Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

157 t3 vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ LGBT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.01 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC……………………….
----- -----

TÁC GIẢ..........

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
VIỆC HỖ TRỢ TRẺ LGBT BỊ GÂY HẤN TRONG HỌC
ĐƯỜNG TẠI BẾN TRE

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ

......., năm 2020


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CTXH

Công tác xã hội

LGBT

Đồng tính, song tính, chuyển giới

HTTL

Hỗ trợ tâm lý

HVGH


Hành vi gây hấn


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của trẻ quyết định không nhỏ đến vận mệnh của một đất nước.
Trẻ cần được yêu thương, quan tâm, chăm sóc và bảo vệ. Việc bảo vệ trẻ không
chỉ diễn ra với những trẻ phát triển bình thường mà ngay cả những trẻ LGBT
(đồng tính, song tính, chuyển giới)
Đối với vấn đề quyền của trẻ, trẻ LGBT được phỏng vấn cho hay các em ý
thức rất rõ về quyền trẻ em của mình gồm cả quyền được bộc lộ bản dạng giới.
Tuy nhiên, trên thực tế, trẻ LGBT luôn chịu thua thiệt về mình và thường xuyên
bị các nhóm/ cá nhân khác trong xã hội đe dọa, gây hấn .
Gây hấn và những hành vi gây hấn là hiện tượng tiêu cực của đời sống và
đang là một vấn đề vô cùng nhức nhối của toàn xã hội. Hành vi gây hấn đã tồn
tại từ lâu dưới nhiều hình thức, cấp độ khác nhau, không ngoại trừ ở bất cứ xã
hội và nền văn hóa nào. Bản thân nó có thể gây nên những hậu quả khôn lường
làm ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực trong đời sống con người.
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực giáo dục, các nhà trường cũng đang phải đối mặt
và chịu nhiều áp lực nặng nề từ các vấn nạn học đường như bạo lực, bỏ học, tự
tử, áp lực học tập, nghiện ngập,… mà trong đó hiện tượng gây hấn trong trường
học đã và đang hiện hữu, vẫn là vấn đề đáng lo ngại không chỉ đối với ngành
giáo dục, với gia đình học sinh mà cả toàn xã hội nói chung. Tình trạng của một
bộ phận không nhỏ học sinh hành xử mang tính bạo lực, sát phạt, đe dọa nhau…


là biểu hiện của sự tha hóa về nhân cách đang trở thành vấn đề nhức nhối trong
xã hội ngày nay.
Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, được hình thành bởi

cù lao An Hoá, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu
Long bồi tụ mà thành. Bến tre là vùng phát triển kinh tế năng động với các
ngành dịch vụ du lịch và buôn bán kinh doanh. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bến
Tre, ngành giáo dục đang phải đối mặt với vấn đề liên quan đến tình trạng trẻ
LGBT bị gây hấn trong học đường. Thực trạng gây hấn trong học đường diễn ra
rất phức tạp, ở mức độ cao. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần có những hoạt động
phòng ngừa, ngăn chặn và giải quyết về mặt lâu dài với vấn nạn này. Trong đó
công tác xã hội học đường là một trong những biện pháp can thiệp hữu hiệu, cần
được đưa vào trường học và đẩy mạnh thực hiện. Thông qua vai trò trợ giúp của
nhân viên công tác xã hội sẽ giúp phòng ngừa và ngăn chặn tình trạng trẻ LGBT
bị gây hấn trong học đường, tiến tới xây dựng môi trường học tập lành mạnh, an
toàn và thân thiện.
Xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn trên, việc lựa chọn đề tài “Vai trò của nhân
viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường
tại Bến Tre” là cần thiết và có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1.

Các nghiên cứu nước ngoài

* Nghiên cứu về hành vi gây hấn:
Trên phương diện lí thuyết, các nghiên cứu về HVGH chủ yếu tập trung tìm
hiểu khái niệm, bản chất, nguồn gốc và cách thức giảm thiểu hành vi này ở con
người. Từ những thập niên 60 của thế kỉ XX, các nhà Tâm lí học đều thừa nhận
rằng gây hấn là một khái niệm khó nắm bắt và người ta đã tranh cãi gay gắt về
cách định nghĩa gây hấn một cách chính xác nhất (Baron, 1997; Berkowitz, 1969;


