Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

LV Thạc sỹ_Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước qua hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.3 KB, 92 trang )

Lời mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Huy động, khai thác và sử dụng tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước
cho đầu tư phát triển (đặc biệt là ở những nước đang phát triển), là một yếu tố
quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước phụ thuộc trực tiếp vào khả năng thu hút và
sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước là một bộ phận quan trọng.
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho các dự án đầu tư
phát triển của các thành phần kinh tế thuộc các ngành, lĩnh vực, chương trình kinh
tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư. Trong thời
gian qua, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã có những đóng góp quan
trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá cũng như phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Là một tổ chức tài chính Nhà nước được Chính phủ thành lập theo Nghị
định số 50 /1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 để thực hiện nhiệm vụ huy động, tiếp
nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước dành cho tín dụng đầu tư phát triển,
tín dụng hỗ trợ xuất khẩu; hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, kể từ khi thành
lập đến nay, Quỹ Hỗ trợ phát triển đã có những đóng góp nhất định trong việc
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư; tiếp tục đổi mới,
lành mạnh hoá hệ thống tài chính tiền tệ, tăng trưởng kinh tế bền vững của đất
nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển
cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Xuất phát từ đòi hỏi khách quan phải nâng cao vai
trò và đóng góp của Quỹ Hỗ trợ phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, tôi lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát
triển”.
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
+ Tập hợp một số vấn đề lý luận về tín dụng của Quỹ Hỗ trợ phát triển và


hiệu quả của nó.


+Phân tích thực trạng hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển, đánh giá những
kết quả đạt được, các hạn chế trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của Việt Nam, định hướng, mục tiêu
phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ
trợ phát triển ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển từ khi thành lập đến 31/3/2004 .
4. Các phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ những nguyên lý chung, luận văn sử dụng tổng hợp các
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc
nghiên cứu, các phương pháp thông kê, phân tích, hệ thống, so sánh được sử dụng
để nghiên cứu.
Trong nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và với kinh
nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc, Hàn
Quốc… nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm đối với nước ta.
5. Giới thiệu bố cục của luận văn
Tên luận văn: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển”.
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và hiệu quả của nó
Chương 2: Thực trạng và hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước qua Quỹ Hỗ trợ phát triển từ năm 2001 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng

đầu tư phát triển của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Kết luận


Chương I
tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước và hiệu quả của nó
1.1/ Chức năng và vai trò của tín dụng.

1.1.1/ Khái niệm về tín dụng:
Tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người vay
có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín
dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh quan hệ kinh tế trong đó mỗi tổ chức, cá
nhân nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật cho một tổ chức
hay cá nhân với những điều kiện ràng buộc nhất định: về thời hạn hoàn trả (gốc và
lãi); lãi suất; cách thức vay mượn và thu hồi…
Quan hệ tín dụng có một quá trình hình thành và phát triển rất lâu dài.
Trong chế độ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất ở một trình độ rất thấp
kém, công cụ lao động hết sức thô sơ, cuộc sống phải dựa vào tự nhiên, phân công
lao động chưa phát triển… do lực lượng sản xuất tháp kém như vậy nên chưa thể
có sản phẩm dư thừa để dự trữ và do vậy chưa có cơ sở để nảy sinh mầm mống
của đầu óc tư hữu và trong xã hội nguyên thuỷ chưa thể có quan hệ trao đổi, mua
bán và vay mượn. Lực lượng sản xuất phát triển, cùng với sự phát triển của phân
công lao động xã hội, lúc này con người sản xuất sản phẩm không chỉ đủ cho tiêu
dùng mà còn một phần để tích luỹ dự trữ, do đó, xuất hiện mầm mống của chế độ
tư hữu (cả về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra, xã hội lúc này đã có sự phân
chia kẻ giàu, người nghèo và các giai cấp được hình thành. Chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội là cơ sở cho sản xuất hành
hoá ra đời, do đó các quan hệ mua, bán trao đổi và vay mượn cũng ra đời và
những hình thức vay mượn đầu tiên chính là nguồn gốc sâu xa của quan hệ tín

dụng.
Như vậy có thể khẳng định tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế
sản xuất hàng hoá, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá,
trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá, tiền tệ thì tồn
tại tín dụng là một tất yếu khách quan, bởi vì nền sản xuất hàng hoá và mối quan
hệ hàng hoá hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trong xã hội, sự tuần hoàn trong


quy trình đó của vốn tiền tệ là tiền đề khách quan phát sinh các quan hệ tín dụng,
tính tất yếu khách quan của tín dụng nảy sinh.
Do đặc điểm của tính luân chuyển của vốn trong sản xuất kinh doanh, sự
vận động của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh tất yếu làm nảy sinh hiện
tượng phổ biến là trong cùng một thời gian có rất nhiều doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, cá nhân phát sinh nhu cầu vốn cần được bổ sung với khối lượng và thời
gian cần thiết, đồng thời, trong thời gian đó có nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế và dân cư có những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong một thời gian nhất
định, mâu thuẫn đó xảy ra thường xuyên và xem kẽ lẫn nhau trong quá trình tuần
hoàn của vốn tiền tệ, mâu thuẫn đi đến phải được giải quyết bằng các phương
pháp nhất định sao cho phù hợp với quá trình tuần hoàn đó, có nghĩa là phải tiến
hành tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ trên nguyên tắc có hoàn trả nhằm điều
hoà kịp thời giữa cung và cầu vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội đảm bảo cho
quá trình tái sản xuất liên tục và tiết kiệm vốn. Như vậy, đặc điểm của tuần hoàn
vốn tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức
đã nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải được giải quyết bằng các quan hệ kinh tế để
tập trung và phân phối lại các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắccó
hoàn trả, quan hệ này trở thành một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy xã hội
loài người đi tới văn minh, thịnh vượng trong nền kinh tế thị trường dựa trên nền
sản xuất lớn hiện đại đó là quan hệ tín dụng.
1.1.2/Bản chất Tín dụng:
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế phát sinh giữa người đi vay và người

cho vay, nhờ quan hệ ấy mà vốn tiền tệ được vận động từ chủ thể này sang chủ thể
khác để sử dụng cho các nhu cầu khác nhau trong nền kinh tế xã hội, tín dụng bao
giờ cũng có thời hạn và phải được “hoàn trả”. Giá trị của tín dụng không những
được bảo tồn mà còn được nâng cao nhờ lợi tức tín dụng.
1.1.3 / Chức năng của tín dụng:
Tín dụng được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả
nhất những lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi phù hợp với quá trình vận động của
vốn tiền tệ trong xã hội, tín dụng có ba chức năng chính như sau:
+Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ :
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này của tín
dụng mà các nguồn vốn tiền tệ trong xã hội được điều hòa từ nơi thừa sang nơi
thiếu để sử dụng nhằm phát triển nền kinh tế. Tập trung và phân phối lại vốn tiền
tệ là hai mặt hợp thành chức năng cốt lõi của tín dụng.


Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên
tắc hoàn trả vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn đồng
thời thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả.
+ Chức năng tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội :
- Họat động của tín dụng, trước hết tạo điều kiện cho sự ra đời của các công
cụ lưu thông tín dụng như thương phiếu , kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các
phương tiện thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, chuyển khoản
hoặc bù trừ... cho phép thay thế một số lượng lớn tiền mặt lưu hành, nhờ đó làm
giảm bớt các chi phí có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận chuyển, bảo quản
tiền...
+Chức năng phản ánh và kiểm soát các họat động kinh tế.
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động
của vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư,
hàng hóa, chi phí trong các Doanh nghiệp, vì vậy qua đó tín dụng không những là
tấm gương phản ánh họat động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó

thực hiện việc kiểm sóat các họat động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu
cực, lãng phí, vi phạm luật pháp....trong họat động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.
1.1.4/ Vai trò của tín dụng
Nói đến vai trò của tín dụng nghĩa là nói đến sự tác động của tín dụng đối
với nền kinh tế - xã hội. Vai trò của tín dụng bao gồm vai trò hai mặt tích cực, mặt
tốt, và mặt tiêu cực, mặt xấu. Chẳng hạn nếu để tín dụng phát triển tràn lan không
kiểm soát, thì không những không làm cho nền kinh tế phát triển mà còn làm cho
lạm phát có thể gia tăng gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội.
Nếu xét về mặt tích cực, tín dụng có vai trò to lớn sau đây :
Một là, tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa lưu thông phát triển:
Tín dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn (bao gồm vốn cố định và vốn lưu
động) cho các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế; Tín dụng là một trong những
công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu trong nền kinh tế, là công cụ thúc đẩy
tích tụ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Hai là, tín dụng góp phần ổn định tiền tệ và ổn định giá cả: Trong khi thực
hiện chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng góp
phần làm giảm khối lượng tiền tệ lưu hành trong nền kinh tế, đặc biệt là tiền mặt
trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm lạm phát, nhờ vậy góp phần làm ổn định
tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn cho nền kinh tế, làm cho sản xuất ngày càng
phát triển, sản phẩm hàng hóa dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu


của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm ổn định thị trường giá cả trong
nước...
Ba là, tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm:Tín dụng
có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa
mãn nhu cầu đời sống của người lao động. Mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã
tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội về tài
nguyên thiên nhiên, về lao động, đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng

lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng, có thể nói tín dụng có vai trò quan trọng để mở rộng và phát
triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế. Sự phát triển
của tín dụng không những ở đó nó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ
kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình
phát triển đi lên của mỗi nước, làm cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau
hơn và cùng nhau phát triển.
1.1.5 Các hình thức tín dụng
*Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế với nhau, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa cho
nhau.
Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn các hình thức tín dụng khác và giữ vai
trò là cơ sở để các hình thức tín dụng khác ra đời.
Tín dụng thương mại ra đời dựa trên nền tảng khách quan là quá trình luân
chuyển vốn và chu kỳ sản xuất kinh doanh không có sự phù hợp và ăn khớp lẫn
nhau không những giữa các doanh nghiệp khác ngành (như công nghiệp, thương
mại, xây dựng) mà còn giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Sự không
ăn khớp này dẫn đến hiện tượng trong một thời điểm, một số doanh nghiệp đã sản
xuất ra một lượng hàng hóa đang cần bán, nhưng chưa cần phải thu tiền ngay,
trong khi một số doanh nghiệp khác lại cần mua những sản phẩm hàng hóa ấy để
đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền.
Hiện tượng này có thể giải quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua bán
chịu hàng hóa cho nhau. Đó chính là tín dụng thương mại. Như vậy tín dụng
thương mại đều có lợi đối với cả hai phía, và có lợi đối với tiến trình phát triển
của nền kinh tế, bởi vậy tín dụng thương mại đã tồn tại và phát triển rất mạnh
trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa phát triển cao như hiện nay.
* Tín dụng ngân hàng



Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các doanh
nghiệp và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động
vốn bằng tiền và cho vay (cấp tín dụng) đối các đối tượng nói trên. Nó là một
nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn
trả và có lãi.
Đặc điểm của tín dụng ngân hàng là cho vay dưới dạng tiền tệ. Nguồn vốn
tín dụng mà ngân hàng cho vay ra được hình thành từ những khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi ngân hàng huy động được. Trong quan hệ với các doanh nghiệp và cá
nhân, vừa đóng vai trò là “ người đi vay”, vừa đóng vai trò “người cho vay”.
Tín dụng ngân hàng ra đời phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của hệ
thống ngân hàng, khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng là hình thức
tín dụng chuyên nghiệp họat động của nó hết sức đa dạng và phong phú.
*Tín dụng quốc tế.
Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa các chính phủ, giữa các tổ chức
tài chính tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm trợ giúp
lẫn nhau để phát triển kinh tế xã hội của một nước.
* Tín dụng nhà nước
Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước (bao gồm Chính phủ,
chính quyền dịa phương...) với các đơn vị và cá nhân trong xã hội, trong đó, chủ
yếu là Nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức và cá nhân bằng cách phát
hành trái phiếu để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn xã hội.
Khác với các loại hình tín dụng khác, tín dụng Nhà nước không phục vụ các
đối tượng kinh tế đơn thuần, mà là các đối tượng vừa có tính chất kinh tế vừa có
tính chất xã hội, để thực hiện vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong
từng thời kỳ nhất định, tín dụng Nhà nước không phải là khoản thu của Nhà nước,
Cũng giống như mọi loại hình tín dụng khác là thể hiện tính hoàn trả, có
thời hạn và phải trả một khoản tiền về sử dụng vốn vay. Trong tín dụng Nhà nước,
vốn tiền tệ huy động được dưới hình thức công trái (trái phiếu Chính phủ) thuộc
quyền sử dụng của Nhà nước, chúng được chuyển thành nguồn tài chính bổ sung
của Nhà nước. Vốn ngân sách là nguồn để hoàn trả tiền vay và lãi vay. Tín dụng

Nhà nước gắn liền với hoạt động của kiến trúc thượng tầng chính trị và sự vận
động của vốn ngân sách, biểu hiện một bộ phận của quan hệ tài chính Nhà nước.
Toàn bộ nguồn vốn huy động được dưới hình thức tín dụng Nhà nước chủ
yếu để cho vay ưu đãi, ưu tiên cho các dự án và công trình xây dựng hoặc cải tạo
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội hoặc đầu tư các dự án phát triển sản xuất kinh doanh.
1.2/ tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:


1.2.1/ Khái niệm: Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (ĐTPT) chỉ ra
đời khi mục đích của tín dụng Nhà nước chuyển từ chi tiêu sang đầu tư dưới dạng
cho vay có hoàn trả. Tính kinh tế của hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước
xuất hiện khi các hoạt động đầu tư được sử dụng từ nguồn vốn này để tạo ra
nguồn thu có khả năng hoàn trả khoản vốn đã sử dụng. Giống như các hình thức
tín dụng khác, cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ góp phần tập trung
được nguồn vốn cần thiết mà còn có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn
và phát triển được nguồn vốn của Nhà nước. Qua đó, Nhà nước có thể mở rộng
và chủ động trong việc giải quyết các mục tiêu về ĐTPT.
Tuy nhiên, tín dụng ĐTPT của Nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc
biệt, ở đó tính kinh tế của tín dụng nhà nước không phải là kinh tế đơn thuần.
Thông thường tính kinh tế của tín dụng ĐTPT của Nhà nước có những đặc tính
sau :
- Tính kinh tế vĩ mô: tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh
vực then chốt, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân cả nước, hoặc
một ngành, một vùng, hay một khu vực.
- Tính xã hội: tín dụng ĐTPT của nhà nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực mà
tín dụng thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận có thể không giải quyết
được (do hiệu quả trực tiếp của nhà đầu tư không được đảm bảo, hoặc qui mô
nguồn vốn quá lớn, hay thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài) để giải quyết các vấn
đề xã hội của đất nước : việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vùng, ...

