Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam – chi nhánh hà thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.21 KB, 112 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Trong đó Ngân
hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị
phần và số lượng các ngân hàng. Với tư cách là trung gian tài chính, hệ
thống Ngân hàng thương mại đã thực hiện tốt vài trò là kênh dẫn vốn chủ
đạo, giữ vị trí huyết mạch trong nền kinh tế quốc dân. Kinh doanh ngân
hàng là hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi
suất, rủi ro hối đoái, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong
giao dịch...Để giảm thiểu tối đa những rủi ro trong quá trình kinh doanh,
các ngân hàng thương mại thường xây dựng cho mình hệ thống kiểm
soát nội bộ.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Thành là một trong
những chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt Nam.
Trong những năm vừa qua, Chi nhánh đã có những bước phát triển và
lớn mạnh không ngừng. Hiện nay, Chi nhánh đã vươn lên là một trong
những chi nhánh hoạt động hiệu quả nhất trong toàn hệ thống, vị thế và
uy tín ngày càng được nâng cao. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân
hàng làm việc không ngừng để ngăn chặn những rủi ro hiện có cũng như
những rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động kinh doanh
của mình, hệ thống kiểm soát nội bộ của chi nhánh còn nhiều bất cập. Vì
vậy, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ đang là một trong những vấn
đề cấp bách đối với Chi nhánh trong thời điểm hiện nay.
Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hệ thống kiểm soát
nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà
Thành”.



2
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu lý luận: Hệ thống hóa các vấn đề chung về hệ thống kiểm
soát nội bộ trong ngân hàng. (Mục tiêu, nội dung, các điều kiện để thực hiện
công tác kiểm soát nội bộ trong kinh doanh ngân hàng có hiệu quả)
- Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại
ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống kiểm soát nội bộ trong hệ thống quản
lý của ngân hàng
- Khách thể nghiên cứu: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam- Chi
nhánh Hà Thành.
- Nghiên cứu khảo sát thực nghiệm theo dữ liệu từ phòng kế toán,
phòng quản lý rủi ro, phòng DVKHDN, phòng DVKH cá nhân, các phòng,
điểm giao dịch tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam- Chi nhánh Hà
Thành từ góc độ tổng thể thực tiễn hiện tại và qua một số thời kỳ lịch sử…
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở khoa học để nghiên cứu đề tài là phép biện chứng duy vật.
Nghiên cứu việc vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng ... nằm
trong tổng thể điều hành các chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam, dựa trên
đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
- Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học
kinh tế chính trị, có sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương
pháp logic, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp phân tích đối
chiếu, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp chuyên gia cùng các
bảng biểu, đồ thị để minh họa khi đánh giá thực trạng hệ thống kiểm soát nội
bộ tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Thành, từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ tại



3
Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam Chi nhánh Hà Thành.
5. Bố cục nội dung gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hệ thống kiểm soát nội bộ trong
các ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt nam – Chi nhánh Hà Thành.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt nam – Chi nhánh Hà Thành


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT
NỘI BỘ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động kinh doanh của NHTM và các loại rủi ro kinh doanh
1.1.1 Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) đã được hình thành, tồn tại và phát
triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng hóa
ngày càng phát triển càng là nguyên nhân cũng như động lực để các ngân
hàng thương mại phát triển. Trong khi nền sản xuất hàng hóa sản xuất ra của
cải vật chất thì Ngân hàng thương mại cung ứng các sản phẩm dịch vụ về tài
sản, về vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất hàng hóa, tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm quốc dân.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện

đại: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước CHXHCN Việt Nam thì
“NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”. Sau nhiều năm phát triển và ngày càng mở rộng hoạt động sang nhiều
lĩnh vực, hiện nay phần lớn các NHTM có xu hướng trở thành những ngân
hàng đa năng (vì tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi
ro).
Vai trò của ngân hàng thương mại được thể hiện ở chức năng cơ bản.
NHTM là một trong các trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế


5
với hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư. NHTM chuyển
hóa những khoản tiết kiệm, tài sản chưa sử dụng của một bộ phận khách hàng
này đến tay những bộ phận khách hàng khác đang cần sử dụng vốn để sản
xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. NHTM tập trung và huy động vốn bằng cách
tập trung và huy động vốn bằng cách nhận tiền gửi của dân cư hoặc các tổ
chức kinh tế cũng như các định chế tài chính. Với số vốn huy động được
NHTM tiến hành cung ứng vốn cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu vay vốn
sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng.
Bên cạnh chức năng đóng vai trò trung gian tài chính của nền kinh tế,
NHTM còn là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa, dịch vụ giữa
các khách hàng với nhau. Các hình thức thanh toán qua ngân hàng ngày càng
đa dạng về số lượng cũng như nâng cao chất lượng như thanh toán bằng ủy

nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thanh toán séc tiền mặt cũng như chuyển khoản,
thanh toán quốc tế, cũng như các loại sản phẩm dịch vụ thanh toán thẻ hiện
đại… đã đáp ứng nhanh chóng, thuận tiện và an toàn nhu cầu thanh toán hàng
hóa dịch vụ của dân cư cúng như các tổ chức, doanh nghiệp…..
Trong nền kinh tế hàng hóa thị trường, các NHTM hoạt động có hiệu
quả đã đang và sẽ mãi là một trong các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua viêc huy động và cung ứng tín dụng cho các thành phần kinh tế,
các ngành kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp phân
chia vốn của thị trường, thực hiện đúng phương châm: “ Nhà nước điều tiết
ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn liền với các nghiệp vụ chủ
yếu sau: Hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động
trung gian.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động hình thành nên nguồn vốn hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn hoạt động của NHTM gồm hai
phần: vốn tự có và vốn nợ.