Buss, 1961; Zillmann, 1979). Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau song phần l n các
nhà tâm lí học đều thống nhất một cách hiểu về khái niệm HVGH như là cách cư

xử có chủ ý, gây tổn thương cho người khác, nhờ đó quá trình nghiên cứu phân
tích và đưa ra các giải pháp được dễ dàng và cụ thể hơn, giảm thiểu các hiệu quả
tiêu cực do hành vi này mang lại. Một câu hỏi đặt ra là gây hấn do yếu tố bẩm sinh
qui định hay đó là kết quả của những gì con người học được trong quá trình sống?
Thuyết bản năng của S. Frued (1920), và Konrad Lorenz (1966) đã xem xét sự gây
hấn như là một bản năng bẩm sinh. Thuyết này khẳng định HVGH là cần thiết
nhằm đảm bảo cho các cá thể tồn tại. Các cá thể phải gây chiến vinhau để giành cơ
hội tiếp cận vinhững nguồn tài nguyên có giá trị như lương thực, đất đai, địa vị xã
hội…Gây hấn là cần thiết trong nỗ lực đấu tranh để tồn tại và chọn lọc tự nhiên
thuận tiện cho sự phát triển bản năng hiếu chiến của con người
Một đại diện khác của thuyết bẩm sinh là Cesare Lombroso (1835 -1909),
nhà tội phạm học Italia, coi những dị dạng về sinh lí, giải phẫu cơ thể người là
nguồn gốc của HVGH. Chẳng hạn, những người trán thấp, mũi tẹt, quai hàm và
xương gò má cao, mắt xếch, lông mày đen rậm, bàn chân to bè… là những người
có đặc điểm thuận lợi để phát sinh hung tính. Nhà nhân chủng học người Mỹ
W.Shendon đã cố gắng tìm mối liên hệ giữa hành vi cá nhân vi kiểu loại cơ thể.
Ông khái quát thành ba kiểu cơ thể cơ bản. Thứ nhất, kiểu Endomorph (tròn, béo,
mềm); thứ hai, kiểu Mesomorph (lực lưỡng) và cuối cùng là kiểu Ectomorph (gầy,
yếu t). Theo Shendon, kiểu Mesomorph gần vinhững hành vi hung tính nhất vì dễ
bị kích động, nóng nảy, dễ căng thẳng thần kinh…kiểu Endormorph dễ khoan
dung, dễ bằng lòng và thân thiện, còn loại Ectomorph lại quá nhạy cảm, dễ nhụt
chí, nản lòng.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, các lí thuyết về loại cơ thể không có cơ sở
khoa học xác đáng và chỉ dựa vào một số dữ kiện quan sát kinh nghiệm nên các
loại lí thuyết này không được chấp nhận rộng rãi. Lí thuyết nhiễm sắc thể là hư ng


nghiên cứu quan hệ nhiễm sắc thể giớitính vihành vi lệch chuẩn, hung tính. Dựa
trên các nghiên cứu về sự kết hợp các nhiễm sắc thể X và Y, một số nhà khoa học
cho rằng, những người nam giớicó nhiễm sắc thể giới tính XYY (thêm Y) thường

có hành vi quá khích, hung bạo dễ dẫn đến phạm tội. Mặc dù những nghiên cứu
này ngày càng thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học nhưng hiện nay
vẫn chưa có sức thuyết phục. Khác với thuyết bẩm sinh, thuyết nội tâm cho chúng
ta thấy nguồn gốc gây hấn không phải do bản năng sống, do gien hay do đặc điểm
giải phẫu cơ thể qui định, gây hấn bắt nguồn từ sự đáp lại những hụt hẫng và đau
đớn.
Hai tác giả Doller và Miller (1939) cho rằng nếu một người bị ngăn cản
hoạt động để đạt tới mục đích nào đó sẽ có nguy cơ bị hụt hẫng. Anh ta sẽ phản
ứng đối vinhững hụt hẫng đó bằng cách gây hấn vi người hoặc vật thể cản trở hoạt
động của anh ta nhằm mau chóng thoát khỏi trạng thái không thể chịu nổi đó.
Thuyết tập nhiễm xã hội lại cho rằng, gây hấn là kết quả của sự bắt chước và học
hỏi xã hội.
Theo tác giả Bandura (1973), phần lớn các ứng xử của con người có được là
do bắt chước. Nếu bố mẹ, thầy cô giáo tỏ ra hung hãn thì trẻ sẽ mau chóng bắt
chước và thấy hành vi đó là bình thường. Ngược lại, nếu trẻ bị phạt một cách đúng
mức vì cách ứng xử thô bạo thì tần số các HVGH của chúng cũng sẽ giảm dần.
Ngoài ra trẻ dễ bị rơi vào các tưởng tượng hung tính, nhất là khi xem các bộ phim
bạo lực và đồng nhất mình vicác nhân vật trong phim andura và các nhà tâm lí học
theo thuyết học tập xã hội khẳng định phim ảnh có một tầm quan trọng trong việc
hình thành và củng cố các ứng xử gây hấn ở trẻ
Tóm lại, đã có nhiều lí thuyết giải thích về HVGH dựa trên cơ sở sinh học,
xã hội học và tâm lí học và đã chỉ ra được bản chất, nguồn gốc của nó. Tuy nhiên,
mỗi lí thuyết khác nhau có những cách lí giải khác nhau về nguồn gốc phát sinh
cũng như những phương pháp trị liệu khác nhau đối với HVGH nhưng chưa đưa ra


