Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường kiểm soát nội bộ tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.35 KB, 105 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của Đề tài
NHĐTPTVN là một NHTM nhà nước, hoạt động kinh doanh đa năng và
tổng hợp nhưng chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư phát triển, NHĐTPTVN đã xác
định được vai trò và vị trí chủ đạo của một ngân hàng quốc doanh trong lĩnh vực
đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong bối cảnh chung của cuộc khủng hoảng và suy
thoái toàn cầu, NHĐTPTVN bị tác động sớm và cũng gặp không ít khó khăn.
Bên cạnh đó, để tiến hành chuyển đổi từ NHTM nhà nước sang NHTMCP,
NHĐTPTVN đã tiến hành sắp xếp lại mô hình tổ chức, tăng cường công tác
quản lý đặc biệt chú trọng đến hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Với tham
vọng hệ thống NHĐTPTVN trở thành một tập đoàn tài chính, lãnh đạo ngân
hàng cũng nhận thấy hạch toán kế toán đóng vai trò quan trọng trong việc củng
cố tình hình tài chính và cách thức hoạt động cung cấp thông tin để Ngân hàng
có những quyết sách kịp thời, linh hoạt trong điều hành hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, việc kiểm soát nội bộ và tổ chức hạch toán kế toán là vấn đề cần được
quan tâm, giải quyết nhằm tạo ra một sự minh bạch, thông tin cung cấp cho
những người quan tâm là kịp thời và đáng tin cậy.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc tăng cường kiểm soát
nội bộ tại NHĐTPTVN, Tôi đã chọn Đề tài: “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế
toán với việc tăng cường kiểm soát nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam” để viết Luận văn Thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán nhằm
cường kiểm soát nội bộ tại NHĐTPTVN trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực
tiễn tổ chức hạch toán kế toán tại NHĐTPTVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng
cường kiểm soát nội bộ. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là HSC NHĐTPTVN.



2
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng kết hợp
xem xét các vấn đề trên các quan điểm duy vật lịch sử. Đồng thời Luận văn vận
dụng phương pháp khảo sát, phân tích các tình hình dữ liệu và vận dụng vào điều
kiện cụ thể, cơ chế cụ thể đối với NHĐTPTVN để rút ra các kết luận và đề xuất
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán.
5. Bố cục của Đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức hạch toán kế toán với hệ thống kiểm
soát nội bộ tại các ngân hàng;
Chương 2: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán với kiểm soát nội bộ tại
NHĐTPTVN;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế
toán nhằm tăng cường kiểm soát nội bộ tại NHĐTPTVN.

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ TOÁN
VỚI HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TẠI CÁC NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận chung về tổ chức hạch toán kế toán và kiểm soát nội bộ


3
1.1.1 . Lý luận chung về tổ chức hạch toán kế toán
1.1.1.1 .Ý nghĩa, nhiệm vụ của tổ chức hạch toán kế toán
Có nhiều khái niệm khác nhau về hạch toán kế toán, nhưng có thể hiểu:
“Hạch toán kế toán là hệ thống thông tin và kiểm tra, kiểm soát tài sản và hoạt
động của mỗi đơn vị”. Đối tượng của hạch toán kế toán là tài sản trong mối quan
hệ với nguồn hình thành và quá trình vận động của tài sản. Để nghiên cứu đối
tượng của mình, hạch toán kế toán đã sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu

khoa học gồm bốn yếu tố (phương pháp cụ thể) là chứng từ, đối ứng TK, tính
giá, tổng hợp - cân đối kế toán. Mỗi phương pháp có vị trí, chức năng nhất định
song giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống hạch
toán kế toán. Vì vậy, trong hạch toán kế toán, mỗi phương pháp này là một yếu
tố của hạch toán kế toán và được sử dụng một cách tổng hợp, đồng bộ.
Với ý nghĩa tổ chức là mối liên hệ giữa các yếu tố của một hệ thống thì tổ
chức hạch toán kế toán là mối quan hệ qua lại theo một trật tự xác định giữa các
yếu tố chứng từ, đối ứng TK, tính giá và tổng hợp cân đối kế toán trong thông tin
và kiểm tra – kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính ở các doanh nghiệp, tổ
chức sự nghiệp và các cơ quan. Đối tượng của tổ chức hạch toán kế toán có thể
xem xét trên các góc độ khác nhau: Xét trên góc độ quá trình xử lý thông tin, đối
tượng tổ chức hạch toán kế toán bao gồm giai đoạn hạch toán ban đầu (xác định
đối tượng tính giá và thiết kế sổ tương ứng), giai đoạn ghi chép vào sổ TK, giai
đoạn lập báo cáo kế toán; Xét trên góc độ các đối tượng kế toán cụ thể thì đối
tượng tổ chức hạch toán kế toán là các phần hành kế toán; Xét trên góc độ cơ cấu
tổ chức bộ máy thì đối tượng của tổ chức hạch toán kế toán bao gồm các bộ phận
kế toán và phân công lao động trong các bộ phận ấy ( kế toán các phần hành).
Tổ chức hạch toán kế toán luôn có vai trò quan trọng và ý nghĩa thiết thực
đối với công tác quản lý của đơn vị thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất: Tổ chức hạch toán kế toán một cách khoa học và hợp lý đảm bảo
các thông tin kinh tế tài chính của đơn vị được cung cấp một cách kịp thời, chính
xác, tin cậy cho các đối tượng sử dụng thông tin như: Cơ quan chức năng nhà


4
nước, các nhà cung cấp, các khách hàng, công nhân viên, hội đồng quản trị, các
nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư…;
Thứ hai: Tổ chức hạch toán kế toán khoa học sẽ cung cấp những bằng
chứng chính xác và đáng tin cậy, là cơ sở để kiểm tra, giám sát tình hình tài
chính cũng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, kiểm tra

việc chấp hành các chính sách, chế độ về quản lý kinh tế tài chính của các tập thể
cũng như các cá nhân;
Thứ ba: Tổ chức hạch toán kế toán khoa học cùng với sự ứng dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quản lý sẽ góp phần tiết kiệm nguồn nhân lực,
nâng cao chất lượng thông tin từ đó tiết kiệm chi phí cho đơn vị.
Để công tác tổ chức hạch toán kế toán được thực hiện tốt thì trước hết
cần phải dựa trên các nhiệm vụ cơ bản mà bản thân kế toán cần phải thực
hiện. Đó là: Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội
dung công việc kế toán; Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các
nghĩa vụ, thu nộp thanh toán nợ; Kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và
nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp
luật về tài chính, kế toán; Phân tích thông tin, số liệu kế toán; Tham mưu, đề
xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính
của đơn vị kế toán; Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của
pháp luật.
Tổ chức hạch toán kế toán ở mỗi đơn vị cụ thể cần xác định khối lượng
công việc ở từng giai đoạn để xác định mô hình tổ chức hạch toán kế toán tương
ứng với mô hình quản lý của đơn vị, phân công bố trí lao động kế toán vào các
bộ phận trong bộ máy, quy định các mối liên hệ giữa các cá nhân, giữa các bộ
phận trong bộ máy tạo thành một thể thống nhất thực hiện chức năng thông tin
và kiểm tra kiểm soát của hạch toán kế toán.
1.1.1.2 . Nội dung của tổ chức hạch toán kế toán
Tổ chức hạch toán kế toán có thể theo từng phần hạch toán cụ thể hoặc theo
từng giai đoạn của quá trình hạch toán kế toán. Dựa trên khái niệm về tổ chức
hạch toán kế toán ở mỗi đơn vị đã trình bày ở trên (Mục 1.1.1.1), tổ chức hạch


5
toán kế toán ở mỗi đơn vị cần tạo ra mối liên hệ giữa các yếu tố (chứng từ, đối
ứng TK, tính giá, tổng hợp và cân đối) trên các phần hành kế toán.