6
+ Vốn nợ được đóng góp chủ yếu từ nguồn tiền gửi, chiếm hơn 75%
toàn bộ tài sản nợ của NHTM. Để có thể huy động được vốn tiền gửi, các
NHTM thực hiện các hình thức huy động vốn khác nhau như tiền gửi thanh
toán, tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn của dân cư, các tổ chức kinh
tế, doanh nghiệp, các ngân hàng, tổ chức tín dụng hay các định chế tài chính.
Trong đó vốn huy động từ tiền gửi thanh toán của dân cư, cũng như các tổ
chức, kinh tế là nguồn vốn giá rẻ nhất huy động được của ngân hàng thương
mại. Các nguồn vốn nợ khác gồm có các vốn vay trên thị trường liên ngân
hàng, vốn phát hành chứng chỉ tiền gửi, vốn vay chiết khấu, tái chiết khấu của
ngân hàng trung ương.
+Nguồn vốn tự có của NHTM là tài sản thực tế của ngân hàng. Số vốn

này được tính bằng tổng tài sản có trừ đi tổng tài sản nợ. Vốn tự có là vốn
riêng do các chủ sở hữu đóng góp, vốn được tạo ra trong quá trình sản xuất
kinh doanh, đó là lợi nhuận được giữ lại để bổ sung nguồn vốn kinh doanh
của ngân hàng. Vốn tự có cuả NHTM gồm hai bộ phận: Vốn cơ bản và vốn bổ
sung. Vốn cơ bản gồm có vốn cổ phần thường, vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn,
các quỹ dự trữ, lợi nhuận không chia được giữ lại và các khoản khác. Vốn bổ
sung gồm có vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, trái phiếu được chuyển đổi và
các khoản vay dài hạn được nhà nước cấp. Vốn là điều kiện pháp lý, là yếu tố
tài chính quan trọng trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Đó
là lý do chứng minh rằng quy mô vốn quyết định đến quy mô huy động vốn
và quy mô tài sản có.
Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động sử dụng các nguồn vốn đã hình
thành của ngân hàng. Đây là hoạt động chính, chủ yếu và là hoạt động mang
lại nguồn thu nhập lớn đóng góp vào phàn lợi nhuận trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn bao gồm các nghiệp vụ chủ yếu
sau: nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, nghiệp vụ cho vay (hoạt động tín dụng) và
nghiệp vụ đầu tư.


7
+ Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt là nghiệp vụ đảm bảo khả năng thanh toán
của ngân hàng đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt và thanh toán của khách hàng.
Nhu cầu dự trữ tiền mặt phụ thuộc vào môi trường, thời vụ và nhu cầu thanh
khoản của khách hàng. Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt hay còn gọi là nghiệp vụ
ngân quỹ bao gồm tiền mặt tại kho của ngân hàng, tiền mặt ký gửi tại ngân
hàng trung ương và tiền gửi tại các NHTM và NHTM khác.
+Nghiệp vụ cho vay hay còn gọi là nghiệp vụ tín dụng là hoạt động
kinh doanh chính của NHTM. Nghiệp vụ này mang lại nhiều nguồn lợi nhuận
cho ngân hàng từ lãi cho vay, phi chuyển khoản thu được từ hoạt động cho
vay. Chính tiền lãi thu được từ hoạt động tín dụng mới đủ lớn để trang trải bù

đắp được các chi phí về lãi suất tiền gửi huy động, chi phí kinh doanh, các
khoản thuế phải nộp và đặc biệt là bù đắp những thiệt hại do bên vay vốn
không có khả năng trả được nợ.
+ Nghiệp vụ đầu tư là một trong các hoạt động sử dụng vốn của ngân
hàng thương mại nhằm đa dạng hóa nguồn lợi nhuận thu được của NHTM.
Ngân hàng có thể đầu tư vào các lĩnh vực như bất động sản, thị trường chứng
khoán. Nghiệp vụ này ngày càng được các ngân hàng thương mại quan tâm
chú ý đến, đặc biệt trong giai đoạn phát triển hiện nay của thị trường chứng
khoán
Hoạt động trung gian hay là các dịch vụ ngân hàng là những nghiệp vụ
mà ngân hàng thực hiện theo sự ủy nhiệm của khách hàng để hưởng hoa
hồng. Nghiệp vụ này bao gồm các nghiệp vụ như: thanh toán qua ngân hàng
làm trung gian thanh toán, dịch vụ đại lý, ủy thác, dịch vụ tư vấn tài chính,
kinh doanh ngoại tệ, chuyển tiền thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, các
nghiệp vụ về thẻ nội địa cũng như thẻ quốc tế….. Với sự phát triển vượt trội
trong hoạt động kinh tế tài chính hiện nay, các hoạt động dịch vụ ngân hàng
ngày càng phát triển đa dạng hóa cả về số lượng cũng như chất lượng dịch vụ.
Thu nhập từ hoạt động này đang dần đóng góp phần không nhỏ và giữ vị trí
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.


8
1.1.2 Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Trong nền kinh tế hiện nay, một trong những nguyên nhân chính gây ra
những cuộc khủng hoảng kinh tế là do sự yếu kém của hệ thống ngân hàng.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế, đòi hỏi các
ngân hàng phải chủ động trong mọi tình huống, dự báo, dự đoán được khả
năng xảy ra và định lượng rủi ro. Từ đó có biện pháp phòng ngừa hạn chế
thấp nhất tác động của rủi ro. Các NHTM luôn phải đối mặt với nhiều loại rủi
ro có thể phát sinh trong suốt quá trình hoạt động, ở tất cả các khâu, các lĩnh

vực hoạt động. Kinh nghiệm cho thấy không phải việc tránh né rủi ro mà
chính là việc chấp nhận rủi ro mới là điều kiện cần thiết để đạt được kết quả
hoạt động tốt dựa trên cơ sở quản lý rủi ro hiệu quả.
Để đáp ứng mục tiêu quản lý rủi ro, chúng ta có thể phân loại rủi ro thành
các loại cơ bản: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh
khoản, rủi ro danh tiếng.
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng tổn thất khi một đối tác không thực hiện một
nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đối với một NHTM, bao gồm
cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đấy là nợ gốc hay nợ lãi khi
khoản nợ đến hạn. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản làm phát sinh rủi
ro tín dụng. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng cũng phát sinh từ các hoạt động kinh
doanh khác của NHTM như trong danh mục đầu tư tín dụng, danh mục hoạt
động kinh doanh tiền tệ, các giao dịch ngoại bảng và các hoạt động đầu tư
khác.
Theo quy định tại Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của NHTM
ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc NHNN, “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của NHTM là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của NHTM do khách