được một phương pháp trị liệu tổng quát cho việc giảm thiểu, ngăn ngừa hành vi
này một cách tích cực và hiệu quả.
* Nghiên cứu về hành vi gây hấn học đường
Ngoài các nghiên cứu lí thuyết trên, gần đây các nghiên cứu thực tiễn về tình

trạng gây hấn trong trường học được các nhà nghiên cứu phương Tây đặc biệt quan
tâm. Năm 2001, một nghiên cứu được thực hiện tại Mỹ bởi Tonja Nansel và đồng
nghiệp chỉ ra rằng trong số hơn 15000 học sinh Mỹ có khoảng 17% học sinh cho
biết họ thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bị bắt nạt trong cả năm học; gần 19% họ
thỉnh thoảng hoặc thường xuyên bắt nạt các bạn khác và 6% cho rằng họ vừa đi bắt
nạt người khác vừa là nạn nhân của bắt nạt.
Những nghiên cứu gần đây ở Mỹ đã chỉ ra rằng cứ 7 phút lại có một trẻ em bị
bắt nạt. Cứ 4 trẻ em lại có một trẻ thừa nhận đã từng bắt nạt trẻ em khác. Một cuộc
thăm dò thực hiện ở trẻ em có độ tuổi từ 12 - 17 cho thấy, các em đều thừa nhận
bạo lực đang gia tăng tại trường học của mình. Mỗi tháng có 282.000 học sinh ở
các trường THCS Mỹ bị tấn công. Cũng tại Mỹ, nghiên cứu của Hội đồng phòng
chống tội phạm quốc gia (NCPC) cũng khẳng định 43% học sinh cả nam lẫn nữ
thuộc độ tuổi từ 13 - 17 tuổi từng bị dọa nạt hoặc chế giễu trên mạng internet
Theo các nghiên cứu thực hiện ở Châu Âu, bạo lực học đường xảy ra thường
xuyên ở trường tiểu học, mà trong đó có tới khoảng 15% số học sinh tham gia. Ở
bậc THCS, tỉ lệ học sinh bị bắt nạt là từ 3% -10%, với mức độ cao đột biến ở độ
tuổi 13 - 14 khi các em học sinh bắt đầu tuổi dậy thì. Đến cấp trung học phổ thông,
nạn bạo lực học đường cũng đã có xu hướng giảm đi.

Tại Na Uy, nghiên cứu của nhà Tâm lí học Roland (2002) về động cơ gây hấn
của trẻ em đã luận giải được nguồn gốc gây hấn ở trẻ em xuất phát từ cảm giác
chán nản, thất vọng khiến các em tham gia vào bắt nạt người khác.B ằng cách bắt
nạt người khác, trẻ em cảm thấy tốt hơn. Tác giả đã chọn mẫu nghiên cứu hơn 2


ngàn trẻ em Na uy và yêu cầu các em trả lời câu hỏi được xây dựng để đo lường: 1/
mức độ thèm muốn có quyền lực của chúng đối vi người khác, 2/ sự thèm muốn
của chúng khi là một phần của nhóm quyền lực, 3/ xu hư ng của chúng khi không
hạnh phúc hay chán nản. Trong nghiên cứu của Roland, các trẻ em được đề nghị
xác định chúng thường bắt nạt các bạn khác như thế nào? Kết quả phát hiện một số