Một là, Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán: Mọi nghiệp vụ kinh tế phát
sinh trong các đơn vị đều phải được phản ánh, ghi chép trong chứng từ kế toán.
Cơ sở duy nhất để ghi vào TK kế toán hay sổ kế toán là các chứng từ hợp lệ, hợp
pháp. Bản chứng từ vừa là phương tiện chứng minh tính hợp pháp của nghiệp vụ
kinh tế phát sinh, vừa là phương tiện thông tin về kết quả nghiệp vụ kinh tế đó.
Tổ chức vận dụng hợp lý hệ thống chứng từ và ghi chép ban đầu có ý nghĩa quan
trọng trong việc thu nhận được thực tế về các hoạt động sử dụng tài sản, vật tư
và nguồn kinh phí trong quá trình hoạt động của các đơn vị. Tổ chức chứng từ kế
toán cần xác định số lượng, chủng loại chứng từ, quy định thủ tục lập, luân
chuyển, bảo quản lưu trữ chứng từ.
Trong thực tế, căn cứ vào hệ thống chứng từ kế toán do BTC ban hành, mỗi
đơn vị lựa chọn những chứng từ kế toán cần vận dụng phù hợp với đặc điểm
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình sao cho vừa đảm bảo nguyên tắc
thống nhất đồng thời đảm bảo được yêu cầu của công tác kiểm soát nội bộ, công
tác quản lý của đơn vị. Đơn vị phải quy định, hướng dẫn các bộ phận liên quan
ghi chép đúng, chính xác, đầy đủ các yếu tố chứng từ kế toán, đảm bảo cho các
chứng từ kế toán được lập theo đúng yêu cầu của pháp luật và chính sách chế độ
kế toán của Nhà nước, làm căn cứ đáng tin cậy để ghi sổ kế toán. Ngoài ra, các
đơn vị cũng cần phải quy định trình tự luân chuyển chứng từ sao cho khoa học,
phục vụ cho việc ghi sổ kế toán đồng thời quy định lưu trữ, bảo quản an toàn
chứng từ kế toán của đơn vị theo quy định của pháp luật.
Việc tổ chức vận dụng hợp lý hệ thống chứng từ kế toán là điều kiện thuận
lợi cho việc xử lý và cung cấp thông tin chính xác phục vụ cho yêu cầu quản lý
cũng như phục vụ cho kiểm tra, giám sát, đôn đốc các cá nhân, đơn vị thực hiện
tốt cho các quy định trong quản lý, phát hiện kịp thời các sai sót, gian lận, tranh
chấp trong quan hệ kinh tế.
Hai là, Tổ chức hệ thống TK kế toán: TK kế toán được sử dụng để phản
ánh tình hình biến động của từng tài sản, nguồn vốn của đơn vị. Để đảm bảo



6
cung cấp đầy đủ các thông tin cho quản lý thì đơn vị phải xây dựng được một hệ
thống TK phù hợp với đặc điểm hoạt động của đơn vị. Chính vì vậy, nội dung cơ
bản của tổ chức hệ thống TK kế toán là lựa chọn những TK kế toán mà Nhà
nước ban hành phù hợp với điều kiện của đơn vị để sử dụng và bỏ đi những TK
không cần thiết. Với các TK sử dụng cần thiết phải chi tiết cho quản lý của đơn
vị thì tiến hành mở chi tiết thành các TK cấp III, cấp IV... Từ đó hình thành hệ
thống TK riêng cho đơn vị mình. Việc tổ chức hệ thống TK phải đảm bảo thống
nhất với hệ thống TK chung mà Nhà nước ban hành đồng thời đảm bảo phù hợp
với đặc thù riêng đáp ứng được yêu cầu kiểm soát nội bộ cũng như quản lý của
đơn vị. Việc quy định mức độ chi tiết cho các TK tùy thuộc vào yêu cầu quản lý,
trình độ của cán bộ kế toán, phương tiện kỹ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin kế toán của đơn vị. Hiện nay, với việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào tổ chức hạch toán kế toán, ở những đơn vị thực hiện kế toán trên máy sẽ quy
định được nhiều TK chi tiết hơn, có thể theo dõi chặt chẽ hơn các đối tượng quản
lý kinh tế tài chính.
Ba là, Tổ chức hệ thống sổ kế toán: Tất cả các đơn vị thuộc mọi loại hình,
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và mọi thành phần kinh tế đều phải mở, ghi
chép, quản lý, lưu trữ và bảo quản sổ kế toán theo quy định của Luật Kế toán và
theo yêu cầu quản lý nội bộ. Mỗi hình thức kế toán được quy định một hệ thống
sổ kế toán liên quan. Do vậy, khi tổ chức hệ thống sổ kế toán, đơn vị cần phải lựa
chọn hình thức kế toán phù hợp với đơn vị đồng thời đơn vị cụ thể hóa các sổ kế
toán theo hình thức kế toán đã lựa chọn, phù hợp với quy mô, đặc điểm hoạt
động của sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế
toán, điều kiện trang bị kỹ thuật tính toán.
Các sổ tổng hợp theo hình thức kế toán đã được các đơn vị vận dụng phải
tuân thủ mọi nguyên tắc cơ bản về các loại sổ, kết cấu các loại sổ, mối quan hệ
và sự kết hợp giữa các loại sổ, trình tự và kỹ thuật ghi chép các loại sổ kế toán.
Các sổ chi tiết mang tính hướng dẫn, đơn vị cụ thể hóa để phản ảnh thông tin chi
tiết theo yêu cầu quản lý của đơn vị. Yêu cầu của việc thiết kế hệ thống sổ chi



7
tiết là phải đảm bảo thuận lợi cho việc ghi sổ kế toán tổng hợp, dễ kiểm tra, dễ
đối chiếu đồng thời cung cấp được các thông tin để tính giá hàng hoá, dịch vụ và
cho quản trị của đơn vị. Tổ chức hệ thống sổ kế toán chi tiết khoa học sẽ góp
phần nâng cao năng suất lao động kế toán, hạn chế sự ghi chép sai sót, trùng lặp,
đảm bảo độ chính xác của thông tin, cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ, toàn
diện cho quản lý ở đơn vị cơ sở.
Bốn là, Tổ chức hệ thống báo cáo kế toán: Hệ thống báo cáo kế toán của
đơn vị gồm hệ thống báo cáo kế toán tài chính và hệ thống báo cáo kế toán quản
trị. Báo cáo kế toán tài chính là báo cáo phản ánh số liệu tổng hợp, được lập theo
định kỳ nhằm cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như
các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư có quan tâm đến hoạt động của đơn vị. Các
đơn vị bắt buộc phải lập, cung cấp báo cáo tài chính cho các đối tượng theo yêu
cầu của Luật Kế toán, chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán. Tổ chức lập báo cáo
tài chính là dựa vào các quy định về biểu mẫu, các quy định về phương pháp lập
để tiến hành phân công cán bộ kế toán thực hiện theo đúng quy định.
Báo cáo kế toán quản trị là báo cáo phản ánh số liệu kế toán chi tiết theo
từng đơn vị. Tuy nhiên, các báo cáo quản trị này có vai trò quan trọng trong việc
cung cấp thông tin phục vụ cho quản trị nội bộ đơn vị.
Năm là, Tổ chức bộ máy kế toán: Nội dung của tổ chức bộ máy bao gồm
xác định mô hình tổ chức bộ máy kế toán và phân công lao động trong bộ máy
ấy. Việc tổ chức thực hiện các chức năng nhiệm vụ hạch toán kế toán trong một
đơn vị hạch toán kế toán do bộ máy kế toán đảm nhiệm. Do vậy, cần thiết phải tổ
chức hợp lý bộ máy kế toán cho đơn vị trên cơ sở định hình được khối lượng
công tác kế toán cũng như chất lượng cần phải đạt về hệ thống thông tin kế toán.
Hiện nay tổ chức bộ máy kế toán ở các đơn vị được tổ chức theo 2 mô hình cơ
bản sau:
Mô hình I: Tổ chức bộ máy kế toán tập trung: Tổ chức kế toán tập trung

còn gọi là tổ chức kế toán một cấp. Theo mô hình này, toàn bộ việc tổ chức hạch
toán kế toán được tập trung tại trung tâm. Vì vậy, chỉ có một phòng kế toán để
đảm nhận tổ chức hạch toán kế toán của toàn đơn vị. Phòng kế toán đơn vị phải