1.2.2. Sự cần thiết của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Cơ chế kinh tế thị trường luôn có những khuyết tật cố hữu, đó là sự phân
hóa giàu nghèo, khai thác tài nguyên nguồn lực một cách bừa bãi, ảnh hưởng ô
nhiễm môi trường và sức khoẻ dân cư làm thiệt hại đến lợi ích cộng đồng, tính
chu kỳ trong phát triển kinh tế đôi khi dẫn đến sự lầm đường lạc lối như khủng
hoảng, độc quyền, lạm phát và thất nghiệp.
Để đối phó với những khuyết tật này, nền kinh tế hiện đại là nền kinh tế hỗn
hợp giữa thị trường - bàn tay vô hình và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu
hình đang ngày càng chiếm ưu thế, ở đây nền kinh tế thị trường gắn liền với vai
trò điều tiết kinh tế của Nhà nước.
Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ
tài chính vốn có như thuế, phí, chi ngân sách Nhà nước, ... Ngoài ra, Nhà nước
còn thành lập các doanh nghiệp Nhà nước và thông qua đó thực hiện việc đầu tư
theo mục tiêu của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế. Hoạt động của các doanh


nghiệp này thường nằm trong các lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế
hoặc những lĩnh vực hoạt động có tính chất xã hội. Đối với các doanh nghiệp này,
tùy theo điều kiện lịch sử, đặc điểm kinh tế từng thời kỳ và yêu cầu phát triển kinh
tế đất nước từng giai đoạn mà Nhà nước thường cung cấp vốn dưới dạng cấp phát
trực tiếp không hoàn lại hoặc tín dụng. Như vậy tín dụng ĐTPT của Nhà nước là
một đòi hỏi khách quan, tất yếu trong đầu tư cơ bản của Chính phủ trong một giai
đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế ở mỗi nước.
Đối với nền kinh tế chuyển đổi hiện nay, Nhà nước sử dụng công cụ tín
dụng để tham gia hoạt động đầu tư phát triển là một vấn đề tất yếu, do đo, vai trò
điều tiết kinh tế của Nhà nước lúc này cần được tăng cường vì phải xây dựng các
nền tảng hạ tầng cơ sở cần thiết cho nền kinh tế và phần nào hỗ trợ các doanh
nghiệp đổi mới, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ giá thành, nâng cao chất
lượng và tính cạnh tranh sản phẩm, ... Để thực hiện được nhiệm vụ nặng nề này ,
phạm vi cấp phát không hoàn lại vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho đầu tư

phát triển kinh tế phải thu hẹp, thay thế vào đó là mở rộng diện tín dụng ĐTPT
của Nhà nước đối với các hoạt động chi đầu tư phát triển của Nhà nước nhưng có
khả năng thu hồi vốn. Đấy chính là một trong những nội dung cải cách ngân sách
Nhà nước ở các nước chuyển đổi nền kinh tế. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước
trong trường hợp này là một hình thức mang tính quá độ để các doanh nghiệp làm
quen dần với cơ chế tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của
mình. Đối với một số doanh nghiệp Nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước có
thể là những bước hỗ trợ chuyển tiếp để phát triển và sau đó có thể chuyển giao
cho khu vực ngoài quốc doanh thông qua cổ phần hóa.
Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế, để có thể tham gia
vào nền kinh tế thế giới, trong điều kiện các thể chế kinh tế- tài chính của các
nước đang phát triển chưa có thời gian tiếp cận khẳng định vị thế trên thị trường
quốc tế. Nhà nước của các nước đang phát triển luôn phải thực hiện chức năng
trung gian hoặc nhà bảo lãnh cho các hoạt động tài chính đối ngoại. Thực tế, Nhà
nước đã phải đứng ra thực hiện việc cho vay lại hoặc bảo lãnh đối với các khoản
tín dụng nước ngoài.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc điều tiết kinh tế là một việc làm thiết
yếu của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp và tín dụng ĐTPT của NN là một
công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
1.2.3. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.


Xét trên nhiều phương diện, tín dụng ĐTPT của Nhà nước không chỉ là biện
pháp huy động nguồn vốn nhàn rỗi bổ sung cho nguồn vốn tài chính Nhà nước mà
còn là công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện việc điều tiết và kiểm
soát vĩ mô. Vai trò điều tiết nền kinh tế và kiểm soát vĩ mô bằng tín dụng ĐTPT
của Nhà nước được biểu hiện trên các khía cạnh chủ yếu sau :
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một công cụ sắc bén trong
việc lành mạnh hóa nền tài chính - tiền tệ quốc gia.

Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng và
phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư. Việc tập trung
và phân bổ nguồn vốn luôn có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Nhà nước có thể tập trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu
cầu với thời gian dài và chi phí không cao. Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ
động trong việc điều tiết vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự cải thiện
tiềm lực tài chính quốc gia.
Việc ra đời của cơ chế tín dụng ĐTPT Nhà nước còn là một tác nhân quan
trọng trên thị trường tài chính, đó là sự phát triển của thị trường chứng khoán và
của khu vực các thể chế tài chính phi ngân hàng.
Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng hết
sức quan trọng. Việc xóa bỏ cơ chế tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách là nền tảng cho
việc lành mạnh hóa khu vực tiền tệ - ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá
trị đồng nội tệ.
Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là cơ sở để tách các hoạt động
tín dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại của khu
vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động của các tổ chức trung gian tài chính
sang cơ chế hạch toán kinh doanh hoàn toàn. Việc tách bạch tín dụng chính sách
và tín dụng ngân hàng có tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính thanh
khoản của các ngân hàng thương mại.
Vấn đề có ý nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà
nước đã tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu
chuyển, điều hòa các nguồn tài chính trong nền kinh tế - một vấn đề thiết yếu đối
với việc duy trì liên tục và mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hóa.
-Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Cùng với các chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách tiền
tệ ... Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một công cụ đắc lực, hữu hiệu của Nhà
nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu đặt ra đối với tín dụng ĐTPT là



thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào những
lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp
hoặc gián tiếp phát triển các lĩnh vực ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Mặt
khác, tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực
công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội, ...
nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, bảo đảm
không tụt hậu hoặc đi chệch xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới,
khu vực.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước nâng cao hiệu quả đầu tư, xóa bao cấp về
đầu tư.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước làm giảm sự bao cấp trực tiếp của Nhà nước
đối với lĩnh vực đầu tư có khả năng hoàn vốn mà trước đây vẫn được Nhà nước
cấp không hoàn lại. Từ đó đã giảm đáng kể áp lực về nguồn vốn đối với ngân
sách Nhà nước. Đồng thời tín dụng ĐTPT của Nhà nước cũng góp phần đa dạng
hóa các hình thức huy động vốn đầu tư, thúc đẩy huy động vốn đặc biệt là huy
động vốn dài hạn trong mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm thực
hiện chủ trương phát huy nội lực cho phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó tín dụng ĐTPT của Nhà nước còn góp phần nâng cao hiệu quả
trong đầu tư. Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước được
đưa ra chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong quá trình đầu tư một cách
nghiêm ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch
toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý
nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao
hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra mà phải
trả lãi cho khoản tín dụng Nhà nước. Đây cũng là động lực mạnh mẽ tạo nên tư
duy làm ăn có hiệu quả, là yếu tố quan trọng trong việc động viên trí tuệ, sức lực
của toàn dân nhằm phát huy nội lực cho công cuộc xây dựng đất nước.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư đổi
mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh.