9
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
1.1.2.2 Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường được định nghĩa khái quát như sau: là rủi ro nảy sinh từ
sự mất ổn định liên quan tới những thay đổi về giá cả thị trường, tỷ giá và lãi
suất (bao gồm lãi suất, giá chứng khoán, tỷ giá hối đoái, và giá hàng hoá), sự
tương quan giữa chúng và mức độ biến động. Như vậy, rủi ro thị trường gồm

rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro chứng khoán và rủi ro hàng hoá.
1.1.2.3 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là tác động bất lợi tiềm ẩn ảnh hưởng tới lợi nhuận và
giá trị kinh tế của một NHTM do các thay đổi về lãi suất. Nguyên nhân rủi ro
lãi suất chủ yếu mà NHTM phải đối diện là rủi ro do có độ lệch lãi suất, rủi ro
về biên độ lãi suất tín dụng, rủi ro lãi suất cơ bản và rủi ro quyền chọn.
Rủi ro độ lệch lãi suất phát sinh khi có những chênh lệch trên số
lượng tài sản Có, tài sản Nợ và các tài sản ngoại bảng đáo hạn hay được định
giá lại cho một kỳ hạn định trước theo thoả thuận với khách hàng.
Rủi ro về biên độ lãi suất tín dụng xảy ra khi có thay đổi về biên độ
lãi suất tín dụng do thay đổi quan niệm, nhìn nhận của thị trường về chất
lượng tín dụng và tính thanh khoản ở cấp độ chung hay ở một khía cạnh cụ
thể.
Rủi ro lãi suất cơ bản phát sinh khi các chỉ số định giá lãi suất chuẩn
mà NHTM sử dụng để định giá sản phẩm thay đổi.
Rủi ro quyền chọn phát sinh từ ảnh hưởng của biến động về lãi suất và
thay đổi về giá trị thị trường của quyền chọn trong danh mục đầu tư của
NHTM.
+ Rủi ro ngoại hối là tác động bất lợi tiềm ẩn ảnh hưởng tới lợi nhuận
và giá trị kinh tế của NHTM do biến động tỷ giá. Một NHTM gặp phải rủi ro
ngoại hối trong cả thị trường ngoại hối giao ngay lẫn có kỳ hạn, và trong thị
trường quyền chọn. Rủi ro ngoại hối trên thị trường giao ngay phát sinh khi


10
tổng giá trị hiện tại của tài sản Có tính bằng bất kỳ loại tiền tệ nào cũng không
ngang bằng với tổng giá trị hiện tại của tài sản Nợ tính bằng loại tiền đó. Rủi
ro ngoại hối kỳ hạn xảy ra đối với một loại tiền tệ cụ thể khi có chênh lệch về
kỳ hạn mua/kỳ hạn bán của loại tiền tệ đó so với một loại tiền tệ khác. Rủi ro
quyền chọn nảy sinh từ ảnh hưởng của các biến động về lãi suất và tỷ giá

cũng như các biến động về giá trị thị trường của quyền chọn trong phạm vi
danh mục đầu tư của NHTM.
+ Rủi ro chứng khoán là tác động tiêu cực tiềm ẩn ảnh hưởng tới lợi
nhuận của NHTM do biến động về giá cổ phiếu nào đó, hay biến động chung
về giá trị thị trường chứng khoán. Một NHTM sẽ gặp phải rủi ro chứng khoán
khi thực hiện mua bán chứng khoán cho chính mình trong hoạt động môi giới.
Rủi ro chứng khoán cũng là hệ quả của các hoạt động kinh doanh tiền tệ của
NHTM, bao gồm cả việc cung cấp các giao dịch chứng khoán phái sinh cho
khách hàng, kinh doanh chứng khoán và tự doanh.
+ Rủi ro hàng hoá là tác động tiêu cực tiềm ẩn ảnh hưởng tới lợi nhuận
và giá trị kinh tế của NHTM do các biến động về giá hàng hoá. Danh mục
kinh doanh của NHTM chịu ảnh hưởng của rủi ro hàng hoá chủ yếu là rủi ro
biến động về giá kim loại quý.
1.1.2.4 Rủi ro hoạt động
Là khả năng tổn thất gây ra bởi không có hoặc có không đầy đủ các quy
trình nội bộ, con người, hệ thống hoặc từ những sự kiện bên ngoài (định nghĩa
của Uỷ ban Basel). Rủi ro hoạt động hay còn gọi là rủi ro tác nghiệp. Đây là
một trong các loại rủi ro trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ của ngân
hàng thương mại. Nó ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến hoạt động

.

1.1.2.5 Rủi ro thanh khoản xảy ra khi cung về tiền ít hơn cầu về tiền,
rủi ro thanh khoản liên quan đến khả năng chuyển các tài sản tài chính thành
tiền một cách nhanh chóng mà không phải chịu thất thoát về giá cả. Điều này
cực kỳ quan trọng, vì khó có thể dự đoán nhu cầu rút tiền trong tương lai. Vấn
đề thanh khoản cũng liên quan đến loại công cụ tài chính có thể chuyển thành


11

tiền mặt, sự phát triển của thị trường thứ cấp v.v.. Tuy nhiên, một vấn đề là
công cụ nào càng thanh khoản cao thì thường mức độ sinh lời càng kém hơn
công cụ ít thanh khoản hơn và ảnh hưởng đến lợi nhuận của NHTM. Do vậy,
không phải là một NHTM có khả năng thanh khoản cao đã hẳn là tốt.
1.1.2.6 Rủi ro danh tiếng là khả năng những thông tin không tốt về
một NHTM được công khai ra công chúng sẽ gây ra sự sụt giảm khách hàng,
các kiện tụng tốn kém hoặc giảm doanh thu...
Bốn loại rủi ro lớn nhất hiện nay của hệ thống các NHTM tại Việt Nam
dễ dẫn đến các vụ bất ổn, mất khả năng thanh khoản hay đổ vỡ, ít nhất ở mức
cục bộ là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt
động, trong đó đặc biệt đáng quan ngại là rủi ro tín dụng. Tốc độ tăng trưởng
tín dụng nhanh (trên 20%/năm, thậm chí không ít NHTM tăng trưởng 3040%/năm) và diễn ra trong thời gian dài đi đôi với năng lực quản trị rủi ro yếu
kém trong môi trường kinh doanh nhiều rủi ro (năng lực tài chính, khả năng
cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của khách hàng còn yếu) khiến các NHTM
đối mặt với mức độ rủi ro tín dụng không nhỏ. Điều này thực sự trở thành
nguy cơ đe doạ sự an toàn và phát triển bền vững của hệ thống NHTM tại
Việt Nam. Chất lượng tài sản có và nợ xấu lớn, nếu trích lập đủ dự phòng theo
chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) thì một số NHTM có vốn tự có
âm hay công nợ vượt quá tổng tài sản Có - về mặt kỹ thuật, theo thể chế của
nhiều nước trên thế giới thì các NHTM đó coi như mất khả năng thanh toán...
Như vậy để có thể kinh doanh an toàn và hiệu quả tốt thì bản thân những nhà
Quản trị của các NHTM phải hiểu rõ các rủi ro mà NHTM của mình đang và
có thể phải đối mặt để đưa ra các chính sách, chiến lược kinh doanh trong đó
lường trước các khả năng xảy ra rủi ro và khả năng chấp nhận rủi ro của tổ
chức với những kế hoạch kinh doanh đó.
1.2. Kiểm soát nội bộ và hệ thống kiểm soát nội bộ
1.2.1 Khái niệm hệ thống kiểm soát nội bộ
Kiểm soát nội bộ là những phương pháp và chính sách được thiết kế để
ngăn chặn gian lận, giảm thiểu sai sót, khuyến khích hiệu quả hoạt động, và