8
thực hiện toàn bộ công tác kế toán từ thu nhận, ghi sổ, xử lý thông tin trên hệ
thống báo cáo phân tích và tổng hợp của đơn vị (tại các đơn vị, bộ phận trực
thuộc không mở sổ sách và hình thành bộ máy nhân sự, kế toán riêng). Mô hình
kế toán tập trung phù hợp với các đơn vị hoạt động quản lý theo cơ chế một cấp
quản lý, phần lớn các đơn vị này có quy mô nhỏ, hoạt động kinh doanh tập trung
về mặt không gian và mặt bằng kinh doanh, có kỹ thuật xử lý thông tin hiện đại,
nhanh chóng.
Mô hình II: Tổ chức bộ máy kế toán phân tán: Theo mô hình tổ chức kế
toán phân tán, bộ máy kế toán được phân cấp thành kế toán trung tâm và kế
toán trực thuộc. Kế toán trung tâm và kế toán đơn vị trực thuộc đều có sổ sách
kế toán và bộ máy nhân sự tương ứng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của kế
toán theo sự phân cấp. Phòng kế toán ở các đơn vị trực thuộc thực hiện toàn bộ
khối lượng công tác kế toán phần hành từ giai đoạn hạch toán ban đầu tới giai
đoạn lập báo cáo kế toán lên báo cáo trung tâm theo sự phân cấp, định kỳ gửi
báo cáo về phòng kế toán trung tâm theo quy định. Phòng kế toán trung tâm
thực hiện hạch toán kế toán các nghiệp vụ phát sinh tại trung tâm đồng thời là
nơi thực hiện khâu tổng hợp số liệu báo cáo của các đơn vị trực thuộc, lập báo
cáo tài chính chung toàn đơn vị. Mô hình kế toán phân tán phù hợp với các đơn
vị có quy mô kinh doanh lớn, cơ cấu kinh doanh phức tạp và địa bàn kinh
doanh rộng, phân tán.
Từ hai mô hình cơ bản có thể hình thành mô hình hỗn hợp.
Mô hình kế toán hỗn hợp: Mô hình kế toán hỗn hợp là sự kết hợp của cả
mô hình kế toán tập trung và mô hình kế toán phân tán. Theo mô hình này,
những bộ phận ở xa văn phòng trung tâm có thể thực hiện theo kiểu phân tán

và hoạt động của các bộ phận ở gần trung tâm sẽ do phòng kế toán trung tâm
của đơn vị thực hiện cùng với công việc kế toán tổng hợp chung số liệu của
toàn đơn vị. Mô hình kế toán hỗn hợp phù hợp với đơn vị có quy mô lớn, có
nhiều đơn vị xa cách nhau, trong đó có một số đơn vị trực thuộc có bộ máy
quản lý tương đối hoàn chỉnh được phân cấp quản lý tài chính và một số đơn
vị phụ thuộc không khép kín chu trình tài chính kế toán. Căn cứ và đặc điểm


9
hoạt động của mình, các đơn vị lựa chọn mô hình tổ chức bộ máy kế toán cho
phù hợp.
Bộ máy kế toán trên góc độ tổ chức lao động kế toán là tập hợp đồng bộ
các cán bộ, nhân viên kế toán để đảm bảo thực hiện khối lượng công tác kế toán
phần hành với đầy đủ các chức năng thông tin và kiểm tra hoạt động của đơn vị.
Mỗi cán bộ, nhân viên đều phải được quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, để từ đó tạo thành mối liên hệ có tính vị trí, lệ thuộc, chế ước lẫn nhau. Bộ
máy kế toán hoạt động có hiệu quả là do sự phân công, tạo lập mối liên hệ chặt
chẽ giữa các loại lao động kế toán theo tính chất khác nhau của khối lượng công
tác kế toán. Quan hệ giữa các loại lao động trong bộ máy kế toán có thể được
thực hiện theo một trong ba cách sau:
Bộ máy kế toán tổ chức theo kiểu trực tuyến: Theo kiểu tổ chức này, bộ
máy kế toán hoạt động theo phương thức trực tiếp, nghĩa là kế toán trưởng trực
tiếp điều hành các nhân viên kế toán phần hành không thông qua khâu trung gian
nhận lệnh. Với cách tổ chức bộ máy kế toán trực tuyến, mối quan hệ phụ thuộc
trong bộ máy kế toán trở nên đơn giản, thực hiện trong một cấp kế toán tập
trung, sản xuất kinh doanh và hoạt động quy mô nhỏ.
Bộ máy kế toán tổ chức theo kiểu trực tuyến tham mưu: Theo kiểu tổ chức
này, bộ máy kế toán được hình thành bởi mối liên hệ trực tuyến như phương thức
trực tiếp trên và mối liên hệ có tính chất tham mưu giữa Kế toán trưởng với các
kế toán phần hành (quan hệ chỉ đạo nghiệp vụ trực tiếp) và giữa Kế toán trưởng

với các bộ phận tham mưu.
Bộ máy kế toán theo kiểu chức năng: Bộ máy kế toán theo phương thức tổ
chức này được chia thành những bộ phận độc lập, đảm bảo những hoạt động
riêng rẽ, thường gọi là ban, phòng kế toán. Kế toán trưởng của đơn vị chỉ đạo kế
toán nghiệp vụ thông qua các trưởng ban (phòng) kế toán. Đầu mối liên hệ chỉ
đạo từ Kế toán trưởng trong phương thức tổ chức bộ máy này giảm nhiều và tập
trung hơn so với hai phương thức trên.
1.1.1.3 . Những nguyên tắc của tổ chức hạch toán kế toán


10
Tổ chức hạch toán kế toán khoa học sẽ có tác dụng quan trọng trong việc
tiết kiệm lao động kế toán, giảm chi phí hạch toán kế toán nhưng vẫn đảm bảo
thực hiện tốt các chức năng thông tin và kiểm tra ở đơn vị. Muốn vậy, trong hoạt
động thực tiễn tổ chức hạch toán kế toán phải tuân thủ những nguyên tắc nhất
định, dựa trên những nguyên tắc bản thân hoạt động kế toán và quan hệ giữa kế
toán với các phân hệ khác trong hoạt động quản lý. Như vậy, trước hết tổ chức
hạch toán kế toán cần phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán chung đã được thừa
nhận như: Nguyên tắc thực thể kinh doanh, nguyên tắc hoạt động liên tục,
nguyên tắc thước đo tiền tệ, nguyên tắc kỳ kế toán, nguyên tắc khách quan,
nguyên tắc chi phí, nguyên tắc doanh thu thực hiện, nguyên tắc phù hợp, nguyên
tắc nhất quán, nguyên tắc công khai, nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc trọng
yếu. Ngoài ra, để thực hiện tốt được vai trò của mình trong công tác quản lý, đòi
hỏi tổ chức hạch toán kế toán ở đơn vị còn phải tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Tổ chức hạch toán kế toán phải đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát
triển và tuân thủ những quy định, phù hợp với yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà
nước, tuân thủ theo các chuẩn mực kế toán, chính sách, chế độ thể lệ về tài
chính, kế toán do Nhà nước ban hành;
Thứ hai: Tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với đặc điểm hoạt động
sản xuất kinh doanh, đặc điểm tổ chức quản lý, quy mô và địa bàn hoạt động của

đơn vị;
Thứ ba: Tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với yêu cầu và trình độ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kế toán trong đơn vị;
Thứ tư: Tổ chức hạch toán kế toán phải đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả.
1.1.2. Lý luận chung về kiểm soát nội bộ
1.1.2.1 . Tổng quan về kiểm soát nội bộ trong quản lý
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lý. Một cách chung nhất, quản
lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở
những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình này bao gồm
nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều giai đoạn: Lập kế hoạch, tổ chức,
cung cấp các nguồn lực, điều hành (kể cả điều chỉnh), hoạt động. Trong mọi