Khi được tiếp nhận nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước hoặc được bảo
lãnh hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, các doanh nghiệp thuộc đối tượng sẽ có cơ hội
mở rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị,
công nghệ, tăng qui mô phát triển sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ khuyến khích và lôi kéo các
thành phần kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở
hạ tầng thiết yếu cho sản xuất hoặc phát triển một số khâu nào đó của quá trình


sản xuất. Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy
đủ sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hoá được sản xuất ra nhiều hơn, đa
dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao, trình độ công nghệ,
năng suất lao động của xã hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm được một khoản
ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài vào, tạo điều
kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới với chất lượng đảm bảo, giá cả
hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài để thu ngoại tệ. Các dự án về cơ sở
hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao thông đường không, bộ, thuỷ,
khu công nghệ cao... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng làm tiền đề phát triển cho
các ngành kinh tế khác.
- Tín dụng ĐTPT của Nhà nước góp phần tạo việc làm cho người lao
động , giữ vững an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, việc giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan
trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước với
mục đích là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc
một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà
không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì sẽ không phát triển được, hoặc các
lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu quả kinh tế trực tiếp, do đó, khi thực
hiện đầu tư phát triển sản xuất tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn như: các tỉnh miền núi, biên giới hải đảo, vùng sâu,
vùng xa hoặc các ngành nghề thuộc diện khuyến khích ưu đãi đầu tư của Nhà

nước đối với các thành phần kinh tế, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản
xuất phát triển, tăng thu ngân sách, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế …..còn
góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giữ vững an ninh chính trị,
ổn định trật tự xã hội, như thông qua chương trình mía đường của Chính phủ,
ngoài ý nghĩa kinh tế góp phần không phải nhập khẩu thì đã tạo được việc làm
cho trên 470.000 nông dân ở các vùng nông thôn, miền núi trông mí để cung cấp
cho các Nhà máy đường; Chương trình đánh cá xa bờ của Chính phủ, ngoài ý
nghĩa kinh tế tạo ra hàng hoá xuất khẩu góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu
thu ngoại tệ về cho đát nước, còn có ý nghĩa về chính trị, đó là bảo vệ an ninh bờ
biển của nước ta, tạo ra công ăn việc làm cho trên 200.000 diêm dân tại các tỉnh
ven biển…
1.2.4. Đặc điểm của tín dụng ĐTPT của Nhà nước .
- Nguồn vốn để cho vay đầu tư là vốn của ngân sách, hoặc nguồn vốn huy
động theo kế hoạch của Nhà nước để phục vụ đầu tư theo chủ trương của Nhà
nước.


- Tổ chức làm nhiệm vụ quản lý và cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước là
hệ thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của Nhà nước, được thành lập và
hoạt động theo Nghi định của Chính phủ.
- Đối tượng cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là những dự án đầu
tư theo các chương trình, mục tiêu, định hướng và chủ trương đầu tư của Nhà
nước, theo chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm chuyển dịch cớ cấu kinh tế quốc dân
theo hướng đã được qui định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
- Chu kỳ cho vay thường dài, lãi suất cho vay của tín dụng ĐTPT của Nhà
nước là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, do Chính phủ quy định phù
hợp với chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời
kỳ.
1.2.5. Phân biệt tín dụng #TPT của Nhà nước với các hình thức tín
dụng khác

So với các hình thức tín dụng: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín
dụng quốc tế, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cũng hoạt động với nguyên
tắc vay trả. Tuy nhiên, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước với bản chất riêng
luôn có những đặc thù so với các loại hình tín dụng khác, cụ thể:
- Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước gắn với việc điều tiết kinh tế vĩ
mô theo chủ trương của Nhà nước.
- Đối tượng đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng #TPT của Nhà nước tập trung
vào các lĩnh vực then chốt, có tác động đến tăng trưởng kinh tế, m# các thành
phần kinh tế khác không đảm nhận được vì các lý do như mức độ sinh lời thấp,
nhu cầu vốn lớn, thời hạn đầu tư dài, ... nên thường phải gắn với những ưu đãi
nhất định. Chẳng hạn lãi suất thường thấp hơn lãi suất thị trường cùng kỳ, qui mô
cho vay lớn hơn và các điều kiện đảm bảo nợ vay với giá trị thường thấp hơn
khoản vay,…
- Tín dụng #TPT của Nhà nước có tính lịch sử, thường tồn tại và phát triển
trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước. Khi nền kinh tế thị trường phát
triển, các nhà đầu tư đã quen với hoạt động cạnh tranh….thì vai trò can thiệp, điều
tiết kinh tế của Nhà nước giảm, nên phạm vi tín dụng đầu tư của Nhà nước thu
hẹp lại để chuyển d#n sang tín dụng thương mại.
- Đối tượng cho vay của tín dụng #TPT của Nhà nước do Nhà nước xác
định và được bố trí thông qua kế hoạch đầu tư của Nhà nước.
1.2.6. Các nội dung chính trong quản lý tín dụng #TPT của Nhà nước


Hiện nay, hoạt động tín dụng #TPT của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị
định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/06/1999 của Chính phủ và quyết định số
133/2001/QĐ -TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
+Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được điều chỉnh bởi Nghị định
số 43/1999/NĐ-CP ngày 29.06.1999 của Chính phủ
* Mục đích tín dụng #TPT của Nhà n#íc nhằm hỗ trợ các dự án đầu tư phát
triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh

tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
* Nguyên tắc tín dụng Chỉ hỗ trợ cho những dự án đầu tư Nhà nước cần
khuyến khích, có hiệu quả kinh tế - xã hội, đảm bảo hoàn trả được vốn vay.
Một dự án có thể được hỗ trợ đồng thời bằng hai hình thức cho vay đầu tư
và bảo lãnh tín dụng đầu tư. Việc cho vay vốn đầu tư phải thực hiện đúng theo
mục tiêu và tiến độ đầu tư của dự án. Dự án # phải được Quỹ thẩm định phương
án trả nợ vốn vay và chấp thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư.
* Nguồn vốn tín dụng : Bao gồm các nguồn sau :
Vốn điều lệ của Quỹ; Vốn ngân sách Nhà nước cấp hàng năm;Vốn thu hồi
nợ hàng năm;Vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ; Vốn vay nợ, viện trợ nước
ngoài của Chính phủ dùng để cho vay lại;Vốn huy động như vay lại các Quỹ: Tích
lũy nước ngòai; Tiết kiệm bưu điện; Bảo hiểm xã hội hoặc huy động khác.
Nguồn vốn n#y được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu: Cho vay đầu tư, hỗ
trợ lãi suất sau đầu tư, thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng đầu tư, trả nợ vốn vay.
*Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển.
Tín dụng #TPT của Nhà nước được thực hiện thông qua các hình thức :
Cho vay trung dài hạn để đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư .

 Đối tượng cho vay đầu tư : Là các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu
hồi vốn trực tiếp (bao gồm cả dự án cho vay thành lập doanh nghiệp mới, cho vay
đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất ) của các thành phần kinh tế đầu tư
tại các vùng khó khăn theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi
hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) thuộc các ngành. Các dự án
có sử dụng vốn Hỗ trợ Phát triển chính thức (ODA) cho vay lại.Một số chương
trình, dự án đầu tư khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
 Điều kiện cho vay: Dự án phải thuộc đối tượng quy định, có đầy đủ thủ
tục đầu tư và xây dựng theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Chủ đầu tư là các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tổ
chức và họat động theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, sản xuất kinh



doanh có lãi, có phương án trả được nợ vay được Quỹ chấp nhận, thực hiện các
quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Nhà nước.
 Mức vốn cho vay: Mức vốn cho vay đối với các dự án đặc biệt: theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Mức vốn cho vay đối với các dự án thuộc
các chương trình phát triển kinh tế của Nhà nước: 85% - 100% tổng vốn đầu tư
của dự án. Mức vốn cho vay đối với các dự án khác: 50% - 70% tổng vốn đầu tư.
 Thời hạn cho vay : Tối đa 10 năm, trường hợp đặc biệt trên 10 năm.
 Lãi suất cho vay: Tại thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay là 5,4%/ năm.
Khi lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước tăng, giảm 10%, Thủ tướng Chính
phủ sẽ quyết định điều chỉnh.Một số dự án thuộc diện được ưu đãi đặc biệt, lãi
suất cho vay 3%/ năm và 0%/ năm. Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho
vay trong hạn ghi trong hợp đồng
 Đảm bảo tiền vay: Nếu chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước được dùng
tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo tiền vay. Nếu chủ đầu tư không phải là
doanh nghiệp Nhà nước, ngòai việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm
bảo tiền vay, phải có tài sản thế chấp trị giá tối thiểu bằng 50% mức vốn vay.
Những trường hợp đặc biệt do Thủ tướng quyết định.
 Rủi ro và xử lý rủi ro:
Các dự án vay vốn bị rủi ro do các nguyên nhân khách quan: -Do chính sách
Nhà nước thay đổi, do biến động của giá cả thị trường trong và ngoài nước ngoài dự
kiến đã tính toán trong dự án khả thi mà chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc trả nợ vay,
thì được xem xét gia hạn nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, khoanh nợ

-Do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ làm mất tài sản, được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền xác nhận mà chủ đầu tư không trả được nợ, thì sau khi đã
nhận được tiền bồi thường của cơ quan bảo hiểm (nếu có) được xem xét xoá một
phần hoặc toàn bộ nợ vay.
Các khoản bù đắp rủi ro nói trên được lấy từ quỹ dự phòng rủi ro. Quỹ dự
phòng rủi ro được trích 2% từ nguồn thu lãi cho vay hàng năm. Trường hợp quỹ

dự phòng rủi ro không đủ bù đắp thì Hội đồng quản lý Quỹ báo cáo Thủ tướng
Chính phủ xem xét, quyết định.
- Thẩm quyền xử lý rủi ro :Quỹ quyết định gia hạn nợ, miễn giảm lãi tiền
vay. Thủ tướng chính phủ quyết định khoanh nợ, xóa nợ trên cơ sở đề nghị của
Quỹ
 Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
 Đối tượng hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Là các dự án thuộc diện được hưởng
ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật


khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) do chủ đầu tư vay vốn của các tổ chức
tín dụng họat động hợp pháp tại Việt Nam để đầu tư, đã hoàn thành đưa vào sử
dụng và đã hoàn trả được vốn vay.
 Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : Mức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hàng năm
của dự án được tính bằng nợ gốc trong hạn thực trả trong năm nhân với 50% lãi
suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, nhân (x) với thời hạn thực vay đối
với nợ gốc được hỗ trợ lãi suất. Thời hạn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư tối đa bằng thời
hạn quy định đối với dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
 Hình thức bảo lãnh tín dụng đầu tư
 Đối tượng được bảo lãnh: Là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện
được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn
thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) nhưng không được hỗ trợ
lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới được vay một phần vốn tín dụng
#TPT Nhà nước.
 Mức bảo lãnh : Đối với các dự án đặc biệt thực hiện theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ. Đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, các
dự án nông nghiệp, mức bảo lãnh tối đa đến 100% số vốn vay từ các tổ chức tín
dụng. Đối với các dự án khác mức bảo lãnh từ 50% đến 80% trị giá khỏan vay.
 Thời hạn bảo lãnh: Phù hợp với thời hạn vay vốn trong hợp đồng tín dụng
đã ký giữa chủ đầu tư với tổ chức tín dụng cho vay thực hiện dự án.

 Điều kiện được bảo lãnh :Đã được tổ chức tín dụng thẩm định cho vay và
có văn bản yêu cầu bảo lãnh. Được Quỹ Hỗ trợ Phát triển chấp thuận phương án
tài chính, phương án trả nợ vốn vay và phải có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh.
 Phí bảo lãnh : 0,5%/năm tính trên số tiền đang bảo lãnh. Đối với các dự
án sản xuất hàng xuất khẩu : 0,3%/ năm tính trên số tiền đang bảo lãnh.
+ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu theo quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày
10.09.2001 của Thủ tướng Chính phủ
Tín dụng ng#n h#n hỗ trợ xuất khẩu là ưu đãi của Nhà nước nhằm hỗ trợ
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân phát triển sản xuất hàng xuất
khẩu theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước.
Hình thức tín dụng ngắn hạn được quy định theo các nội dung chủ yếu sau:
 Đối tượng được vay vốn ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu là các đơn vị thực
hiện xuất khẩu hàng hóa, gồm các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh các mặt
hàng thuộc chương trình ưu tiên khuyến khích xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ
quy định hàng năm hoặc trong từng thời kỳ.


 Lãi suất cho vay:Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng 80% lãi suất tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng và được giữ cố định
trong suốt thời hạn vay vốn. Hiện nay đang áp dụng mức lãi suất 0,36%/ tháng.Lãi
suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất nợ trong hạn.
 Thời hạn cho vay: Tùy thuộc nhu cầu sử dụng vốn để thực hiện hợp đồng
xuất khẩu nhưng tối đa không quá 12 tháng. Trường hợp cho vay xuất khẩu hàng
trả chậm đến 720 ngày thực hiện theo danh mục mặt hàng do Thủ tướng Chính
phủ quy định.
 Hình thức cho vay: Có hai hình thức cho vay: Cho vay trước khi giao
hàng: theo hợp đồng xuất khẩu hoặc theo L/C, hoặc cho vay sau khi giao hàng:
cho vay theo bộ chứng từ hợp lệ.
 Mức vốn cho vay: Tối đa 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu, 80% trị giá
L/C hoặc 90% giá trị bộ chứng từ hàng xuất.