12
nhằm đạt được sự tuân thủ các chính sách và quy trình được thiết lập. Một hệ
thống kiểm soát nội bộ vững mạnh sẽ giúp đem lại các lợi ích sau cho công
ty:


Đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính của
công ty;



Giảm bớt rủi ro gian lận hoặc trộm cắp đối với công ty do bên thứ ba
hoặc nhân viên của công ty gây ra;



Giảm bớt rủi ro sai sót không cố ý của nhân viên mà có thể gây tổn hại
cho công ty;



Giảm bớt rủi ro không tuân thủ chính sách và quy trình kinh doanh của
công ty; và



Ngăn chặn việc tiếp xúc những rủi ro không cần thiết do quản lý rủi ro
chưa đầy đủ.
Thông thường, khi công ty phát triển lên thì lợi ích của một hệ thống


kiểm soát nội bộ cũng trở nên to lớn hơn vì người chủ công ty sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn trong việc giám sát và kiểm soát các rủi ro này nếu chỉ dựa vào
kinh nghiệm giám sát trực tiếp của bản thân. Đối với những công ty mà có sự
tách biệt lớn giữa người quản lý và cổ đông, một hệ thống kiểm soát nội bộ
vững mạnh sẽ góp phần tạo nên sự tin tưởng cao của cổ đông. Xét về điểm
này, một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh là một nhân tố của một hệ
thống quản trị doanh nghiệp vững mạnh, và điều này rất quan trọng đối với
công ty có nhà đầu tư bên ngoài. Các nhà đầu tư sẽ thường trả giá cao hơn cho
những công ty có rủi ro thấp hơn.
Có nhiều khái niệm khác nhau về hệ thống kiếm soát nội bộ:
+ Theo văn bản hướng dẫn kiểm toán quốc tế số 6 được Hội đồng Liên
hiệp các nhà kế toán Malaysia (Malaysian Assembly of Certificated Public
Accountant - MACPA) và Viện kế toán Malaysia (Malaysian Institute of
Accountant - MIA) đưa ra như sau : “Hệ thống kiểm soát nội bộ là cơ cấu tổ


13
chức cộng với những biện pháp, thủ tục do Ban quản trị của một tổ chức thực
thể chấp nhận, nhằm hỗ trợ thực thi mục tiêu của Ban quản trị đảm bảo tăng
khả năng thực tiễn tiến hành kinh doanh trong trật tự và có hiệu quả bao gồm :
tuyệt đối tuân theo đường lối của Ban quản trị, bảo vệ tài sản, ngăn chặn và
phát hiện gian lận, sai lầm, đảm bảo tính chính xác, toàn hiện số liệu hạch
toán, xử lý kịp thời và đáng tin cậy số liệu thông tin tài chính. Phạm vi của hệ
thống kiểm soát nội bộ còn vượt ra ngoài những vấn đề có liên quan trực tiếp
với chức năng của hệ thống kế toán. Mọi nguyên lý riêng của hệ thống kiểm
soát nội bộ đượ xem như hoạt động của hệ thống và được hiểu là Kiểm soát
nội bộ”.
+ Hội kế toán Anh quốc (England Association of Accountant - EAA)
định nghĩa về hệ thống kiểm soát nội bộ như sau : “Một hệ thống kiểm soát

toàn diện có kinh nghiệm tài chính và các lĩnh vực khác nhau được thành lập
bởi Ban quản lý nhằm:
- Tiến hành kinh doanh của đơn vị trong trật tự và có hiệu quả;
- Đảm bảo tuân thủ tuyệt đối đường lối kinh doanh của Ban quản trị;
- Giữ an toàn tài sản;
- Đảm bảo tính toàn diện và chính xác của số liệu hạch toán, những thành
phần riêng lẻ của hệ thống Kiểm soát nội bộ được coi là hoạt động kiểm tra
hoặc hoạt động kiểm tra nội bộ.
+ Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ (American Institute of Certificated
Public Accountant - AICPA) định nghĩa kiểm soát nội bộ như sau : “Kiểm
soát nội bộ bao gồm kế hoạch của tổ chức và tất cả các phương pháp phối hợp
và đo lường được thừa nhận trong doanh nghiệp để bảo đảm an toàn tài sản có
của họ, kiểm tra sự phù hợp và độ tin cậy của dữ liệu kế toán, tăng cường tính
hiệu quả của hoạt động và khuyến khích việc thực hiện các chính sách quản lý
lâu dài”.
+ Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (The International Federation of
Accountant - IFAC) thì : “Hệ thống kiểm soát nội bộ là kế hoạch của đơn vị
và toàn bộ các phương pháp, các bước công việc mà các nhà quản lý doanh


