTG, từ đó ảnh hưởng
gián tiếp tới hiệu quả hoạt động BHTG trong việc thực hiện các chính sách công.
Hơn thế nữa, quy định loại tiền gửi được bảo hiểm còn phải phù hợp với chính
sách tiền tệ của Quốc gia. Hầu hết các hệ thống BHTG trên thế giới đều xác định
tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi của cá nhân bằng nội tệ là đối tượng được bảo
hiểm. Sở dĩ nhiều Quốc gia loại khỏi đối tượng được bảo hiểm các loại tiền gửi
như: tiền gửi ngoại tệ, tiền gửi liên NH, chứng chỉ tiền gửi không ghi danh và
tiền gửi của các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị kinh tế bởi các nguyên
nhân sau:
-

Đối với tiền gửi ngoại tệ: việc lựa chọn bảo hiểm cho tiền gửi ngoại tệ còn
tùy thuộc vào tình hình riêng của mỗi Quốc gia. Ở những nước mà phần
lớn các giao dịch được thực hiện bằng đồng nội tệ và tiền gửi bằng ngoại
tệ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng tiền gửi vào hệ thống NH thì loại bỏ
đồng ngoại tệ khỏi danh sách các loại tiền gửi được bảo hiểm là hợp lý.
Hơn nữa, đây cũng là một chính sách tiền tệ vĩ mô nhằm bảo vệ đồng nội
tệ.

-

Đối với tiền gửi liên NH: đây là khoản tiền gửi của các NH, đơn vị trực

tiếp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, nên họ nắm được thông
tin và kiểm soát được rủi ro đối với các khoản tiền này. Do đó, không nhất
thiết phải đưa loại tiền này vào danh sách được bảo hiểm.

-

Đối với chứng chỉ tiền gửi không ghi danh: nếu các hệ thống BHTG áp
dụng BHTG cho loại tiền gửi huy động theo hình thức chứng chỉ không
ghi danh thì sẽ không có cơ sở chính xác để thực hiện mức chi trả tiền bảo
hiểm đối với người sở hữu các công cụ này.

-

Đối với tiền gửi của tổ chức chính trị - xã hội và các đơn vị kinh tế: mục
đích gửi tiền của các tổ chức này không phải để tiết kiệm mà chủ yếu là để
thực hiện các giao dịch thanh toán và được cung cấp các dịch vụ tiện ích
của NH. Thêm vào đó, họ có khả năng nắm giữ thông tin về NH mà họ


20

gửi tiền ở một chừng mực nhất định. Vì vậy, không quá cần thiết phải bảo
hiểm cho loại tiền gửi này.
 Loại hình tổ chức tham gia BHTG

Các tổ chức nhận tiền gửi hiện nay rất đa dạng. Ngoài các tổ chức truyền thống
là NH, TCTD phi NH hay quỹ tiết kiệm thì trên thực tế hiện nay, một số tổ chức
khác như công ty bảo hiểm, công ty nhận ủy thác đầu tư chứng khoán đều có
hoạt động huy động vốn từ các cá nhân tự nguyện. Cho nên, xác định những đối
tượng nào cần tham gia BHTG là vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt

động của BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền cũng như giám sát hoạt động
của hệ thống tài chính. Bên cạnh đó, quy định tham gia BHTG là tự nguyện hoặc
bắt buộc cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của BHTG trong vấn đề đảm bảo
an toàn và ổn định hệ thống TC-NH. Nó sẽ xác định vùng hoạt động của BHTG
đối với hệ thống tài chính.
 Phí BHTG
Phí BHTG là đóng góp tài chính của tổ chức tham gia BHTG cho tổ chức
BHTG, được tiến hành dưới hai hình thức:
Thứ nhất, đóng góp một khoản tiền khi được chấp nhận tham gia BHTG.
Thứ hai, đóng góp phí BHTG định kì theo tháng, quý hoặc năm. Mức đóng góp
này được xác định theo công thức tổng quát:
Pa  r  D
Trong đó:
Pa: mức phí BHTG hàng năm của một tổ chức tham gia BHTG
r: tỉ lệ phí BHTG áp dụng đối với tổ chức tham gia BHTG
D: giá trị tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm. Thông thường lấy số bình
quân một ngày trong năm
Tỷ lệ phí bảo hiểm được phân làm hai loại là tỷ lệ phí BHTG đồng hạng và tỷ lệ
phí BHTG phân biệt căn cứ vào mức độ rủi ro của tổ chức tham gia BHTG. Tỷ
lệ phí đồng hạng là tỷ lệ phí như nhau đối với tất cả các tổ chức tham gia BHTG
trong cùng một hệ thống BHTG quốc gia. Cách tính phí này có ưu điểm dễ dàng
trong tính toán, quản lý và thu phí BHTG nhưng không tạo được sự công bằng