1.2.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng #TPT của Nhà nước.
+ Các nhân tố về môi trường chính trị , pháp lý, kinh tế - xã hội.
-Môi trường chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của bất
kỳ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn
định, thì không chỉ riêng doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh mà bản thân tổ chức
cho vay cũng khó có thể tập trung vào đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh và
trong điều kiện như vậy việc duy trì sự phát triển như cũ đã là khó chứ chưa nói
đến việc mở rộng. Hơn nữa sự bất ổn về chính trị sẽ dẫn đến sự mất lòng tin đầu
tư của dân chúng cũng như các chủ doanh nghiệp trong và ngoài nước. Khả năng
huy động vốn khó khăn, vì vậy nguồn vốn cho đầu tư phát triển cũng sẽ bị hạn
chế.
-Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ có tác
dụng rất lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước, pháp luật đã trở thành bộ phận không thể thiếu.
Một hệ thống pháp luật đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ trước hết sẽ tạo niềm
tin được bảo hộ chính đáng trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp
cũng như tổ chức tín dụng hoạt động được thuận lợi.

-Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hòa các mối quan hệ về kinh tế - xã hội
tác động lên hoạt động của doanh nghiệp, # chính là các cơ chế chính sách của
Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
nhằm đạt được những mục tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế ổn định
sẽ tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt
động tín dụng sẽ thuận lợi hơn. Nền kinh tế ổn định tăng trưởng tốt thì có nghĩa là


đầu tư sẽ tăng, đồng thời với nó là hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao
và có khả năng hoàn trả được vốn vay.
+Các nhân tố về tổ chức quản lý tín dụng #TPT của Nhà nước.


- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng: Năng lực thẩm định trước khi
cho vay: đây là yếu tố đảm bảo chất lượng của khoản vay và dự án. Năng lực
thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp,
việc dự đoán tượng lai hoạt động, khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất
lượng tín dụng càng lớn.
Theo dõi chặt chẽ tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm bảo cho việc sử dụng
vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi. Nâng cao năng lực giám
sát và xử lý tín dụng cũng chính là biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng

-Tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và qui trình nghiệp vụ: Quy định r về
quyền hạn và trách nhiệm của từng khâu, từng bộ phận s c t#c dơng lín trong c#c
mối quan hệ của từng bộ phận trong quá trình quản lý từ khâu thẩm định đến khi
thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi hết nợ, gp ph#n nâng cao chất lượng tín
dụng, hạn chế tình trạng lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong tín dụng.
Quy trình nghiệp vụ khoa học, quy định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân
từng bộ phận sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho
vay, giảm yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất lượng tín
dụng.

+ Các nhân tố về phía tổ chức hưởng hỗ trợ t#n dơng #TPT cđa Nh# n#íc.
- Năng lực sản xuất của doanh nghiệp: Năng lực sản xuất của doanh nghiệp
biểu hiện giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố định : Biểu hiện cụ
thể là quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất, đầu tư trước đây có kết
quả như thế nào.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp:Năng lực tài chính của doanh nghiệp
thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng số nguồn vốn sử
dụng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng các điều
kiện tín dụng càng lớn thì càng có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.
- Khả năng tổ chức, quản lý của doanh nghiệp:Doanh nghiệp vay vốn phải
có bộ máy có năng lực quản lý phù hợp. Năng lực quản lý còn thể hiện ở tổ

chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các qui định của
pháp luật.
- Sự đáp ứng của dự án với điều kiện t#n dơng #TPT cđa Nh# n#íc: Dự án
đầu tư phải thuộc đối tượng cần được khuyến khích đầu tư theo qui định của Nhà
nước. Dự án phải chứng minh được sự cần thiết, mục đích, kết quả của đầu tư. Sự
phù hợp của quá trình đầu tư với qui hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.


Chủ đầu tư phải có đủ vốn tự có tham gia đầu tư theo tỷ lệ qui định, có khả năng
hoàn trả nợ từ bản thân dự án và từ các khoản thu nhập hợp pháp khác của doanh
nghiệp.
1.3/ Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ hTPT.

1.3.1- Tổ chức bộ máy của và các hoạt động của Quỹ HTPT.
Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) là một tổ chức tài chính Nhà nước, được
Chính phủ thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ-CP ngày 6/7/1999 để thực
hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước thông qua một số hoạt động
như cho vay, thu nợ các dự án đầu tư; bảo lãnh vay vốn đối với các chủ đầu tư; tái
bảo lãnh và nhận tái bảo lãnh đối với các quỹ đầu tư; hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối
với các dự án ưu đãi của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực,
chương trình kinh tế lớn của Nhà nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích
đầu tư... Hoạt động của Quỹ không vì mục đích lợi nhuận, nhưng phải bảo đảm
hoàn vốn và bù đắp chi phí. Quỹ được miễn nộp thuế và các khoản nộp ngân sách
nhà nước để giảm lãi suất cho vay và giảm phí bảo lãnh. Quỹ HTPT được NSNN
Nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất, bố trí vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, được bù
đắp rủi ro do nguyên nhân khách quan khi thực hiện cho vay đầu tư và bảo lãnh
tín dụng đầu tư. Đồng thời, với tính chất cho vay ưu đãi, hoạt động cho vay đầu tư
của Quỹ luôn có lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay thương mại trên thị trường.
Trong trường hợp lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động, Quỹ được Nhà
nước cấp bù chênh lệch lãi suất. Đây là điểm hết sức khác biệt so với các tổ chức

tín dụng khác. Như vậy, hoạt động cơ bản của Quỹ HTPT là hoạt động tín dụng,
một trong những nội dung của tín dụng nhà nước.
1.3.2/-Quan điểm về hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT
Theo Từ điển Tiếng Việt, "Hiệu quả là kết quả như yêu cầu của việc làm
mang lại". Đây là khái niệm chung nhất về hiệu quả. Vậy, trong trường hợp cụ thể
đối với hoạt động tín dụng của Quỹ thì hiệu quả được hiểu như thế nào?
Hoạt động tín dụng của Quỹ được xem là có hiệu quả khi nó mang lại hiệu
quả kinh tế-xã hội cho cả Quỹ, các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và cả
nền kinh tế quốc dân. Nghĩa là, bên cho vay, trong đó có Quỹ thu được nợ gốc và
lãi trong khoảng thời gian trong hạn. Còn đối với khách hàng vay vốn, nhờ có vốn
tín dụng được vay đã góp phần làm cho họ sản xuất kinh doanh có lãi, làm cho họ
thực hiện được chức năng vốn có của mình và đối với nền kinh tế quốc dân,
khoản tín dụng đó phải có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.


Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là việc Quỹ HTPT
cùng các đối tượng khác trong quan hệ tín dụng và các cơ quan chức năng chủ
động tìm ra giải pháp để bên cho vay hạn chế tới mức thấp nhất nợ quá hạn phát
sinh; bên đi vay vốn sản xuất kinh doanh sử dụng vốn vay có hiệu quả, có lợi
nhuận càng cao càng tốt và hoạt động của Quỹ HTPT sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.3.3/-Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ
HTPT
Muốn tăng trưởng kinh tế thì phải huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư
phát triển. Tín dụng trung dài hạn nói chung và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước nói riêng là một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Quỹ HTPT, với tư cách là đầu mối trung tâm tiếp nhận, huy động, quản lý và
thực hiện nguồn vốn này, có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế
của đất nước.