khác biệt khá thú vị: các bé trai thể hiện việc thèm muốn có quyền lực hay được là
một thành viên của nhóm quyền lực có liên quan đặc biệt tới bắt nạt; các bé gái có
cả ba động cơ trên và đều liên quan đến bắt nạt. Điều này cho thấy các bé gái gây
hấn vicá nhân khác không nhằm mục đích trả đũa mà đó chỉ là một cách để chống
lại trạng thái tiêu cực, chán nản.
Ở Anh, những nghiên cứu mới nhất được thực hiện liên quan đến HVGH học
đường từ năm 2015 cho thấy 60% học sinh London tin rằng HVGH diễn ra nghiêm
trọng lớp các em. Có tới 2/3 học sinh thừa nhận đã quấy rối bạn học của mình.
Tình trạng gây hấn trong trường học nghiêm trọng tới mức số học sinh bị các
trường đuổi học đã tăng 14% trong năm. Cùng với sự bùng nổ của công nghệ
truyền thông, nạn “khủng bố” qua điện thoại di động và mạng internet không
ngừng gia tăng. Số liệu nghiên cứu cho thấy, có tới1/5 số học sinh cho biết thường
xuyên nhận được thư điện tử hoặccác tin nhắn ác ý qua điện thoại di động. Trong
năm 2007, một cuộc khảo sát của 6000 giáo viên của công đoàn giáo viên phát
hiện thấy có hơn 16% giáo viên bị học sinh hành hung. Trong tháng 4/2009, Hiệp
hội các giáo viên và giảng viên khảo sát một cách chi tiết hơn 1000 thành viên của
họ và phát hiện thấy gần 1/4 trong số giáo viên đã tiếp nhận trường hợp bạo lực có
liên quan đến thể chất ở học sinh.
Còn tại Châu Á, theo một nghiên cứu của chính phủ Nhật Bản vào năm 2013,
nạn gây hấn giữa học sinh với nhau trong các trường học Nhật Bản đã tăng hơn 5%
so với trước đó. Cũng trong năm này, sách trắng về thanh thiếu niên thống kê có
23.351 vụ bắt nạt trong các trường tiểu học và trung học công lập, thậm chí tình


trạng này cũng xảy ra ngay cả trong các trường khiếm thính, khiếm thị và khuyết
tật khác.
Cũng tại Nhật Bản, một cuộc khảo sát của Bộ Giáo dục Nhật Bản chỉ ra rằng
học sinh ở các trường công lập tham gia vào một số lượng kỉ lục các sự cố bạo lực
trong năm 2017 là 52.756 trường hợp. Trong đó giáo viên là mục tiêu của gần 7000
cuộc tấn công. Tính đến thời điểm năm học kết thúc vào ngày 31/3/2008, số vụ bạo

lực do học sinh gây ra ở nướcnày đã tăng 18%, nâng tổng số vụ bạo lực học đường
lên 53000 vụ. Còn theo số liệu từ cuộc khảo sát của Viện Nghiên cứu Chính sách
giáo dục Quốc gia cho thấy có khoảng 86,9% học sinh bi bắt nạt mà không báo cáo
vingười có trách nhiệm ít nhất một lần trong 3 năm qua. Tỉ lệ này có ở học sinh
THCS là 80,3%.
Tại Hàn Quốc, theo một cuộc khảo sát của Bộ giáo dục nướcnày, năm 2017
khẳng định tình trạng GHHĐ đã gia tăng ở nướcnày. 15,9% học sinh thú nhận từng
bị bạo lực học đường. So với năm 2003, tỉ lệ học sinh bị bạn học đe dọa, trấn lột
hoặcbắt nạt đều cao gấp từ 2 đến 3 lần. Để ngăn ngừa tình trạng này, cùng với việc
thi hành luật, người dân nướcnày cũng đã tham gia nhiều cuộc vận động, tư vấn để
nâng cao nhận thức về bạo lực học đường cũng như các biện pháp khác nhằm hỗ
trợ các nạn nhân là học sinh
Điểm qua các nghiên cứu lí thuyết và thực tiễn về HVGH nói chung, HVGH
học đường nói riêng ở nước ngoài cho thấy, tình trạng GHHĐ ở học sinh nói
chung, học sinh THCS nói riêng là rất đáng báo động. Các nghiên cứu đó đã đề
xuất nhiều biện pháp nhằm mục đích giảm thiểu tình trạng GHHĐ của học sinh
dưới các góc độ y học, tâm lí học, xã hội học... nhưng chưa triệt để và có hiệu quả
trị liệu đến tận gốc. Riêng biện pháp giảm thiều HVGH của học sinh dưới góc độ
CTXH có thể tác