21

giữa các tổ chức tham gia BHTG, không khuyến khích các tổ chức nhận tiền gửi
kinh doanh lành mạnh và hiệu quả. Nó chỉ thích hợp với những hệ thống BHTG
mới thành lập. Hình thức thu phí theo mức độ rủi ro được coi là tiên tiến hơn và
phù hợp với nguyên tắc bảo hiểm. Tỷ lệ phí bảo hiểm phân biệt theo mức độ rủi

ro là tỷ lệ phí khác biệt được xác định riêng cho từng tổ chức tham gia BHTG,
tùy thuộc vào khả năng thanh toán, khả năng cạnh tranh và mức độ ổn định tài
chính của mỗi tổ chức. Theo hình thức này, tổ chức nào hoạt động kém, rủi ro
lớn sẽ phải chịu tỷ lệ phí bảo hiểm cao, tránh tình trạng cào bằng giữa các tổ
chức và khuyến khích các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động lành mạnh hơn.
Không những thế, cách tính phí này còn như một tín hiệu phát ra để nhắc nhở
cho tổ chức tham gia BHTG biết tình trạng hoạt động của mình.
Phí BHTG là nguồn vốn bổ sung cho quỹ BHTG nhằm đảm bảo vốn hoạt động
cho tổ chức BHTG, do đó cần được đảm bảo đầy đủ để duy trì bộ máy hoạt động
có hiệu quả, thực hiện kịp thời các hoạt động hỗ trợ đối với tổ chức tham gia
BHTG và thực hiện chi trả kịp thời cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo
hiểm kho TCTD mất khả năng thanh toán. Vì vậy, việc áp dụng cách tính phí và
quy định mức phí là bao nhiêu cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
BHTG.
Hoạt động của BHTG trong vai trò đảm bảo ATTCQG nên áp dụng tính phí theo
rủi ro để có thể kiểm soát được mức độ rủi ro của các TCTC, từ đó có những
hoạt động kịp thời nhằm đảm bảo ATTCQG.
 Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm
Hạn mức chi trả tiền bảo hiểm là khoản tiền tối đa mà tổ chức BHTG sẽ thanh
toán cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia
BHTG bị mất khả năng thanh toán và chấm dứt hoạt động. Nó được xác định
dựa trên 4 căn cứ: Thứ nhất là tình hình kinh tế và hệ thống TC-NH. Thứ hai là
mức thu nhập bình quân đầu người. Thứ ba là số lượng người gửi tiền. Thứ tư là
năng lực tài chính của tổ chức BHTG và chính sách của chính phủ về hoạt động
này. Mức chi trả tối đa tiền gửi được bảo hiểm cho mỗi khách hàng gửi tiền phụ
thuộc vào năng lực tài chính của tổ chức BHTG, tức là phụ thuộc vào mức vốn