14
nghiệp tuân theo. Hệ thống Kiểm soát nội bộ trợ giúp cho các nhà quản lý đạt
được mục tiêu một cách chắc chắn theo trình tự và kinh doanh có hiệu quả kể
cả việc tôn trọng các quy chế quản lý; giữ an toàn tài sản, ngăn chặn, phát
hiện sai phạm và gian lận; ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác, lập báo cáo tài
chính kịp thời, đáng tin cậy”.
+Theo tập 2 Giáo trình Đại học Kế toán chuyên nghiệp Canada : “Hệ
thống kiểm soát nội bộ được định nghĩa là hệ thống những quy định tài chính
và quy định không tài chính. Hệ thống này do các nhà quản lý doanh nghiệp
lập ra để điều hành quản lý kinh doanh theo trình tự và có hiệu quả. Đảm bảo

tôn trọng mọi quy chế quản lý, giữ an toàn cho tài sản, duy trì chế độ ghi chép
kế toán đầy đủ, chính xác, lập báo cáo tài chính đúng thời hạn.
+ Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400-Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội, hệ thống kiếm soát nội bộ: “ Hệ thống kiếm soát nội bộ là các quy
định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng
nhằm bảo đảm cho các đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định để kiểm tra,
kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận sai sót để lập báo cáo tài chính
trung thực và hợp lý, nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của
đơn vị. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế
toán và các thủ tục kiểm soát”
Nhìn chung, các khái niệm khác nhau về hệ thống kiểm soát nội bộ có
những điểm chung như sau:
- Thứ nhất là hệ thống kiểm soát nội bộ trong một doanh nghiệp
được hiểu là có hai phần: Phần thứ nhất là các cơ chế kiểm soát nội bộ bao
gồm toàn bộ các cơ chế nghiệp vụ; các quy trình; các quy chế nghiệp vụ cộng
với một cơ cấu tổ chức (gồm sắp xếp, phân công phân nhiệm phân cấp, ủy
quyền v.v...) nhằm làm cho hoạt động của doanh nghiệp được hiệu quả, an
toàn. Phần thứ hai của hệ thống kiểm soát nội bộ chính là các bộ kiểm tra
giám sát chuyên trách, trong đó có kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo cho việc
vận hành các cơ chế kiểm soát nội bộ nói trên được thực hiện nghiêm, có hiệu
quả.


15
- Thứ hai là hệ thống kiểm soát nội bộ sẽ gắn liền với mọi bộ phận,
mọi quy trình nghiệp vụ và mọi nhân viên trong doanh nghiệp ít nhiều sẽ
tham gia vào việc kiểm soát nội bộ và kiểm soát lẫn nhau (chứ không đơn
thuần là chỉ có cấp trên kiểm soát cấp dưới).
1.1.2 Hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại
Hệ thống kiểm soát nội bộ có một vai trò quan trọng, quyết định sự

thành bại của một doanh nghiệp nói chung và của một tổ chức tín dụng nói
riêng. Cuối những năm 80, khi một loạt các công ty của Hoa Kỳ bị đổ vỡ,
người ta đã xác minh được nguyên nhân chính của sự đổ vỡ là do hệ thống
kiểm soát nội bộ của các công ty này yếu kém. Kể từ đó, khái niệm hệ thống
kiểm soát nội bộ ra đời và tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là các ngân hàng
hiện đại trên thế giới ngày càng quan tâm đến mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và
hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết
lập nhằm các mục tiêu:
- Bảo vệ tài sản của đơn vị:
Tài sản của đơn vị bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình,
chúng có thể bị đánh cắp hoặc bị lạm dụng vào các mục đích khác nhau hoặc
bị hư hỏng nếu không được bảo vệ bởi hệ thống kiểm soát thích hợp. Điều
tương tự cũng có thể xảy ra đối với các tài sản phi vật chất khác như sổ sách
kế toán, các tài liệu quan trọng…
- Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin:
Thông tin kinh tế, tài chính do bộ máy kế toán xử lý và tổng hợp là căn
cứ quan trọng cho việc hình thành các quyết định cho các nhà quản lý. Như
vậy, các thông tin cung cấp phải đảm bảo tính kịp thời về thời gian, tính chính
xác và tin cậy về thực trạng hoạt động và phản ánh đầy đủ khách quan các nội
dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế tài chính
- Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý:


16
Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế trong doanh nghiệp phải đảm
bảo các quyết định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh ngiệp phải được tuân thủ đúng mực. Cụ thể hệ thống kiểm
soát nội bộ cần:
- Duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến các
hoạt động của doanh nghiệp.

- Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng như xử lý các sai phạm và gian
lận trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- Đảm bảo việc ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác cũng như việc lập
báo cáo tài chính đầy đủ và khách quan.
- Bảo đảm hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý:
Các quá trình kiểm soát trong một đơn vị được thiết kế nhằm ngăn
ngừa sự lặp lại không cần thiết các tác nghiệp gây ra sự lãng phí trong hoạt
động và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, định kỳ các nhà quản lý thường đánh giá kết quả hoạt
động trong doanh nghiệp được thực hiện với cơ chế giảm sát của hệ thống của
kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp, nhằm nâng cao khả năng quản lý điều
hàng của bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm 5 cấu phần, cụ thể: là môi trường
kiểm soát, hệ thống quản lý và đánh giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, hệ thống
thông tin và cơ chế trao đổi thông tin, và cơ chế giám sát hoạt động kiểm soát.
Môi trường kiểm soát là nền tảng cho toàn bộ các cấu phần của hệ
thống kiểm soát nội bộ, bao gồm cơ cấu tổ chức, cơ chế phân cấp, phân
quyền, các chính sách, thông lệ về nguồn nhân lực, đạo đức nghề nghiệp,
năng lực, cách thức quản trị, điều hành của các cấp lãnh đạo.
Hệ thống quản lý và đánh giá rủi ro là quy trình định dạng và phân tích
mọi rủi ro liên quan đến việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức tín dụng, cụ
thể bao gồm : việc xác định mục tiêu, mức độ phù hợp của các mục tiêu, việc


17
định dạng các rủi ro liên quan, đánh giá rủi ro, và các biện pháp nhằm giảm
thiểu rủi ro.
Hoạt động kiểm soát là các chính sách, quy trình, thông lệ được xây
dựng nhằm đảm bảo thực hiện các kế hoạch, các yêu cầu do các cấp quản lý
điều hành đặt ra và các quy trình giảm thiểu rủi ro liên quan.