11
trường hợp, để đảm bảo hiệu quả hoạt động, tất yếu ở mỗi đơn vị đều phải tự
kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu: Rà soát các tiềm năng,
xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các
thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời
trên quan điểm đảm bảo hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối
cùng của các hoạt động. Công việc rà soát này được gọi là kiểm soát. Một cách
chung nhất, có thể hiểu kiểm soát là một quy trình rà soát các hoạt động để đảm
bảo các hoạt động này được thực hiện theo kế hoạch và chỉnh sửa các sai lệch
quan trọng. Như vậy, kiểm soát luôn luôn tồn tại và được thực hiện ở tất cả các
giai đoạn của quá trình quản lý. Do đó, kiểm soát không phải là một giai đoạn
của quá trình quản lý mà là một chức năng gắn với mọi giai đoạn của quá trình
quản lý. Kiểm soát có thể theo nhiều chiều gắn với các cấp quản lý như: Cấp trên
kiểm soát cấp dưới thông qua các chính sách hoặc biện pháp cụ thể; Đơn vị này
kiểm soát đơn vị khác thông qua việc chi phối đáng kể về quyền và lợi ích tương
ứng; Nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và thủ tục quản
lý...Tuy nhiên, thông dụng nhất vẫn là kiểm soát nội bộ đơn vị.

Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị có thể hiểu là toàn bộ các chính sách,
các bước kiểm soát và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm điều hành các hoạt
động của đơn vị. Một hệ thống kiểm soát hữu hiệu đảm bảo mọi hoạt động được
hoàn tất theo những cách thức đưa đến việc đạt được mục tiêu của đơn vị. Các
mục tiêu là: Đảm bảo tính trung thực và toàn vẹn của các thông tin; Đảm bảo sự
tuân thủ các chủ trương, chính sách, kế hoạch, luật lệ và quy tắc của đơn vị; Bảo
vệ tài sản và sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả; Đảm bảo thực hiện các
mục tiêu đã để ra của đơn vị. Tuy nhiên, chức năng này được thể hiện khác nhau
tùy thuộc vào cơ chế kinh tế, cấp quản lý và đặc thù của đơn vị cụ thể.
Để kiểm soát một cách hữu hiệu, toàn diện các hoạt động thì quá trình kiểm
soát phải tuân theo trình tự sau:
Thứ nhất: Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn có thể đo lường dựa trên các mục
tiêu của đơn vị. Bước đầu tiên, cần xác định chúng ta có những mục tiêu gì. Mục
tiêu này có thể là một mục tiêu ở một cấp rất cao, hoặc nó có thể là rất chi tiết và


12
rõ ràng. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, đặc điểm chung của mọi hoạt động là
luôn có một mục tiêu xác định. Căn cứ vào những mục tiêu đã xác định cần xây
dựng một hệ thống tiêu chuẩn có thể đo lường được. Hiệu quả của quá trình
kiểm soát trực tiếp sẽ gắn với tình hình các mục tiêu cơ sở đã được xây dựng;
Thứ hai: So sánh kết quả thực hiện với các mục tiêu và phân tích nguyên
nhân chênh lệch. Chúng ta cần xem thực tế chúng ta đã hoàn thành trong tiến
trình thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Bằng cách này, chúng ta sẽ có cơ sở đúng
đắn để so sánh và phân tích, đánh giá và đề xuất biện pháp quản lý để tiến hành
điều chỉnh cần thiết ở từng khâu, từng giai đoạn để quá trình tác nghiệp tuân thủ
theo ý chí của chúng ta hoặc theo mục tiêu của hệ thống. Qua so sánh xác định
được sự chênh lệch và xác định được nhân tố và nguyên nhân của sự chênh lệch
này. Những nhân tố gây chênh lệch cần được tính toán mức độ ảnh hưởng cụ thể
của từng nhân tố. Từ đó, cần xác định rõ nguyên nhân trực tiếp và những nguyên

nhân cơ bản, đồng thời cũng cần tính đến mức độ ảnh hưởng của những nhân tố
cá biệt quan trọng;
Thứ ba: Đưa ra hành động quản lý thích hợp. Phân tích mức độ chênh lệch
để đi đến việc đưa ra các hướng hành động thích hợp của quản lý. Những hành
động cần thiết được đưa ra sẽ được xem xét dựa trên tính cấp bách của nó, dựa
trên trình độ của các nhân viên thừa hành và tính phức tạp của hành động được
đưa ra. Hành động cần thực hiện có thể nhanh như sửa chữa một sai lầm hoặc
phải có một thời gian điều chỉnh như một hệ thống phức tạp. Trong một số tình
huống, hành động xác định cần được thực hiện có thể sẽ không được thực hiện vì
chi phí sửa sai cao hơn rủi ro. Tuy nhiên, trong trường hợp bình thường không đề
ra hành động cũng là một quyết định đúng đắn;
Thứ tư: Tiếp tục đánh giá lại. Bước cuối cùng trong quá trình kiểm soát là
đánh giá lại kết quả sau khi các hành động nói trên đã hoàn thành. Đây chính là
việc kiểm tra tiếp sự đúng đắn của việc xác định hành động cần thiết trước đây
và cách thức tiến hành những hành động đó. Việc đánh giá lại này sẽ giúp nhà
quản lý có thêm kinh nghiệm để đưa ra các quyết định phù hợp trong tương lai.

1.1.2.2 .Các loại kiểm soát nội bộ


13
Kiểm soát gắn liền với quản lý trong từng cấp, từng đơn vị cụ thể. Do đó
kiểm soát có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Trong quan hệ với Đề tài có
thể khái quát các phân loại chủ yếu sau:
Thứ nhất: Trong quan hệ với quản lý một đơn vị cụ thể, kiểm soát được
phân thành kiểm soát tổ chức và kiểm soát kế toán.
Kiểm soát tổ chức là loại hình kiểm soát dựa trên những nguyên lý cơ bản
của tổ chức, là trật tự của mối liên hệ giữa các thành viên. Theo đó, các thủ tục tổ
chức được dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là phân công phân nhiệm, uỷ quyền
phê chuẩn và bất kiêm nhiệm. Những nguyên tắc trên được cụ thể hoá thành

những quy định cụ thể. Những quy định này cũng chính là những tiêu chuẩn
đánh giá trong hoạt động kiểm soát tổ chức.
Kiểm soát kế toán là kiểm soát qua các yếu tố cấu thành hệ thống kế toán:
chứng từ, đối ứng TK, tính giá và tổng hợp cân đối kế toán. Các yếu tố này được
biểu hiện qua các hình thức vật chất, hệ thống chứng từ và chương trình luân
chuyển chứng từ; Hệ thống TK (sổ tổng hợp) và các quan hệ đối ứng; Hệ thống
sổ chi tiết chi phí, vật tư và hệ thống báo cáo kế toán.
Thứ hai: Trong quan hệ với thời điểm thực hiện hoạt động có kiểm soát
trước, kiểm soát hiện hành và kiểm soát sau.
Kiểm soát trước (hay có thể gọi là kiểm soát phòng chặn) là loại hình
kiểm soát mong muốn nhất, loại hình này ngăn chặn các vấn đề đã dự kiến.
Nó được gọi là kiểm soát phòng chặn bởi lẽ nó xảy ra trước khi bắt đầu hoạt
động. Nó là một biện pháp hướng đến tương lai: Đó là sự tự liệu những diễn
biến có thể xảy ra để đề phòng những rủi ro và các khó khăn tiềm ẩn. Loại
kiểm soát này đặc biệt quan trọng đòi hỏi cán bộ quản lý phải có trình độ,
phải có kinh nghiệm thực tiễn công tác và phải có tầm nhìn chiến lược. Do
vậy thực tế hiện nay việc thực hiện kiểm soát này còn nhiều vấn đề cần phải
quan tâm hơn.
Kiểm soát hiện hành (kiểm soát đồng thời) là loại kiểm soát xảy ra trong
khi một hành động khác đang diễn ra. Kiểm soát được thực hiện trong lúc công
việc tác nghiệp đang được thi hành, chúng ta có thể chỉnh sửa các vấn đề trước
khi chúng trở nên quá tốn kém. Hình thức kiểm soát hiện hành này phổ biến nhất