22


NSNN cấp cho tổ chức BHTG và mức phí BHTG quy định cho các tổ chức tham
gia BHTG phải nộp.
Mức chi trả tiền bảo hiểm cao hay thấp đều có những ưu, nhược điểm của nó.
Hạn mức chi trả càng cao thì quyền lợi của người gửi tiền càng được bảo đảm và
có thể ngăn chặn được việc rút tiền hàng loạt khi tổ chức tham gia BHTG gặp sự
cố. Tuy nhiên, mặt trái của nó là khả năng phát sinh rủi ro, đặc biệt là rủi ro đạo
đức đối với hoạt động BHTG cũng tăng lên. Do đó, xác định chi trả BHTG với
hạn mức bao nhiêu là hợp lý cũng tác động rất lớn đến hiệu quả của hoạt động
BHTG trong việc bảo đảm tính an toàn, lành mạnh cho hoạt động của hệ thống
TC-NH cũng như bảo vệ người gửi tiền.
1.3.1.2. Tính chuyên nghiệp và năng lực trong phân tích đánh giá rủi ro hệ
thống
Được xem là “ nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên”,
chất lượng cán bộ, công nhân viên là nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả
hoạt động của một tổ chức nói chung và tổ chức BHTG nói riêng. Với những
nhiệm vụ của mình, tổ chức BHTG càng phải quan tâm đặc biệt tới chất lượng,
năng lực của đội ngũ nhân lực. Một đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp và
năng lực cao trong việc đánh giá rủi ro hệ thống sẽ sớm phát hiện ra những nguy
cơ trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, từ đó đưa ra những cảnh báo
kịp thời đối với tổ chức tham gia BHTG, tránh việc đổ vỡ mang tính hệ thống
của các TCTC, đảm bảo tốt hơn nữa vai trò của tổ chức BHTG trong việc góp
phần ổn định tính an toàn, lành mạnh trong hoạt động của hệ thống TC-NH.
1.3.1.3. Quy mô và mạng lưới hoạt động BHTG
BHTG có quy mô quỹ lớn sẽ dễ dàng thực hiện các nghiệp vụ của mình nhằm
bảo đảm ATTCQG như hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia BHTG gặp khó
khăn, xử lý đổ vỡ NH, chi trả kịp thời tiền bảo hiểm cho người gửi tiền, dễ dàng
đối phó với những biến động bất thường của hệ thống tài chính. Do đó, quy mô
quỹ BHTG là một nhân tố quan trọng giúp BHTG duy trì, đảm bảo an toàn, ổn
định tài chính quốc gia.



23

Mạng lưới hoạt động thể hiện qua số lượng chi nhánh và độ rộng của địa bàn
quản lý của tổ chức BHTG. Mạng lưới quản lý, giám sát rộng trong điều kiện đủ
nguồn nhân lực sẽ giúp tổ chức BHTG giám sát được chặt chẽ và bao quát
những biến động trong hoạt động của hệ thống TC-NH, từ đó đưa ra những hành
động kịp thời nhằm nhanh chóng giải quyết vấn đề và đảm bảo cho hệ thống TCNH hoạt động bình thường.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Tình hình kinh tế trong và ngoài nước
Trong thế giới phẳng của những giao thoa kinh tế quốc tế, ATTCQG là một mắt
xích của ATTC toàn cầu. Bất kỳ biến động kinh tế nào dù trong hay ngoài nước
cũng có thể ảnh hưởng đến ATTCQG. Do đó, có thể nói rằng tình hình kinh tế
trong nước cũng như ngoài nước là nhân tố quan trọng tác động đến việc đảm
bảo ATTCQG. Và chính sách BHTG cần được xem xét trong mối quan hệ khăng
khít với kinh tế trong nước và thế giới.
1.3.2.2. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong hệ thống giám sát
Cơ chế chia sẻ thông tin giữa các thành viên của mạng an toàn tài chính quốc gia
là yếu tố quan trọng để xây dựng một hệ thống BHTG hiệu quả bởi để hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình, tổ chức BHTG cần được tiếp cận thông tin một
cách đầy đủ nhất. Cơ chế chia sẻ thông tin sẽ bao gồm những quy định như:
những thông tin nào được chia sẻ và chia sẻ cho những ai, mức độ chi tiết và tần
suất thông tin được trao đổi… Hiệu quả hoạt động của tổ chức BHTG sẽ được
nâng lên đáng kể nếu các thành viên trong mạng an toàn tài chính cùng nhau cam
kết xây dựng và triển khai một cơ chế chia sẻ thông tin chính thức và các phân
tích đánh giá hiện trạng của hệ thống tài chính. Ngoài ra, việc thiết kế một hệ
thống giám sát tài chính có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan trong mạng an
toàn tài chính trong việc giám sát các TCTC cũng tác động không nhỏ đến hoạt
động kiểm tra, giám sát của tổ chức BHTG. Vì vậy, quy định cụ thể về quyền
hạn và trách nhiệm, cơ chế chia sẻ thông tin của mỗi bên liên quan trong mạng

an toàn tài chính quốc gia sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của BHTG.
1.3.2.3. Hành lang pháp lý