Thứ nhất: Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thông qua hoạt động, Quỹ hỗ trợ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát
triển sản xuất thuộc các ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế lớn của Nhà nước
và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư.
Khi một dự án đầu tư đi vào hoạt động với máy móc được trang bị đầy đủ
sẽ làm cho năng lực sản xuất tăng lên, hàng hoá được sản xuất ra nhiều hơn, đa
dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao. Do đó, nhu cầu tiêu
dùng của xã hội sẽ tăng lên. Nếu các dự án đầu tư vào sản xuất máy móc, thiết bị
phục vụ cho sản xuất có hiệu quả, trình độ công nghệ, năng suất lao động của xã
hội được nâng lên. Từ đó sẽ tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải
nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài vào. Nếu đầu tư vào công nghệ sản xuất
hàng tiêu dùng sẽ tạo điều kiện để người tiêu dùng tiếp cận với sản phẩm mới với
chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý và xa hơn thế xuất khẩu ra nước ngoài để thu
ngoại tệ.
Các dự án về cơ sở hạ tầng như: thông tin liên lạc, các công trình giao
thông đường không, bộ, thuỷ, khu công nghệ... có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
làm tiền đề phát triển cho các ngành kinh tế khác.
Thứ hai: Thúc đẩy phát triển kim ngạch xuất khẩu
Đối với những nước đang phát triển, nếu kim ngạch xuất khẩu tăng lên,
hàng hoá đứng vững được trên thị trường quốc tế với thị phần ổn định sẽ khẳng
định: sản phẩm có sức cạnh tranh cao, máy móc thiết bị, trình độ công nghệ đã
được quan tâm đúng mức. Quy chế tín dụng xuất khẩu mới mở ra theo đó khuyến


khích đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu không kể trung, dài hay
ngắn hạn và ngành nghề. Đây thực sự là một kích thích tố mạnh mẽ nhằm tăng
kim ngạch xuất. Như vậy, hoạt động của Quỹ HTPT là một trong những nhân tố
thúc đẩy xuất khẩu của nước nhà.
Thứ ba: Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
Với đặc điểm hạn chế về đối tượng được hưởng ưu đãi theo quy định hiện

hành của Chính phủ, thông qua các hoạt động của mình, Quỹ có thể tập trung cho
vay phát triển ngành này, hay ngành khác. Điều đó, có nghĩa là khuyến khích và
thúc đẩy lĩnh vực, ngành đó phát triển hơn so với các ngành khác. Như vậy, hoạt
động của Quỹ có tác động đối với các ngành kinh tế và góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nội dung cơ bản
của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước ta là đặc biệt quan tâm tới công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động
kinh tế đối ngoại; Nâng cấp cải tạo và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng
kinh tế; Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành
trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách phải có điều kiện về vốn, công nghệ, thị
trường, phát huy tác dụng nhanh và hiệu quả.
Thứ tư: Tạo thêm việc làm cho người lao động
Giải quyết việc làm là vấn đề hết sức quan trọng mà bất cứ Nhà nước nào
trên thế giới đều rất quan tâm. Một trong những ưu tiên của Quỹ là các dự án đầu
tư tạo thêm được nhiều việc làm mới. Khi thực hiện đầu tư phát triển sản xuất,
ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế là thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế... còn tạo việc làm cho người lao động, góp phần ổn định xã hội.
1.3.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của
Quỹ HTPT:
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ
HTPT. Tuy nhiên, những nhân tố cơ bản, quan trọng và tác động mạnh mẽ, trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ bao gồm: Năng lực quản lý của
người lãnh đạo Quỹ, chính sách lãi suất của Nhà nước, năng lực giám sát và thẩm
định của đội ngũ cán bộ thuộc Quỹ và tổ chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ.
- Yếu tố con người, tổ chức, chính sách luôn luôn có tầm quan trọng đặc
biệt. Năng lực quản lý của người lãnh đạo có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt
động của Quỹ. Nếu năng lực của người lãnh đạo yếu, bộ máy tổ chức không hợp
lý, các sách lược kinh doanh không phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thì các hoạt động của Quỹ, mà chủ yếu là hoạt động tín
dụng có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả và ngược lại.



- Quỹ HTPT là một tổ chức tài chính, mục tiêu của Quỹ không vì mục đích
lơị nhuận. Song, Quỹ HTPT vẫn phải bảo tồn được vốn của mình khi cho vay đầu
tư, để có nguồn vốn tái đầu tư và cũng hạn chế sự bao cấp của nhà nước. Vì vậy,
lãi suất là yếu tố quan trọng không chỉ đối với hoạt động của Quỹ mà còn giúp
chủ thể vay vốn sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. Lãi suất của Quỹ do Nhà nước
quy định thường thấp hơn so với lãi suất Ngân hàng. Trong những trường hợp thị
trường biến động, sự chênh lệch giữa lãi suất cho vay ưu đãi và lãi suất cho vay
thương mại là rất lớn hoặc không đáng kể. Nếu chính sách lãi suất của Nhà nước
không được điều chỉnh kịp thời thì hoạt động của Quỹ sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.
Các khách hàng có thể sẽ tìm đến với các ngân hàng thương mại khi sự chênh lệch
đó là ít mặc dù họ được ưu đãi về vay vốn đầu tư thay vì đến với Quỹ. Hoặc có
thể họ sẽ tập trung tới Quỹ, khi đó Quỹ sẽ khó có khả năng đáp ứng kịp thời. Do
vậy, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ hỗ trợ sẽ thấp.
- Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng của Quỹ HTPT:
Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng là yếu tố quyết định đảm bảo hiệu
quả của khoản vay và dự án. Nếu năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch
trong việc cung cấp thông tin của khách hàng cũng như khả năng sử dụng vốn vay
của khách hàng. Năng lực thẩm định của cán bộ tín dụng thể hiện ở năng lực
phân tích tài chính và xử lý các thông tin tín dụng. Nếu thiếu khả năng này, tổn
thất trong hoạt động tín dụng sẽ không tránh khỏi. Do đó, hiệu quả hoạt động tín
dụng của Qũy HTPT sẽ thấp.
Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín
dụng như ban đầu dự đoán, hạn chế xẩy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo
dõi sát sao và chặt chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng
để đảm bảo việc sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ
khó đòi.