Hệ thống thông tin và cơ chế trao đổi thông tin là hệ thống hỗ trợ toàn
bộ các cấu phần của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua việc đảm bảo các
thông tin được nắm bắt đầy đủ và kịp thời trong toàn ngân hàng.
Cơ chế giám sát hoạt động kiểm soát là quá trình đánh giá chất lượng
của hệ thống kiểm soát nội bộ do Tổng giám đốc (Giám đốc) ngân hàng tổ
chức thực hiện và do Bộ phận kiểm toán nội bộ của ngân hàng hoặc tổ chức
kiểm toán độc lập bên ngoài thực hiện.
Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát chịu trách nhiệm cuối cùng về mức
độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ thông qua
một Bộ phận chuyên trách độc lập. Bộ phận này chính là Bộ phận kiểm toán
nội bộ của ngân hàng. Chức năng cơ bản của Bộ phận kiểm toán nội bộ là
thực hiện đánh giá độc lập về mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng, đồng thời đưa ra những khuyến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.
Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ còn được thường xuyên tự
đánh giá. Công việc này do Tổng giám đốc của ngân hàng chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện. Tự đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ có tác dụng phòng
ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro của ngân hàng.
1.3. Kiểm soát nội bộ hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương
mại
Căn cứ vào quy mô cũng như đặc thù kinh doanh của các ngân hàng
thương mại, các ngân hàng cần phải xây dựng hệ thống kiểm soát nội hiệu
quả nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý. Xét một cách tổng quát, nội dung của hệ
thống kiểm soát nội bộ bao gồm các yếu tố chính sau đây:


18
1.3.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát tạo ra phong thái của toàn doanh nghiệp và có
ảnh hưởng tới ý thức về kiểm soát của cán bộ công nhân viên. Đó là nền

móng cho các yếu tố còn lại của hệ thống kiểm soát nội bộ. Mội trường kiểm
soát bao gồm phương châm và phong cách kinh doanh của Ban lãnh đạo, sự
tham gia của những người quản trị điều hành, tính hợp lý của các kế hoạch và
mức độ tin cậy ước tính của Ban lãnh đạo. Môi trường kiểm soát của một
NHTM là toàn bộ các nhân tố tác động đến việc thiết kế hoạt động và sự hữu
hiệu của chính sách thủ tục kiểm soát của ngân hàng.
Môi trường kiểm soát: Là những yếu tố của công ty ảnh hưởng đến
hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ và là các yếu tố tạo ra môi trường
mà trong đó toàn bộ thành viên của công ty nhận thức được tầm quan trọng
của hệ thống kiểm soát nội bộ. Ví dụ, nhận thức của các nhà quản lý về liêm
chính và đạo đức nghề nghiệp, về việc cần thiết phải tổ chức bộ máy hợp lý,
về việc phân công, ủy nhiệm rõ ràng, về việc ban hành bằng văn bản các nội
quy, quy chế, quy trình kinh doanh ... Một môi trường kiểm soát tốt sẽ là nền
tảng cho sự hoạt động hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Mội trường kiểm soát bao gồm các nhân tố sau:
+ Đặc thù về quản lý: Mỗi một ngân hàng đều có những quan điểm, ý
tưởng khác nhau trong hoạt động điều hành kinh doanh của Ban lãnh đạo.
Quan điểm về quản lý sẽ có tác động trực tiếp đến chính sách chế độ, các quy
định cũng như cách thức tổ chức kiểm tra kiểm soát nội bộ tại các ngân hàng.
+ Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo nên môi trường kiểm
soát tốt. Cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo một bộ máy xuyên suốt trong quá
trình ban hành các quyết định cũng như việc kiểm tra, kiểm soát quá trình
thực hiện các quyết định đó trong ngân hàng. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức
hợp lý góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót trong
hoạt động tài chính kế toán của ngân hàng. Một cơ cấu quản lý hợp lý phải
thiết lập điều hành và kiểm soát một cách tổng thể tránh chồng chéo, tạch


19
bạch giữa các bộ phận chức năng, bảo đảm sự độc lập tương đối giữa các bộ

phận trong một hệ thống, tạo khả năng kiểm tra kiểm soát lẫn nhau trong cac
bước thực hiện công việc.
+ Chính sách nhân sự: Nhân sự là một bài toán khó đối với tất cả các
doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng hiện nay. Sự phát triển của các
ngân hàng trong môi trường cạnh tranh gay gắt, chính sách nhân sự luôn là sự
quan tâm của các nhà quản lý. Đội ngũ cán bộ công nhân viên luôn là nhân tố
quan trong trong môi trường kiểm soát và là chủ thể để thực hiện tất cả mọi
thủ tục kiểm soát trong hoạt động của ngân hàng. Chất lượng của đội ngũ
nhân viên quyết định đến tính hiệu quả của hệ thống kiếm soát nội bộ. Từ đó
các ngân hàng cần có các chính sách cụ thể, rõ ràng về quy định tuyển dụng,
đào tạo, luân chuyển cán bộ, sắp xếp cũng như đề bạt, khen thưởng, kỷ luật
nhân viên. Việc đề bạt, bố trí, sắp xếp cán bộ phải phù hợp với năng lực
chuyên môn cũng như tư cách phẩm chất đạo đức đặc biệt là đạo đức nghề
nghiệp.
+ Công tác kế hoạch: Các kế hoạch tài chính bao gồm những ước tính
về tình hính tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh và sự luân chuyển luồng
tiền trong tương lai là những nhân tố quan trọng trong môi trường kiểm soát.
Hệ thống kế hoạch phải được hoạch định, xây dựng từ ngăn hạn đến dài hạn
và được xây dựng cụ thể cho từng lĩnh vực hoạt động. Ví như trong kế hoạch
huy động vốn được xây dựng bằng cách xây dựng kế hoạch về dư huy động
vốn cuối ký, huy động vốn bình quân…, trong công tác tín dụng việc xây
dựng kế hoạch tín dụng thể hiện ở kế hoạch dư nợ tín dụng cuối năm, giới hạn
tín dụng , kế hoạch giới hạn nợ quá hạn… Từ đó các nhà quản lý theo dõi
được tiến độ thực hiện… từ đó phát hiện kịp thời những bất cập, và xây dựng
các kế hoạch điều chỉnh kịp thời.
+ Ủy ban kiểm soát: Ủy ban kiểm soát bao gồm những người trong bộ
máy lãnh đạo cao nhất của đơn vị cũng như thành viên của hội đồng quản trị
nhưng không kiêm nhiệm các chức vụ quản lý và các chuyên gia am hiểu về