24

Một hành lang pháp lý đầy đủ, chặt chẽ về BHTG sẽ là cơ sở để tổ chức BHTG
có đầy đủ quyền hạn thực thi các hoạt động của mình, phát huy tốt nhất vai trò
bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống TC-NH.
Tóm tắt chương 1
Thông qua nghiên cứu khái niệm ATTCQG, khái niệm BHTG và vai trò của
BHTG trong việc đảm bảo ATTCQG, chương I của đề tài đã cơ bản làm rõ các
vấn đề liên quan đến đảm bảo ATTC. Theo đó:
An toàn tài chính quốc gia là tình trạng tài chính của một quốc gia không bị nguy
hiểm bởi các tác động bên trong và bên ngoài liên quan tới các rủi ro tài chính.
Đảm bảo an toàn tài chính quốc gia là việc đảm bảo cho hệ thống tài chính của
quốc gia luôn được an toàn, ổn định ngay cả trong điều kiện khẩn cấp. BHTG là
một công cụ chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhất việc đảm bảo ATTCQG.
Chương 1 cũng trình bày nội dung, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động
BHTG cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động BHTG trong việc đảm
bảo ATTCQG.
Những vấn đề cơ bản trên có thể được coi là cơ sở, là căn cứ để tiến hành đánh
giá, nhận định thực trạng hoạt động BHTG trong việc đảm bảo ATTCQG và đưa
ra các giải pháp mang tính chất tham khảo nhằm nâng cao vai trò đảm bảo
ATTCQG của tổ chức BHTG Việt Nam trong thời gian tới.


25

CHƯƠNG 2

KINH NGHIỆM BHTG TRONG VIỆC ĐẢM BẢO
AN TOÀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
VÀ THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
2.1. Kinh nghiệm BHTG trong lĩnh vực ATTGQG trên thế giới và bài học
cho Việt Nam
2.1.1. Tình hình đảm bảo ATTCQG của một số tổ chức BHTG trên thế giới
2.1.1.1. BHTG liên bang Mỹ (FDIC) giải quyết khủng hoảng, duy trì ổn định tài chính
BHTG liên bang Mỹ (FDIC) được thành lập sau khủng hoảng tài chính 1929-1933
vào ngày 1/1/1934 theo sắc lệnh của Tổng thống Franklin D.Roosevelt và là cơ
quan BHTG đầu tiên trên thế giới. FDIC hoạt động độc lập với Chính Phủ và chịu
sự kiểm soát trực tiếp của Quốc hội. Vốn ban đầu của FDIC không lấy từ ngân
sách liên bang mà được chính phủ cho phát hành trái phiếu bán cho các tổ chức
TC-NH. Ngoài ra, FDIC còn được đảm bảo khả năng thanh khoản bởi một khoản
tín dụng dự phòng trị giá 30 tỷ USD do cục dự trữ liên bang và BTC Hoa Kì cấp.
Năm 1989, Quốc hội Mỹ thành lập 02 Quỹ bảo hiểm riêng biệt đều do FDIC quản
lý, bao gồm: Quỹ BHTG NH ( BIF) và Quỹ bảo hiểm hiệp hội tiết kiệm (SAIF).
Đến 31/3/2006, hai quỹ trên được hợp thành một quỹ chung duy nhất là Quỹ
BHTG, viết tắt là DIF. Đến thời điểm 31/12/2005, tổng số dư tiền gửi được bảo
hiểm là 3.892,5 tỷ USD, tổng số dư Quỹ BHTG hợp nhất là 48,6 tỷ USD, tỷ lệ dự
trữ ( số dư quỹ BHTG/ tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm) là 1,25% (phụ lục 2.1).
Sau khi xử lý các NH đổ vỡ trong năm 2008 và hai tháng đầu năm 2009, tỷ lệ dự
trữ của FDIC đã giảm mạnh. Tính đến quý II/2008, tỷ lệ đó giảm xuống mức 1,01%
và đến quý III/2008 thậm chí chỉ còn ở mức 0,76% và tỷ lệ này là 0,36% vào quý
IV/2008. Đây là tỷ lệ thấp nhất kể từ khi hợp nhất BIF và SAIF. Như vậy, tỷ lệ quỹ
BHTG đã giảm xuống thấp hơn mức Luật định (1,15% - 1,5%) và FDIC sẽ phải
xây dựng một kế hoạch phục hồi nhằm đảm bảo mức quy định trong vòng 5 năm
(biểu đồ 2.1). Ngày 7/10/2008, FDIC đã công bố kế hoạch phục hồi với các nội
dung chủ yếu là thay đổi tỷ lệ đánh giá các tổ chức tham gia BHTG đồng thời thay
đổi một số nội dung của hệ thống phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro.



×