động và giúp đỡ từng cá nhân riêng biệt thì chưa có tác giả nảo nghiên cứu
một cách đồng bộ cả về lý luận và thực tiễn .
2.2. Các nghiên cứu trong nước
* Nghiên cứu về hành vi gây hấn:
Hiện nay, ở Việt Nam, có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về lí thuyết
HVGH nói chung và GHHĐ nói riêng. Đến năm 2011, mớicó một cuốn sách
chuyên khảo “Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm lí học xã hội” của tác
giả Trần Thị Minh Đức. Trong cuốn sách này, tác giả đã đề cập tương đối có
hệ thống cơ sở lí luận và thực tiễn về HVGH được phân tích dướigóc độ Tâm

lí học xã hội.
Ngoài ra, cuốn giáo trình “Tâm lí học xã hội” (Dùng cho sinh viên ngành
Công tác xã hội) của tác giả Phạm Văn Tư và cộng sự (2012) cũng đề cập đến
một số vấn đề lí luận về gây hấn và HVGH. Trong đó, các tác giả đã nghiên
cứu ở góc độ lí luận về HVGH và chỉ ra được khái niệm, nguồn gốc, bản chất,
nguyên nhân gây hấn, cũng như các cách tiếp cận HVGH… nhưng chưa đề
cập đến thực trạng HVGH học đường cũng như các biện pháp giảm thiểu
hành vi này.
* Nghiên cứu về hành vi gây hấn học đường
Dưới góc độ thực tiễn HVGH của học sinh trong môi trường học đường,
mặcdù tình trạng gây hấn trong trường học giữa học sinh với học sinh và các
thầy cô giáo đã được báo chí và các phương tiện truyền thông đăng tải khá
nhiều. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể về thực trạng hành vi này hầu như rất ít.
Chủ yếu các đề tài, bài báo tập trung vào việc nghiên cứu về hành vi lệch
chuẩn của học sinh, cụ thể như sau:
-

Hung tính ở trẻ em (Phạm Hoàng Hà, Hoàng Gia Trang, 2012);

-

Một vài hiện tượng tiêu cực trong thanh niên hiện nay và công tác giáo

dục vận động thanh niên (Lê Ngọc Dung, Hồ Bá Thông, 2014);
-

Bạo hành đối với trẻ em gái trong môi trường học đường (Nguyễn

Phương Thảo và cộng sự, 2015);



- Hành vi sai lệch chuẩn mực của học sinh tại một số trường phổ thông ở
Hà Nội (Tạp chí phát triển giáo dục - Hoàng Gia Trang, 2015);
- Ảnh hưởng của nhóm bạn không chính thức đến hành vi phạm pháp
của trẻ vị thành niên (Mã Ngọc Thể, 2014);
- Tìm hiểu những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội của học sinh Trường
phổ thông trung học dân lập Đinh Tiên Hoàng (Nguyễn Thị Phương, 2016);
- Cách thức cha mẹ quan hệ vớicon cái và hành vi lệch chuẩn của trẻ
(Lưu Song Hà, 2018).
Những nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về hành vi lệch chuẩn của
thanh thiếu niên - một lĩnh vực rộng hơn nhiều HVGH. Trong đó, các tác giả
đã chỉ ra được các vấn nạn học đường trong xã hội Việt Nam như hiện tượng
thầy, cô giáo đánh đập, làm nhục học sinh, những hành vi lệch chuẩn của học
sinh và nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn. Từ những nghiên cứu này,
các tác giả mới chỉ đề xuất được các biện pháp làm giảm thiểu hành vi lệch
chuẩn nói chung nhưng chưa đi sâu về phương diện HVGH của học sinh nói
riêng. Thêm vào đó, các đề tài, bài báo trên cũng chưa đề cập đến các biện
pháp CTXH trong hỗ trợ học sinh ngăn ngừa và giảm thiểu hành vi tiêu cực
này.
Gần đây, HVGH học đường mớiđược tập trung nghiên cứu một cách
trực tiếp. Có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học có liên
quan đến HVGH trong phạm vi trường học của học sinh như sau:
Gây hấn học đường và nhận thức của học sinh về gây hấn (Trần Thị
Minh Đức, 2017).
-