14
là giám sát trực tiếp. Loại kiểm soát này có tác dụng lớn trong việc làm giảm các
rủi ro, các sai sót, đảm bảo hiệu quả của công việc.
Kiểm soát sau (kiểm soát phản hồi) là loại hình kiểm soát xảy ra sau khi
hành động hoàn thành, phổ biến nhất là dựa vào sự phản hồi. Nhược điểm
lớn nhất của loại kiểm soát này là khi nhà quản lý nhận được thông tin, thì

thiệt hại đã xảy ra rồi. Nhưng đối với nhiều hoạt động, kiểm soát sau là loại
hình kiểm soát duy nhất có được. Mặc dù bị độ trễ về thời gian, song bù lại
kiểm soát sau lại có đầy đủ căn cứ để đánh giá đo lường kết quả của quá
trình tác nghiệp, đồng thời cho phép lãnh đạo đơn vị tìm giải pháp khắc phục
thiệt hại (nếu có) từ đó tìm được cách kiểm soát có hiệu quả tránh thiệt hại
trong tương lai.
1.1.2.3 . Các yếu tố cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Hệ thống kiểm soát nội bộ được hình thành trong các đơn vị có quy mô lớn
và được cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản.
Thứ nhất: Môi trường kiểm soát: Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ
nhân tố bên trong đơn vị và bên ngoài đơn vị có tính môi trường tác động đến
việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các loại hình kiểm soát nội bộ.
Các nhân tố bên trong môi trường kiểm soát bao gồm đặc thù về quản lý,
cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, ủy ban kiểm soát, kiểm
soát nội bộ.
Đặc thù về quản lý đề cập tới nhận thức các quan điểm và hành động của
các nhà quản lý cấp cao về kiểm soát nội bộ. Các quan điểm này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến chính sách, chế độ, các quy định và cách thức tổ chức kiểm tra,
kiểm soát trong đơn vị;
Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong đơn vị sẽ góp phần tạo ra
môi trưởng kiểm soát tốt. Cơ cấu tổ chức được xây dựng hợp lý trong đơn vị
sẽ đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dưới trong việc ban hành
các quyết định, triển khai cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
quyết định, triển khai cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quyết
định đó trong toàn đơn vị;


15
Chính sách nhân sự của đơn vị có ảnh hưởng rất lớn tới đội ngũ cán bộ
nhân viên - một nhân tố quan trọng trong một môi trường kiểm soát cũng như

chủ thể trực tiếp mọi thủ tục kiểm soát trong hoạt động của đơn vị. Các nhà quản
lý cần có những chính sách cụ thể và rõ ràng, hợp lý về tuyển dụng, đào tạo, sắp
xếp, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật để xây dựng một đội ngũ nhân viên có năng lực
và đáng tin cậy để hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị phát huy tối đa hiệu quả;
Công tác kế hoạch có ảnh hưởng lớn và là nhân tố quan trọng trong môi
trường kiểm soát. Công tác kế hoạch bao gồm lập các kế hoạch và dự toán như:
Kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, thu chi quỹ, kế hoạch dự toán hay đầu tư, sửa chữa
TSCĐ, kế hoạch tài chính... Trong thực tế, các nhà quản lý thường quan tâm xem
xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi những nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch
đã lập nhằm phát hiện những vấn đề bất thường và xử lý, điều chỉnh kế hoạch
kịp thời;
Ủy ban kiểm soát gồm những người trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của
đơn vị như thành viên Hội đồng Quản trị nhưng không kiêm nhiệm các chức
vụ quản lý và những chuyên gia am hiểu lĩnh vực kiểm soát. Ủy ban kiểm
soát có nhiệm vụ giám sát sự chấp hành luật pháp của đơn vị; Kiểm tra và
giám sát công việc của kiểm toán viên nội bộ; Giám sát tiến trình lập báo
cáo tài chính.
Kiểm toán nội bộ là bộ phận đánh giá độc lập về hiệu lực của kiểm soát nội
bộ, giúp kiểm soát nội bộ có được kinh nghiệm và từng bước hoàn thiện.
Môi trường bên ngoài là một hệ thống các nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng
đến sự vận hành các quy chế và các thủ tục kiểm soát nội bộ. Thuộc nhóm các
nhân tố này gồm có: Sự kiểm soát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, ảnh
hưởng của các chủ nợ, môi trường pháp lý, đường lối phát triển đất nước.
Thứ hai: Hệ thống thông tin kế toán
Trong hệ thống kiểm soát nội bộ, kế toán cung cấp cho các nhà quản lý
những thông tin tài chính đáng tin cậy. Ngoài ra nó còn giúp tổng hợp, lưu trữ
thông tin một cách có hệ thống, khoa học, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
kiểm soát nội bộ. Hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ thống chứng từ kế
toán, hệ thống TK kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống báo cáo kế toán. Trong



16
đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai trò quan trọng trong công tác
kiểm soát nội bộ của đơn vị. Thông qua việc quan sát, đối chiếu, tính toán và ghi
chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, hệ thống kế toán không những cung cấp
các thông tin cho việc quản lý mà còn có tác dụng kiểm soát nhiều mặt hoạt
động của đơn vị. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm
soát chi tiết: Không ghi chép những nghiệp vụ không có thực; Mọi nghiệp vụ
phải được phê chuẩn hợp lý; Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải được phản ánh
trọn vẹn, kịp thời và ghi chép đúng theo sơ đồ TK cũng như ghi nhận đúng đắn
trên các loại sổ sách; Số liệu kế toán được phản ánh chính xác trên báo cáo tài
chính của đơn vị.
Thứ ba: Các thủ tục kiểm soát
Thủ tục kiểm soát là những kỹ thuật (cách thức) kiểm soát được thực hiện
theo một trình tự xác định. Thủ tục kiểm soát do Ban Giám đốc đơn vị thiết lập
và thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể. Thủ tục kiểm soát thường ở
các đơn vị có thể khác nhau tuỳ thuộc vào đặc thù ở mỗi đơn vị và tùy vào loại
nghiệp vụ. Tuy nhiên, các thủ tục kiểm soát ở các đơn vị được xây dựng đều phải
dựa trên ba nguyên tắc cơ bản là: Nguyên tắc phân công, phân nhiệm, nguyên tắc
bất kiêm nhiệm, nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn.
Ngoài những nguyên tắc cơ bản đã nêu, các thủ tục kiểm soát vật chất đối
với tài sản, sổ sách và kiểm soát độc lập các hoạt động của đơn vị.

1.1.3 . Mối quan hệ giữa kiểm soát nội bộ với tổ chức hạch toán kế toán
Trong mọi hoạt động của đơn vị, chức năng kiểm tra, kiểm soát luôn giữ vai
trò quan trọng trong quá trình quản lý và được thực hiện chủ yếu bởi hệ thống
kiểm soát của đơn vị. Để thực hiện chức năng của mình kiểm soát nội bộ được
tiến hành bằng nhiều cách thức và thực hiện trên mọi lĩnh vực cũng như trong tất
cả các giai đoạn của quá trình quản lý, trong mọi bộ phận trong đó có cả bộ phận
kế toán của đơn vị. Hệ thống kế toán của đơn vị cũng là một mắt xích, một yếu

tố quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Tổ chức hạch toán kế toán khoa học
có tác dụng tạo ra mối liên hệ chặt chẽ mật thiết giữa các giai đoạn của hạch toán