20
lĩnh vực kiểm soát. Ủy ban kiểm soát ngân hàng thường được thành lập tại
hội sở chính không thành lập tại các chi nhánh. Ủy ban kiểm soát có những
nhiệm vụ và quyền hạn:
` Giám sát sự chấp hành luật pháp của ngân hàng
. Kiểm tra, giám sát công việc của Ban kiểm tra, kiểm soát nội bộ
. Giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính
. Dung hòa những bất đồng nếu có giữa Ban giám đốc và các kiểm toán
viên bên ngoài
+ Môi trường bên ngoài:
Các yếu tố bên ngoài tuy không thuộc sự kiểm soát của các nhà quản lý
nhưng nó có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của các nhà
quản lý cũng như sự thiết kế và vận hành các quy chế và thủ tục kiểm soát nội
bộ.
Môi trường bên ngoài bao gồm sự kiểm soát của các cơ quan chức năng
nhà nước, ảnh hưởng của các chủ nợ, môi trường pháp lý, luật pháp của Nhà
nước cũng như các đướng lối chính sách của Đảng.
1.3.2 Hệ thống kế toán
Hệ thống kế toán bao gồm hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế
toán, hệ thống bảng tổng hợp cân đối kế toán. Quá trình lập và cân đối kế toán
bằng hệ thống báo cáo tài chính đóng vai trò quan trọng trong công tác kiểm
soát nội bộ của ngân hàng. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các
mục tiêu kiểm soát chi tiết:
+ Tính có thực
+ Sự phê chuẩn: mọi nghiệp vụ diễn ra đều phải có sự phê chuẩn hợp lý
+ Tính đầy đủ: đảm bảo việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế
phát sính


21

+ Sự phân loại: đảm bảo các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ
tài khoản và ghi nhận đúng đắn các loại sổ sách kế toán.
+ Tính đúng kỳ: Các nghiệp vụ phát sinh phải được phản ánh kịp thời
+ Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác
Hệ thống kế toán của NHTM là một bộ phận không thể tách rời trong
hệ thống kiểm soát nội bộ. Sự kiểm soát chỉ có thể thực hiện nếu các thông tin
trung thực, đáng tin cậy, chính xác, kịp thời.
Hệ thống kế toán của NHTM bao gồm:
+ Hệ thống chứng từ ban đầu. Đây là cơ sở pháp lý về nghiệp vụ kinh
tế phát sinh, đảm bảo an toàn trong quản lý và giám sát tài sản của ngân hàng
+ Hệ thống sổ sách kế toán, đối chiếu để giám sát sự chính xác, đầy đủ
theo quá trình ghi chép vào các tài khoản liên quan.
+ Hệ thống báo cáo tài chính theo tiêu thức thống kê, cung cấp các
thông tin tổng hợp một cách trung thực, đáng tin cậy, chính xác kịp thời, giúp
cho việc thực hiện kiểm soát một cách có hiệu quả
Dưới tác động của khoa học kỹ thuật, sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin, hệ thống các ngân hàng đều thực hiện xử lý thông tin, xử lý
dữ liệu cũng như quản lý các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh thông qua
phân mềm tin học và được nối mạng thông suốt. Hệ thống kế toán của ngân
hàng thương mại cũng được thể hiện trên phần mềm máy tính, đảm bảo sự
nhanh chóng, thuận lợi. Do đó, các ngân hàng cần thực hiện công tác kiểm
toán hàng năm và phân định trách nhiệm rõ ràng vủa người thực hiện và
người kiểm soát trên phần mềm kế toán.
1.3.3 Thủ tục kiểm soát
Thủ tục hay quy trình kiểm soát là trình tự và nội dung của các bước
công việc mà bộ phận kiểm soát nội bộ có thẩm quyền phải thực hiện để hoàn
thành trách nhiệm được giao. Quy trình kiểm soát nội bộ do Ban giám đốc
ngân hàng thiết lập và thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể trong



22
từng hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tuỳ từng lĩnh vực hoạt động của ngân
hàng mà quy trình và thủ tục kiểm soát được tiến hành khác nhau. Tuy nhiên,
dù thủ tục kiểm soát có khác nhau thì vẫn phải đảm bảo một số nguyên tắc cơ
bản như nguyên tắc phân công, phân nhiệm; nguyên tắc bất kiêm nhiệm và
nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn.
- Nguyên tắc phân công phân nhiệm
Nguyên tắc ngày quy định trách nhiệm và công việc cần được phân
chia cụ thể cho nhiều bộ phận và nhiều người trong bộ phận. Việc phân công
phân nhiệm rõ ràng tạo sự chuyên môn hóa trong công việc từ đó sai sót bị
hạn chế, khi sai sót xảy ra thường dễ phát hiện do có sự kiểm tra chéo. Khi
thực hiện các nghiệp vụ tác nghiệp không phải đó là công việc riêng của các
chuyên viên nghiệp vụ mà là sự phối hợp nhịp nhàng của các bộ phận liên
quan cùng tham gia nhằm kiểm soát chéo lẫn nhau. Việc phân chia trách
nhiệm nhằm giảm bớt các sai sót cũng như các hành vi gian lận, từ đó tạo cho
các nhân viên không có cơ hội làm sai quy định trong quá trinh thực hiện
nghiệp vụ của mình.
- Nguyên tắc bất kiêm nghiệm
Nguyên tắc này quy định sụ cách biệt thích hợp về trách nhiệm trong
các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa sai phạm và hành vi lạm dụng
quyền hạn. Để kiểm soát các nghiệp vụ tác nghiệp cần tách biệt giữa những
người tham gia, tách biệt giữa cán bộ thực hiện, cán bộ kiểm soát, tách biệt
giữa các bộ phận …Ví dụ trong công tác giao dịch khách hàng, giao dịch viên
thực hiện các nghiệp vụ theo yêu cầu khách hàng, kiểm soát viên là người
thực hiện kiểm soát và phê duyệt các giao dịch đó. Trong công tác tín dụng,
bộ phận quan hệ khách hàng, bộ phận quản trị tín dụng, bộ phận giải ngân
phải tách biệt nhau, tránh trường hợp “vừa đá bóng vừa thổi còi”…
- Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn
Nguyên tắc ủy quyền là thực hiện sự ủy quyền của các nhà quản lý cấp
trên, các nhà quản lý cấp dưới được giao cho quyền quyết định và giải quyết