Khác biệt gi i trong hành vi gây hấn của học sinh trung học phổ thông

(Hoàng Xuân Dung, 2017);
-


Hành vi gây hấn của học sinh trung học phổ thông (Trần Thị Minh

Đức, Hoàng Xuân Dung, 2017 - 2018);
-

Những nghiên cứu trên đã chỉ ra được thực trạng HVGH của học sinh

trung học phổ thông trong trường học để qua đó giúp giáo viên và phụ huynh
học sinh rút ra được phương thức giáo dục hợp lí nhằm ngăn ch n các HVGH
của học sinh trong trường học.


Tiếp cận vấn đề GHHĐ dưới góc độ CTXH có thể nói là một khía cạnh
mới mẻ trong việc can thiệp nhằm giảm thiểu hành vi tiêu cực này tại môi
trường học đường. Ngay từ khi mớira đời, CTXH đã chứng minh được tính
hiệu quả của nó trong việc can thiệp, trợ giúp các nhóm yếu thế giải quyết vấn
đề, phát huy tiềm năng và huy động các nguồn lực giúp các nhóm yếu thế
vươn lên trong cuộc sống. Mặcdù CTXH mớichỉ xuất hiện ở Việt Nam trong
những năm gần đây nhưng đã có nhiều đề tài về CTXH tập trung vào can
thiệp, trợ giúp trẻ em (trẻ em lang thang, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS,
trẻ em bị xâm hại…) can thiệp, trợ giúp người nghiện ma túy, người hành
nghề mại dâm, người đồng tính, người nghèo…Tuy nhiên mảng ứng dụng
CTXH vào môi trường học đường để giúp học sinh giảm thiểu hành vi tiêu
cực và hình thành hành vi tích cực còn ít được chú ý nghiên cứu. Trên thực tế,
có thể thấy những hiện tượng như bạn bè bắt nạt, nói xấu nhau, tung tin đồng,
tẩy chay hay cô lập bạn bè còn chưa được đánh giá và quan tâm nghiên cứu
đúng mức từ góc độ CTXH. Các biện pháp được đề xuất để giảm thiểu hành
vi tiêu cực của học sinh chủ yếu ở các góc độ pháp luật, tâm lí, giáo dục…mà
chưa đưa ra được biện pháp can thiệp CTXH.

Điểm qua các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy, các nhà
nghiên cứu về HVGH ở học sinh đã đề xuất một số biện pháp nhằm mục đích
giảm thiểu hành vi này ở học sinh nhưng chưa có đề tài nào tiếp cận dưới góc
độ CTXH nên chưa đưa ra được biện pháp can thiệp của CTXH nhằm giảm
thiểu HVGH của học sinh. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu về vai
trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong
học đường. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn để tài “Vai trò của nhân viên công tác
xã hội trong việc hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường tại Bến Tre” là
đề tài mới, có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn.


3. Ý nghĩa của đối tượng nghiên cứu
3.1.

Ý nghĩa về mặt lý luận

- Cung cấp bằng chứng khoa học thực nghiệm, là bước đệm cho các
nghiên cứu về vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ
LGBT bị gây hấn trong học đường ở lứa tuổi học sinh THCS và những nghiên
cứu liên quan đến CTXH trong trường học.
- Nghiên cứu gợi ra những cách tiếp cận mới trong việc đưa ra các giải
pháp CTXH trong trường học mà cụ thể là việc hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn tại
Bến Tre nhằm giảm thiểu HVGH của học sinh THCS
3.2.

Ý nghĩa về mặt thực tiễn

- Kết quả nghiên cứu phản ánh cụ thể mức độ, thực trạng của vấn nạn trẻ
LGBT bị gây hấn trong trường học cũng như những nhận thức, thái độ của
học sinh về vấn đề này tại địa bàn nghiên cứu.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, dự báo những xu hướng và giải pháp thiết
thực cho việc giảm thiểu HVGH đối với trẻ LGBT, đặc biệt là vai trò của
CTXH trong vấn đề này
4. Đối tượng và khách thể
4.1.

Đối tượng

Trẻ LGBT bị gây hấn tại Bến Tre và các giải pháp của CTXH trong
việc giảm thiểu các hành vi này
4.2.