- Tổ chức bộ máy và qui trình nghiệp vụ: Hoạt động của Quỹ HTPT có
triển khai được thuận lợi và có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức
bộ máy và quy trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng
khâu, từng bộ phận, mối quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng quan trọng
trong quá trình thực hiện từ thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu
hồi vốn (gốc+lãi). Quy trình quản lý tín dụng được bố trí khoa học, rõ ràng sẽ góp
phần quan trọng làm nâng cao chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho
vay, giảm các yếu tố sai lệch thông tin và là cơ sở quan trọng để nâng cao chất
lượng tín dụng. Từ đó nâng cao được hiệu quả hoạt động của Quỹ HTPT.
1.3.5-Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của
Quỹ HTPT.
*-Các chỉ tiêu định tính
Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện qua khả năng
thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp đồng tín
dụng đối với Quỹ HTPT ; khả năng sản xuất kinh doanh của các khách hàng vay
vốn từ Quỹ và tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, về
mặt định tính, chất lượng hoạt động tín dụng được đánh giá qua các mặt sau:
-Thứ nhất: Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT được thể hiện ở
khả năng thu được nợ gốc và lãi trong khoảng thời gian đã quy định trong hợp
đồng tín dụng. Nghĩa là, hoạt động tín dụng phải bảo đảm để Quỹ HTPT thực hiện
được chức năng mà Nhà nước đã giao, đồng thời phải mang lại thu nhập cho Quỹ
HTPT đủ để trang trải các khoản chi phí liên quan và hạn chế thấp nhất nguy cơ
rủi ro (không thu hồi được vốn cho vay hoặc thu hồi chậm,).
Hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT còn thể hiện ở khả năng đáp
ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Nói một cách khác, đối với bên đi vay thì điều
này trước hết biểu hiện ở chỗ thủ tục đơn giản, thuận tiện (tuy nhiên, vẫn phải bảo
đảm những nguyên tắc an toàn cần thiết và theo những quy trình nhất định), cung
cấp vốn đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời. Qua đó, bên đi vay sẽ tiết kiệm được các
chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian và nhất là sẽ không bỏ lỡ những cơ hội sản
xuất kinh doanh tốt.

-Thứ hai: Khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả của bên đi vay. Nói một
cách khác, bên đi vay sử dụng vốn vay được từ Quỹ HTPT phục vụ tốt hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như mục tiêu khi đi vay đề ra.
-Thứ ba: Đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của vùng, địa
phương và cả nước. Đây là hệ quả tất yếu đạt được khi cả bên đi vay và Quỹ đều
hoạt động tốt. Nó được biểu hiện ở chỗ, hoạt động của Quỹ sẽ đóng góp vào việc


tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển , thúc đẩy phát
triển kim ngạch xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo chủ trương, định hướng và chỉ đạo của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống
người dân.
Nhìn chung, hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một chỉ tiêu rất
tổng hợp, được đánh giá trên quan điểm của cả ba đối tượng: Quỹ HTPT , khách
hàng vay vốn của Quỹ và nền kinh tế-xã hội. Các chỉ tiêu định tính chỉ là những
căn cứ đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT một cách khái quát.
Muốn có những kết luận chính xác hơn, cần phải dựa vào một hệ thống các chỉ
tiêu định lượng cụ thể liên quan đến Quỹ. Riêng nhân tố kinh tế- xã hội rất khó có
các chỉ tiêu định lượng để đo lường tác động cụ thể đối với từng hoạt động tín
dụng của Quỹ HTPT đến sự phát triển chung đối với phát triển kinh tế của đât
nước.Đồng thời, do nhân tố bên đi vay của Quỹ cũng rất đa dạng như các doanh
nghiệp, các dự án, các chương trình mục tiêu nên cũng rất khó đưa ra được các
chỉ tiêu định lượng cụ thể chung cho đối tượng này. Do đó, tuỳ từng trường hợp
cụ thể mà người ta có thể đánh giá hiệu quả kinh tế trên cả hai mặt định tính và
định lượng. Đôi khi chỉ đánh giá trên các khía cạnh ở tầm vĩ mô.
*- Các chỉ tiêu định lượng:
-Doanh số và tốc độ tăng doanh số: Doanh số cho vay là số tiền mà Quỹ
cho các khách hàng vay. Tốc độ tăng doanh số cho vay được thể hiện qua công
thức:

Doanh số cho vay kỳ này
Tốc độ tăng doanh số = (
-1)*100
Doanh số cho vay kỳ trước
Doanh số cho vay thể hiện quy mô tuyệt đối của hoạt động tín dụng, còn
tốc độ tăng doanh số thể hiện khả năng mở rộng quy mô và hình thức cho vay qua
các thời kỳ. Doanh số cho vay lớn và tốc độ cho vay tăng nhanh cho thấy khả
năng mở rộng tín dụng của Quỹ. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, đó mới chỉ là
điều kiện chứ chưa thể khẳng định hiệu quả tín dụng của Quỹ mà cần phải kết hợp
nghiên cứu, phân tích các chỉ tiêu khác.
-Tổng vốn huy động: đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô số vốn mà Quỹ huy
động từ các nguồn: ngân sách, vay nợ nước ngoài,... trong một khoảng thời gian
nhất định. Chỉ tiêu này biểu hiện khả năng cho vay của Quỹ. Nếu tổng vốn huy
động cao, khả năng cho vay lớn và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết
hợp với các chỉ tiêu định lượng khác để đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của.


Chẳng hạn, nếu tổng vốn huy động của Quỹ, trong khi doanh số cho vay nhỏ, tốc
độ tăng doanh số cho vay chậm thì hiệu quả hoạt động của Quỹ không cao.
-Hiệu suất sử dụng vốn:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn=
* 100
Tổng nguồn vốn
Hiệu suất sử dụng vốn nói lên khả năng cho vay vốn so với tổng nguồn vốn
của Quỹ. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của Qũy có thể
ngày càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần kết hợp với các chỉ tiêu
khác để đánh giá một cách tổng quát, không chỉ dựa trên cơ sở chỉ tiêu trên để
đánh giá hiệu quả tín dụng của Quỹ. Bởi vì, đánh giá như vậy là phiến diện, sẽ dễ
dẫn đến đánh giá sai. Chẳng hạn, tỷ nợ quá hạn cao trong khi hiệu suất sử dụng

vốn cũng cao thì hiệu quả hoạt động tín dụng của Qũy hỗ trợ phát triển chưa chắc
đã cao, thậm chí còn thấp.
-Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
* 100
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh khái quát về tình hình nợ quá hạn của Quỹ trong quá
trình cho vay. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả hoạt động của Quỹ càng tốt và
ngược lại. Bởi vì, chỉ tiêu này cao sẽ chứng tỏ Quỹ đang gặp nhiều rủi ro. Tuy
nhiên, trong thực tế, do những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt
động tín dụng của Quỹ là không thể thể tránh khỏi. Vì vậy, chấp nhận một tỷ lệ nợ
quá hạn nhất định được coi như giới hạn an toàn. Theo khuyến nghị của Ngân
hàng Thế giới, tỷ lệ này nên ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được.
Hoạt động tín dụng của Quỹ HTPT là một hoạt động tín dụng chính sách
cho đầu tư phát triển, không vì mục đích lợi nhuận, hoạt động của Quỹ chủ yếu
hoạt động và tổ chức thực hiện cho vay đầu tư theo định hướng và chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của đất
nước trong từng thời kỳ, hàng năm , vì mục đích tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã
được quy định rõ: tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm hỗ trợ các dự án đầu tư
phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng,
chương trình kinh tế lớn, các lĩnh vực mà không có sự ưu đãi đầu tư của Nhà nước
thì sẽ không phát triển được, hoặc các lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà ít có hiệu
quả kinh tế trực tiếp, nên hiệu quả hoạt động tín dụng của Quỹ là một khái niệm
tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trìu tượng, nó được biểu hiện qua


×