23
một số công việc trong phạm vi nhất định. Quá trình ủy quyền được tiếp tục
mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm
và quyền hạn mà không lám mất tính tập trung kiểm soát của doanh nghiệp.
Để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp vụ kinh tế phải
được phê chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn được phân ra thành 2 loại: phê chuẩn
chung và phê chuẩn cụ thể. Phê chuẩn chung được thể hiện thông qua việc
xây dựng các chính sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ
cấp dưới tuân thủ, sự phê chuẩn cụ thể được thẹc hiện theo từng nghiệp vụ
kinh tế riêng. Theo nguyên tắc này, Hội đồng quản trị không trực tiếp phê
duyệt các nghiệp vụ cụ thể mà phê duyệt các chính sách, hạn mức cho từng
ngành, từng nghề, từng phân loại khách hàng. Các cấp thẩm quyền phê duyệt
được giao cho Tổng giám đốc quyết định. Tất cả các nghiệp vụ đểu phải được
những người có trách nhiệm phê chuẩn trước khi thực hiện. Nguyên tắc này
tạo tính chủ động và sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, phù
hợp với năng lực và trình độ của người được ủy quyền, đảm bảo hiệu quả, an
toàn chất lượng của các hoạt động nghiệp vụ , tuân thủ theo đúng quy trình
nghiệp vụ.
Căn cứ vào các nguyên tắc trên, hoạt động kiểm soát của ngân hàng, do
đó, sẽ được phân loại như sau:
- Kiểm soát quản lý là việc kiểm soát các hoạt động riêng lẻ của ngân
hàng, do nhân viên độc lập với người thực hiện hoạt động đó tiến hành. Kiểm
soát quản lý diễn ra thường xuyên và là hoạt động quan trọng nhất trong cơ
chế kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
- Kiểm soát xử lý được đặt ra để kiểm tra việc xử lý các giao dịch, tức
là kiểm tra lại những công việc mà nhân viên ngân hàng đã thực hiện và đã
được công nhận, cho phép, phân loại, tính toán, ghi chép và tổng hợp trong
báo cáo.

- Kiểm soát để bảo vệ tài sản là các biện pháp, quy chế kiểm soát nhằm
đảm bảo sự an toàn của tài sản và thông tin trong ngân hàng.


24
- Kiểm soát tổng quát là sự kiểm soát tổng thể đối với tất cả các hoat
động và giao dịch diễn ra trong ngân hàng.
1.3.4 Kiểm toán nội bộ
Có nhiều khải niệm về kiểm toán nội bộ , tuy nhiên có thể hiểu một
cách chung nhất về kiểm toán nội bộ như sau: Kiếm toán nội bộ là một hoạt
động độc lập và khách quan được thiết lập bên trong một tổ chức nhằm mang
lại cho tổ chức sự đảm bảo về khả năng kiểm soát các hoạt động của tổ chức,
tư vấn cho tổ chức các giải pháp chấn chỉnh hoạt động của mình, góp phần tạo
ra giá trị gia tăng cho tổ chức. vì vậy, kiếm toán nội bộ là một bộ phận độc lập
với tất cả các bộ phận khác trong đơn vị, đồng thời nó trực thuộc một cấp cao
đủ để không bị giới hạn về phạm vi hoạt động. Bộ phận này được thiết lập
trong đơn vị tiến hành công tác kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ
yêu cầu quản trị của nội bộ đơn vị. Kiểm toán nội bộ là một trong những nhân
tố quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Bộ phận kiểm
toán nội bộ cung cấp sự quan sát, đánh giá thường xuyên về toàn bộ hoạt
động của ngân hàng bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận hành
các chính sách và thủ tục về kiểm soát nội bộ.
Kiểm toán nội bộ thường có trách nhiệm kiểm tra:


Việc tuân thủ các quy trình và chính sách, vốn là một phần của hệ
thống kiểm soát nội bộ của công ty;




Việc tuân thủ các chính sách và quy trình kế toán cũng như việc đánh
giá tính chính xác của các báo cáo tài chính và báo cáo quản trị; và



Xác định các rủi ro, các vấn đề và nguồn gốc của việc kém hiệu quả và
xây dựng kế hoạch giảm thiểu những điều này.


25
1.4 Các nhân tố chi phối chất lượng, hiệu quả kiểm soát nội bộ trong các
Ngân hàng thương mại
Nhân tố chi phối chất lượng, hiệu quả kiểm soát nội bộ trong các Ngân
hàng thương mại gồm năm nhân tố:
Môi trường kiểm soát: là những yếu tố của tổ chức ảnh hưởng đến hoạt
động của hệ thống kiểm soát nội bộ và là các yếu tố tạo ra một môi trường
trong đó toàn bộ thành viên của tổ chức có nhận thức được tầm quan trọng
của hệ thống kiểm soát nội bộ hay không. Ví dụ, nhận thức của ban giám đốc
thế nào về tầm quan trọng của liêm chính và đạo đức nghề nghiệp, về việc cần
tổ chức bộ máy hợp lý, về việc phải phân công, ủy nhiệm, giao việc rõ ràng,
về việc phải ban hành bằng văn bản các nội quy, quy chế, quy trình SXKD...
Một môi trường kiểm soát tốt sẽ là nền tảng quan trọng cho sự hoạt động hiệu
quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Đánh giá rủi ro:Không lệ thuộc vào quy mô, cấu trúc, loại hình hay vị trí
địa lý, bất kỳ tổ chức nào khi hoạt động đều bị các rủi ro xuất hiện từ các yếu
tố bên trong hoặc bên ngoài tác động.
Các yếu tố bên trong. Sự quản lý thiếu minh bạch, không coi trọng đạo
đức nghề nghiệp. Chất lượng cán bộ thấp, sự cố hỏng hóc của hệ thống máy
tính, của trang thiết bị, hạ tầng cơ sở. Tổ chức và cở sở hạ tầng không thay đổi
kịp với sự thay đổi, mở rộng của sản xuất. Chi phí cho quản lý và trả lương

cao, thiếu sự kiểm tra, kiểm soát thích hợp hoặc do xa Công ty mẹ hoặc do
thiếu quan tâm...
Các yếu tố bên ngoài. Thay đổi công nghệ làm thay đổi quy trình vận
hành. Thay đổi thói quen của người tiêu dùng làm các sản phẩm và dịch vụ
hiện hành bị lỗi thời. Xuất hiện yếu tố cạnh tranh không mong muốn tác động
đến giá cả và thị phần. Sự ban hành của một đạo luật hay chính sách mới, ảnh
hưởng đến hoạt động của tổ chức...
Để tránh bị thiệt hại do các tác động nêu trên, tổ chức cần thường xuyên:
xác định rủi ro hiện hữu và tiềm ẩn. Phân tích ảnh hưởng của chúng kể cả tần


×