17
kế toán từ giai đoạn lập chứng từ đến giai đoạn cuối cùng là đưa ra các báo cáo,
thông tin phục vụ quản lý. Trong quá trình đó, bản thân tổ chức hạch toán kế
toán với việc tạo ra mối liên hệ tối ưu giữa các phương pháp riêng của nó đã xác
lập sự kiểm tra, kiểm soát hữu hiệu. Tổ chức hạch toán kế toán tốt sẽ cung cấp
các thông tin tin cậy, kịp thời phục vụ cho việc quản lý đồng thời còn có tác
dụng kiểm soát chặt chẽ nhiều mặt hoạt động của đơn vị, từ đó giúp cho hoạt
động kiểm soát nội bộ chặt chẽ hơn, đầy đủ và toàn diện hơn, giúp cho các quyết
định của nhà quản lý đưa ra có hiệu quả, thiết thực hơn.
Việc tổ chức hạch toán kế toán khoa học, hợp lý sẽ góp phần đảm bảo thực hiện được các
mục tiêu của kiểm soát nội bộ. Như vậy, tổ chức hạch toán kế toán có vai trò quan trọng trong quá
trình cung cấp thông tin phục vụ quản lý, điều hành của đơn vị cũng như góp phần quan trọng
trong việc tăng cường kiểm soát nội bộ nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của
đơn vị đã đề ra. Chính vì vậy, việc xác lập và duy trì tổ chức hạch toán kế toán thích hợp, kết hợp
với những yếu tố kiểm soát nội bộ khác là bổn phận của các nhà lãnh đạo đơn vị.

Tổng quan

về tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường kiểm soát nội bộ tại các
ngân hàng thương mại
1.2.1. Đặc điểm chung về tổ chức và hoạt động của các ngân hàng thương
mại có ảnh hưởng đến tổ chức hạch toán kế toán và kiểm soát nội bộ
Khác với các ngành kinh tế khác, hoạt động ngân hàng gồm các nghiệp
vụ nhận gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
Trên thế giới hiện nay, hệ thống ngân hàng được chia thành 2 cấp: Ngân
hàng trung ương (ngân hàng cấp 1) và các ngân hàng trung gian (ngân hàng

cấp 2). Ngân hàng trung ương bản chất là thực hiện chức năng độc quyền
phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của Chính phủ và
chịu trách nhiệm trong việc quản lý nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín
dụng cho mục tiêu phát triển và ổn định của cộng đồng. Ở Việt Nam, Ngân
hàng trung ương là cơ quan của Chính phủ gọi là NHNN. NHNN có chức
năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát
hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng và làm dịch vụ tiền tệ cho Chính
phủ. Ban lãnh đạo NHNN bao gồm Thống đốc và Phó Thống đốc. Thống đốc


18
NHNN là thành viên của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ về
các vấn đề tiền tệ và hoạt động ngân hàng của quốc gia. NHNN được tổ chức
thành hệ thống tập trung thống nhất, có trụ sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội
và các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Các chi nhánh này thực hiện chức
năng ngân hàng trung ương trong phạm vi tỉnh và chịu sự lãnh đạo của
NHNN trung ương về tổ chức cũng như hoạt động nghiệp vụ. Tại NHNN,
nguồn vốn chủ yếu là tiền gửi của các NHTM, các TCTD, vốn vay của các
TCTD, vốn vay của các TCTC quốc tế, nguồn vốn phát hành và vốn pháp
định; tài sản chủ yếu là cho vay các TCTD, các NHTM.
Các ngân hàng trung gian là các ngân hàng không được phát hành tiền, chỉ
làm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán trong nền kinh tế, đây là một
mắt xích quan trọng nối giữa Ngân hàng trung ương với nền kinh tế cũng như là
cầu nối để những người có vốn với người cần vốn trong xã hội gặp nhau.
Ở Việt Nam, các loại hình ngân hàng trung gian gồm: Các NHTM và các
ngân hàng trung gian khác như: Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách –
Xã hội và các TCTD hợp tác. Các ngân hàng trung gian cũng có những điểm
khác nhau, đó là: NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu; NHTM
hoạt động mang tính chất phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trên
cơ sở tập trung vốn cho những khu vực kinh tế thiết yếu có tính chất quyết định

đến sự phát triển KTXH của quốc gia, mục tiêu lợi nhuận là thứ yếu; Ngân hàng
Chính sách - Xã hội hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà phục vụ cho các
đối tượng chính sách nhằm thực hiện các chính sách KTXH nhất định của quốc
gia; các TCTD hợp tác được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện bằng vốn góp
của các thành viên và chủ yếu cho các thành viên vay nhằm mục tiêu tương trợ
nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tại các ngân hàng trung gian
(ngân hàng cấp 2), nguồn vốn chủ yếu là tiền gửi các TCKT, dân cư, ngoài ra có
vốn huy động thông qua phát hành các GTCG, vốn vay NHNN, vay các TCTD
trong và ngoài nước, vốn chủ sở hữu; tài sản chủ yếu là cho vay đối với nền kinh
tế, ngoài ra còn có tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, tại các TCTD khác, đầu


19
tư chứng khoán, TSCĐ... Tổ chức bộ máy quản lý điều hành của các ngân hàng
trung gian này gồm: Hội đồng quản trị hoặc (Hội đồng quản lý), Ban kiểm soát
và Bộ máy điều hành. Bộ máy điều hành gồm: HSC, sở giao dịch, sở giao dịch
và các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố hoặc khu vực.
Tuy có khác biệt giữa ngân hàng cấp 1 và ngân hàng cấp 2 song các ngân
hàng đều có những đặc điểm chung ảnh hưởng đến kiểm soát nội bộ và tổ chức
hạch toán kế toán. Đó là:
Thứ nhất: Hoạt động của ngân hàng không chỉ có ảnh hưởng đến bản thân
ngân hàng mà còn liên quan đến đại bộ phận hoạt động kinh tế, tài chính của nền
kinh tế thông qua các quan hệ tiền tệ, tín dụng, thanh toán giữa các ngân hàng
với các doanh nghiệp, các đơn vị TCKT, các cá nhân...Do vậy, những chỉ tiêu
thông tin kế toán ngân hàng cung cấp những chỉ tiêu thông tin tài chính quan
trọng giúp quản lý, điều hành nền kinh tế. Từ đặc điểm này đòi hỏi ngoài việc
thực hiện các phương pháp, các chuẩn mực chung thì ngành ngân hàng cần xây
dựng một chế độ kế toán phù hợp để vừa phản ánh đầy đủ hoạt động của bản
thân ngân hàng, vừa phản ánh được hoạt động của nền kinh tế. Đồng thời cũng
do hoạt động đa dạng của ngân hàng mà chứng từ kế toán có khối lượng lớn,

chủng loại đa dạng và tổ chức luân chuyển phức tạp. Vì vậy, trong mọi hoạt động
của ngân hàng cũng như trong quá trình tổ chức hạch toán kế toán công tác kiểm
soát nói chung và kiểm soát nội bộ nói riêng cần được quan tâm đúng mức đảm
bảo các thông tin kế toán ngân hàng cung cấp chính xác và trung thực.
Thứ hai: Hoạt động của ngân hàng đã dẫn đến ngân hàng tập trung được
một khối lượng vốn tiền tệ rất lớn của xã hội, số vốn này thường xuyên biến
động. Vì vậy, tổ chức hạch toán kế toán ngân hàng phải đảm bảo có độ chính xác
và kịp thời rất cao đáp ứng yêu cầu hạch toán của ngân hàng cũng như toàn bộ
nền kinh tế. Các đơn vị, TCKT, các doanh nghiệp khi thực hiện các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh thì không nhất thiết phải vào sổ kế toán ngay (có thể để ngày
hôm sau) hoặc định kỳ tiến hành vào sổ kế toán thì ngược lại, tại ngân hàng công
việc này phải tiến hành đồng thời. Khi tiếp nhận chứng từ, nhân viên kế toán
ngân hàng kiểm soát chứng từ, nếu chứng từ đảm bảo hợp lệ, hợp pháp thì cho


20
hoàn thành nghiệp vụ và phản ánh ngay vào sổ kế toán thích hợp để kiểm soát số
dư TK hạn mức tín dụng để chuẩn bị sẵn sàng cho giao dịch mới. Như vậy, tổ
chức hạch toán tại các đơn vị ngân hàng sẽ tiến hành đồng thời giữa kiểm soát,
ghi sổ kế toán ngay khi có nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Các đặc điểm về tổ chức bộ máy cũng như hoạt động của các ngân hàng
cũng có ảnh hưởng nhất định, làm cho hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như tổ
chức hạch toán kế toán tại các ngân hàng có những đặc trưng riêng. Có thể thấy
điều này qua phần trình bày tiếp theo về kiểm soát nội bộ và tổ chức hạch toán
kế toán tại các NHTM.
1.2.2. Đặc điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương
mại
Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng cũng được cấu thành bởi các
yếu tố như: Môi trường kiểm soát, hệ thống thông tin kế toán và thủ tục kiểm
soát.