Khách thể

- HS trường THCS
- Phụ huynh học sinh
- Cán bộ quản lí, Giáo viên
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ
LGBT bị gây hấn trong học đường


- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 đến tháng 12 năm
2019
- Phạm vi không gian: Tại tỉnh Bến Tre
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường tại địa bàn nghiên cứu
diễn ra như thế nào? (nhận thức về việc trẻ LGBT bị gây hấn; thực trạng gây
hấn về mặt hình thức, mức độ gây hấn, chứng kiến HVGH; hậu quả của gây
hấn…)

- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường tại
Bến Tre
- Các biện pháp đã được áp dụng nhằm giảm thiểu tình trạng trẻ LGBT bị
gây hấn trong học đường tại Bến Tre như thế nào? (những thuận lợi, khó khăn
của việc áp dụng các biện pháp này trên thực tế ở địa phương).
- Những biện pháp nào của CTXH được đề xuất nhằm hỗ trợ trẻ LGBT bị gây
hấn trong học đường tại Bến Tre có hiệu quả?
7. Mục đích và nhiệm vụ
7.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lí luận có liên quan đến trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường,
làm rõ được những yếu tố ảnh hưởng đến HVGH của học sinh THCS;
- Chỉ ra thực trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường, nhận thức của học
sinh THCS trên địa bàn tỉnh Bến Tre, những biện pháp đã được áp dụng trên
thực tế để giảm thiểu tình trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường và các
yếu tố ảnh hưởng đến hành vi này;
- Đề xuất được biện pháp can thiệp của nhân viên CTXH nhằm giảm thiểu
tình trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường
7.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống lí luận có liên quan đến HVGH như khái niệm, bản
chất, biểu hiện của nó.


- Khảo sát thực trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường và các yếu tố ảnh
hưởng đến HVGH của học sinh THCS trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất giải pháp của CTXH (phương pháp CTXH cá nhân) nhằm giảm
thiểu tình trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường của học sinh THCS tại
địa bàn.
8. Giả thuyết khoa học
- Thực trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường của học sinh THCS có xu
hướng gia tăng, gây hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ LGBT, gia đình, nhà

trường và xã hội nói chung.
- Các hoạt động can thiệp nhằm giảm thiểu tình trạng trẻ LGBT bị gây hấn
trong học đường chưa được triển khai hiệu quả và chưa phù hợp.
- Việc vận dụng những phương pháp CTXH phù hợp thì có thể đem lại hiệu
quả tốt hơn trong việc can thiệp giảm thiểu tình trạng trẻ LGBT bị gây hấn
trong học đường tại Bến Tre
9. Phương pháp nghiên cứu
9.1.Phương pháp luận nghiên cứu
Về phương pháp luận, để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luậnvăn
dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lênin; quan điểm lý luận về hành vi gây hấn trong học đường…
9.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
9.2.1. Các phương pháp nghiên cứu định tính
- Phương pháp quan sát: quan sát những hành vi, cử chỉ, những biểu
hiện cảm xúc, những thay đổi về trạng thái tình cảm của học sinh trong quá
trình tham gia hoạt động thực nghiệm với phương pháp CTXH cá nhân. Từ
những quan sát này, chúng tôi phân tích và đưa ra đánh giá về những chuyển
biến của học sinh từ những buổi đầu cho đến khi kết thúc hoạt động mà các
em tham gia.


- Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập thông tin từ các công trình
khoa học, sách, báo được thống kê và nghiên cứu chính thức về các vấn đề có
liên quan đến trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường. Trên cơ sở đó, chúng tôi
tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp các khái niệm về HVGH, cách phân
loại HVGH; các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường ,
các hình thức giảm thiểu trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường; lý luận về
CTXH; đặc điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS làm cơ sở lý luận
cho việc xác định những yếu tố ảnh hưởng đến HVGH của học sinh cũng như
đề xuất biện pháp can thiệp dưới góc độ CTXH.