Thứ nhất: Môi trường kiểm soát của NHTM cũng chịu tác động của các nhân
tố bên trong đơn vị.
Một là, Đặc thù quản lý và cơ cấu tổ chức: Tại NHTM, chịu trách nhiệm
cao nhất là hội đồng quản trị. hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và xem
xét định kỳ các chiến lược kinh doanh chung và các chính sách quan trọng của
ngân hàng; Nắm bắt các rủi ro quan trọng và đặt ra các mức độ có thể chấp nhận
được đối với các rủi ro này; Phê duyệt cơ cấu tổ chức của các ngân hàng. Ban
lãnh đạo ngân hàng chịu trách nhiệm thực thi các chiến lược và các chính sách
được Hội đồng quản trị phê duyệt; Xây dựng các quy trình để nhận biết theo dõi
và kiểm soát các rủi ro. Cơ cấu tổ chức của các ngân hàng với bộ máy điều hành
phù hợp thống nhất từ trung ương đến các chi nhánh đã tạo thuận lợi cho hệ
thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả.
Hai là, Chính sách nhân sự: Các ngân hàng là một trong những ngành có
chính sách nhân sự tốt nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng có chính sách tuyển
dụng hợp lý và trả lương cao nên đã thu hút được phần lớn những cán bộ có trình
độ cao vào làm việc. Chính sách đào tạo, tập huấn luôn được đề cao, do vậy
ngân hàng đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên có năng lực và chuyên


21
nghiệp. Chính sách khen thưởng, kỷ luật gắn với chế độ đãi ngộ về vật chất đã
tạo ra tinh thần làm việc hăng say, phát huy tối đa năng lực của đội ngũ nhân
viên tạo ra hiệu quả cao trong công việc.
Ba là, Công tác kế hoạch: Với đặc thù là ngành kinh doanh tiền tệ nên
các kế hoạch của ngân hàng rất được chú trọng. Bên cạnh các kế hoạch như
thu chi quỹ, kế hoạch đầu tư TSCĐ, kế hoạch huy động vốn, kế hoạch sử
dụng vốn... thì kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của các ngân hàng cũng rất
cần được quan tâm. Chính vì vậy mà đội ngũ của nhân viên ngân hàng là
một trong những đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, hiện đại nhất trong các
ngành kinh tế.

Bốn là, Ủy ban kiểm soát: Tại các NHTM, ban kiểm soát độc lập với bộ
máy điều hành của ngân hàng, trực thuộc hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm
trước hội đồng quản trị kiểm soát toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Ban kiểm
soát có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Kiểm tra, giám sát việc chấp hành chủ
trương, chính sách, chế độ thể lệ nghiệp vụ trong hoạt động của ngân hàng nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đảm bảo an toàn tài sản nhà nước,
tài sản của ngân hàng, báo cáo với hội đồng quản trị kết quả kiểm tra, giám sát
và kiến nghị các biện pháp xử lý.
Năm là, Môi trường kiểm soát bên ngoài: NHNN chịu sự giám sát của
Chính phủ còn các ngân hàng trung gian theo điều lệ tổ chức và hoạt động chịu
chỉ đạo, giám sát của NHNN. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải tuân thủ các chế
độ tài chính, kế toán do NHNN hoặc BTC ban hành; đồng thời chịu sự kiểm tra,
thanh tra tài chính của Chính phủ, chịu sự kiểm tra, giám sát của NHNN và các
bộ, ngành chức năng khác theo quy định của pháp luật.
Sáu là, Môi trường pháp lý, chịu ảnh hưởng của các luật liên quan đến lĩnh
vực tín dụng như Luật Các TCTD, Luật NHNN Việt Nam, các luật thuế, Luật
Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đất đai... và chính sách tiền tệ, tín dụng cũng như
chính sách đầu tư phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Thứ hai: Hệ thống thông tin kế toán trong các NHTM
Các NHTM với chức năng kinh doanh, trực tiếp phục vụ nền kinh tế nên
đặc trưng của đối tượng hạch toán kế toán là tạo vốn khả dụng và các hoạt


22
động kinh doanh phục vụ khách hàng. Chính vì vậy, ngành ngân hàng không
những không thể sử dụng hệ thống TK thống nhất trong nền kinh tế mà xây
dựng hệ thống TK riêng.
Chế độ hạch toán của từng cấp ngân hàng là khác nhau, song nhiệm vụ
chính của kế toán ngân hàng là:
Một là: Ghi nhận, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh

tế phát sinh thuộc về hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng theo
Luật Kế toán và các chế độ, thể lệ kế toán ngân hàng.
Hai là: Phân loại nghiệp vụ, tổng hợp số liệu nhằm cung cấp thông tin một
cách đầy đủ, chính xác và kịp thời phục vụ cho công tác quản lý, điều hành hoạt
động của ngân hàng.
Ba là: Giám sát quá trình sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, củng cố chế độ hạch toán kinh tế
trong toàn bộ nền kinh tế.
Bốn là: Tổ chức giao dịch phục vụ hàng hóa một cách khoa học, văn minh,
cung cấp các dịch vụ thanh toán nhanh chóng, kịp thời.
Thứ ba: Các thủ tục kiểm soát
Để điều hành và kiểm soát các hoạt động trong toàn hệ thống, các ngân
hàng cũng có những nguyên tắc riêng về hệ thống kiểm soát nội bộ. Dựa trên các
nguyên tắc chung của việc xây dựng thủ tục kiểm soát nội bộ như nguyên tắc
phân công, phân nhiệm; bất kiêm nhiệm; ủy quyền và phê chuẩn phù hợp với
đặc thù của lĩnh vực có nhiều rủi ro nên các nguyên tắc cơ bản trên cũng cần
được cụ thể hóa thêm. Cụ thể, trong hệ thống ngân hàng đã quy định thực hiện
kiểm soát nội bộ như:
Một là, Các đơn vị phải ban hành quy chế làm việc của lãnh đạo đơn vị,
quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của từng cán bộ lãnh đạo trong điều
hành và xử lý công việc. Thủ trưởng đơn vị thực hiện ủy quyền và phân cấp
trách nhiệm đảm bảo kiểm soát toàn diện hoạt động của đơn vị;
Hai là, Ban lãnh đạo có trách nhiệm phổ biến thường xuyên, kịp thời các
văn bản chế độ của Nhà nước liên quan đến hoạt động ngân hàng, các quy chế,
quy trình đến tất cả các cán bộ, nhân viên trong đơn vị;


23
Ba là, Trong việc phân công nhiệm vụ phải đảm bảo mọi công việc đều có
người thực hiện và có người kiểm tra lại, mỗi cá nhân đều phải tự kiểm soát và

chịu trách nhiệm về công việc được giao;
Bốn là, Lãnh đạo từng cấp phải đánh giá đúng mức độ rủi ro của từng
nghiệp vụ để đề ra các biện pháp phù hợp.
1.2.3. Tổ chức hạch toán kế toán với hệ thống kiểm soát nội bộ tại các ngân
hàng thương mại
1.2.3.1. Yêu cầu của tổ chức hạch toán kế toán tại ngân hàng thương mại
Tổ chức hạch toán kế toán tại ngân hàng là việc vận dụng Luật Kế toán, các
chuẩn mực, chế độ kế toán cho phù hợp với điều kiện về tổ chức hoạt động của
ngân hàng, trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ cụ thể của đơn vị. Tổ chức tốt
hạch toán kế toán ở ngân hàng đảm bảo cho việc thu nhận, hệ thống hóa thông
tin kế toán đầy đủ, kịp thời, đáng tin cậy phục vụ cho công tác quản lý kinh tế tài
chính ở tầm vĩ mô và giúp ngân hàng quản lý chặt chẽ của bản thân ngân hàng,
của xã hội gửi và bảo quản tại ngân hàng, ngăn ngừa được hành vi làm tổn thất
tài sản của ngân hàng.
Tổ chức hạch toán kế toán tại ngân hàng khoa học và hợp lý cần phải đáp
ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất: Tổ chức hạch toán kế toán phải đảm bảo thu nhận và hệ thống
hóa thông tin về toàn bộ hoạt động kinh tế, tài chính ở ngân hàng nhằm cung cấp
thông tin kế toán đáng tin cậy phục vụ cho công tác quản lý về hoạt động tiền tệ,
dịch vụ ngân hàng và quản trị ngân hàng, đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của
mọi đối tượng bên ngoài ngân hàng.
Thứ hai: Tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với quy mô và đặc điểm
tổ chức hoạt động kinh doanh, phân cấp quản lý của đơn vị ngân hàng.
Thứ ba: Tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với trình độ, khả năng của
đội ngũ cán bộ kế toán và trình độ trang bị các phương tiện kỹ thuật tính toán,
ghi chép của đơn vị ngân hàng.
Thứ tư: Tổ chức hạch toán kế toán phải phù hợp với chế độ kế toán ngân
hàng hiện hành.
Việc quán triệt các yêu cầu nói trên trong tổ chức hạch toán kế toán sẽ đảm
bảo hoàn thành tốt được nhiệm vụ của kế toán ngân hàng với chi phí thấp, đạt



24
hiệu quả cao. Sau đây Tác giả xin được trình bày khái quát nội dung chủ yếu của
tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường kiểm soát nội bộ tại ngân hàng.
1.2.3.2. Nội dung của tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường kiểm
soát nội bộ tại các ngân hàng
Tổ chức hạch toán kế toán trong các NHTM tuy có những khác biệt so với
các ngành kinh tế khác, song nội dung chủ yếu của tổ chức hạch toán kế toán
theo giai đoạn kết hợp với các phương pháp kế toán trong các phần hành kế toán
trong các ngân hàng cũng gồm có các công việc sau:
Thứ nhất: Tổ chức bộ sổ kế toán phù hợp với hệ thống phương pháp kế
toán. Cụ thể:
Một là, Tổ chức hệ thống chứng từ kế toán: Chứng từ kế toán ngân hàng là
những giấy tờ, vật mang tin chứng minh tính pháp lý của các nghiệp vụ kinh tế,
tài chính phát sinh và đã hoàn thành tại các ngân hàng. Nó là căn cứ pháp lý cho
việc hạch toán hàng ngày trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Đặc trưng
của chứng từ ngân hàng là có khối lượng lớn, đa chủng loại và luân chuyển phức
tạp. Theo nguồn gốc, có chứng từ do khách hàng lập, chứng từ do ngân hàng lập
và chứng từ do ngân hàng khác chuyển giao. Do đối tượng hạch toán kế toán của
ngân hàng là tiền, một sai sót cũng có thể gây hậu quả lớn, vì vậy, các chứng từ
ngân hàng trước khi hạch toán vào các loại sổ sách luôn được kiểm soát kỹ về
tính hợp lệ, hợp pháp của nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh, tính chính xác
của số liệu ghi trên chứng từ, kiểm tra ký hiệu mật ghi trên chứng từ và kiểm
soát đối chiếu dấu, chữ ký trên chứng từ. Đặc biệt, quá trình luân chuyển chứng
từ luôn được chú trọng và được quy định cụ thể từ khâu tiếp nhận và kiểm soát
chứng từ, xử lý chứng từ, xử lý chứng từ, hạch toán vào sổ sách kế toán, đóng
chứng từ, xử lý chứng từ thành tập nhật ký đến khâu cuối cùng là lưu trữ, bảo
quản chứng từ. Việc quy định hệ thống chứng từ phù hợp đã đảm bảo các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh được kiểm soát chặt chẽ và xử lý kịp thời, đảm bảo độ chính

xác góp phần cung cấp các thông tin nhanh và chính xác phục vụ kiểm soát nội
bộ tại các ngân hàng.
Hai là, Tổ chức hệ thống TK và sổ kế toán tổng hợp: Hệ thống TK kế toán
ngân hàng là công cụ để ghi chép phản ánh hàng ngày đối với hoạt động nguồn


25

vốn và sử dụng vốn tại các ngân hàng. Hệ thống TK kế toán áp dụng cho NHNN
riêng và hệ thống TK áp dụng cho các ngân hàng trung gian riêng: NHNN áp
dụng Hệ thống TK Kế toán NHNN ban hành theo Quyết định Số 425/1998/QĐNHNN2 ngày 17/12/1998 của Thống đốc NHNN (được sửa đổi bổ sung theo
Quyết định Số 1638/2003/QĐ-NHNN ngày 26/12/2003); NHTM áp dụng theo
Hệ thống TK Kế toán các TCTD ban hành theo Quyết định Số 479/2004/QĐNHNN ngày 29/04/2004 và Quyết định Số 807/2005/QĐ-NHNN ngày
01/06/2005 của Thống đốc NHNN (được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số
29/2006/QĐ-NHNN ngày 10/07/2006. Hiện nay, tuy Hệ thống TK của từng ngân
hàng có thể không giống nhau, song hệ thống TK mà các ngân hàng đang áp
dụng cũng như hệ thống TK kế toán của các ngành kinh tế khác cũng gồm có các
TK nội Bảng và TK ngoại Bảng và cũng được phân thành TK tổng hợp và TK
chi tiết. Hệ thống TK tổng hợp do NHNN quy định từ cấp I đến cấp III; các ngân
hàng trung gian tùy theo yêu cầu nghiệp vụ của mình quy định các TK cấp IV,
cấp V và các TK chi tiết một cách phù hợp. Trong hệ thống đó NHNN quản lý
tới TK cấp III để đảm bảo thống nhất chỉ tiêu báo cáo, lập bảng cân đối thống kê
tiền tệ và bảng cân đối thanh toán quốc tế của toàn ngành. Việc quy định hệ
thống TK kế toán tổng hợp và chi tiết trong các ngân hàng cùng với việc ứng
dụng công nghệ tin học trong tổ chức hạch toán kế toán đã giúp cung cấp các
thông tin tổng hợp và chi tiết một cách nhanh chóng và chính xác phục vụ cho
việc đạt được các mục tiêu hiệu quả hoạt động và mục tiêu thông tin của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong các NHTM.
Hạch toán tổng hợp là hình thức tập hợp số liệu của hạch toán chi tiết theo
các chỉ tiêu TK tổng hợp (từ cấp I đến cấp III) để cung cấp những thông tin kinh

tế tổng hợp phục vụ cho việc chỉ đạo điều hành hoạt động của ngân hàng và
kiểm tra trở lại đối với hạch toán chi tiết. Các sổ của hình thức này là: Nhật ký
chứng từ, bảng kết hợp TK, sổ cái và bảng cân đối TK ngày. Để hình dung rõ
hơn có thể xem sơ đồ tổ chức hạch toán tại ngân hàng trong điều kiện công nghệ
kế toán ngân hàng ở trình độ thấp (Sơ đồ 1.1). Trong điều kiện công nghệ kế
toán hiện đại, kế toán tổng hợp có thể thực hiện đồng thời. Từ cơ sở dữ có khi
được nhập số liệu của các nghiệp vụ phát sinh vào máy tính, sổ kế toán tổng hợp
và chi tiết sẽ có được từ kết quả xử lý của hệ thống. Như vậy, mối quan hệ giữa


×