- Phương pháp phỏng vấn: được thực hiện với trẻ LGBT từng bị gây
hấn trong học đường để tìm hiểu nhận thức, thái độ và HVGH của em; với
thầy cô giáo (cán bộ quản lí và giáo viên chủ nhiệm lớp) nhằm tìm hiểu nhận
thức, thái độ của họ về tình trạng trẻ LGBT bị gây hấn trong phạm vi quản lý
của nhà trường. Ngoài ra, phỏng vấn sâu cũng được tiến hành với phụ huynh
học sinh là cha mẹ của nạn nhân hay cha mẹ của những trẻ LGBT bị gây hấn
trong học đường để tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình, thái độ của gia đình đối
với vấn đề này.
9.2.2. Các phương pháp nghiên cứu định lượng
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp được tiến hành nhằm tìm hiểu nhận thức, thực trạng trẻ
LGBT bị gây hấn trong học đường và các yếu tố ảnh hưởng đến trẻ LGBT bị
gây hấn trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS để xử
lý kết quả điều tra và thực nghiệm.


CHƯƠNG 1: CỚ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1.

Khái niệm công cụ
1.1.1 Hành vi gây hấn
1.1.2 Gây hấn trong học đường
1.1.3 Trẻ LGBT
1.1.4 Vai trò
1.1.5 Nhân viên công tác xã hội
1.1.6 Hỗ trợ

1.2 Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong phòng chống

BLGĐ.
1.2.1. Vai trò người cung cấp thông tin, truyền thông
1.2.2. Vai trò là người kết nối
1.2.3. Vai trò người chăm sóc
1.2.4. Vai trò người hỗ trợ tâm lý
1.2.5. Vai trò người trợ giúp pháp lý
1.2.6. Vai trò người vận động nguồn lực
1.3.

Một số lý thuyết ứng dụng trong CTXH hỗ trợ trẻ LGBT bị
gây hấn trong học đường
1.3.1. Thuyết nhu cầu của Maslow
1.3.2. Lý thuyết hệ thống sinh thái
1.3.3. Lý thuyết về vai trò
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1


Chương 2
VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONVIỆC HỖ
TRỢ TRẺ LGBT BỊ GÂY HẤN TRONG HỌC ĐƯỜNG
TẠI BẾN TRE

2.1. Khái quát chung về địa bàn và khách thể nghiên cứu
2.1.1. Khái quát chung về địa bàn nghiên cứu
2.1.2. Khái quát chung về khách thể nghiên cứu
2.2. Thưc trạng việc thực hiện một số vai trò của nhân viên công tác
xã hội trong hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường tại Bến
Tre
2.2.1. Vai trò người cung cấp thông tin, truyền thông
2.2.2. Vai trò người kết nối

2.2.3. Vai trò người chăm sóc
2.2.4. Vai trò người trợ giúp pháp lý
2.2.5. Vai trò người vận động nguồn lực
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện các vai trò của nhân viên
công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong học
đường tại Bến Tre
2.3.1. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ làm công tác
xã hội


2.3.2. Nhận thức của người dân trong cộng đồng về việc hỗ trợ trẻ LGBT
bị gây hấn trong học đường
2.3.3. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTXH trong hỗ trợ trẻ
LGBT bị gây hấn trong học đường
2.3.4. Điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và những
chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với phát triển nghề
công tác xã hội
2.3.5. Sự tham gia của Gia đình có trẻ LGBT bị gây hấn
2.3.6. Nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên, chính quyền địa phương
và các ban ngành, đoàn thể về vai trò của công tác xã hội trong việc hỗ
trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường
TIỂU KẾTCHƯƠNG 2


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ

3.1.Một số giải pháp góp phần thực hiện tốt vai trò của nhân viên
CTXH
3.1.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ và giáo viên về trẻ LGBT và vai

trò CTXH trong hỗ trợ trẻ LGBT bị gây hấn trong học đường tại Bến Tre
3.1.2. Xây dựng đội ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp và phát triển
đội ngũ cộng tác viên CTXH tại địa phương
3.1.3. Tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng CTXH
trong lĩnh hỗ trợ trẻ LGBT cho đội ngũ NVXH chuyên nghiệp và bán
chuyên nghiệp..
3.1.4. Xây dựng mạng lưới, phát huy vai trò của cộng đồng trong
phòng, chống hành vi gây hấn
3.1.5. Hoàn thiện cơ sở pháp lý để xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn
của nhân viên công tác xã hội nói chung, trong phòng chống hành vi gây
hấn nói riêng
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với nhà nước
3.2.2. Đối với tỉnh Bến Tre
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thanh ình (2012), Giáo trình giáo dục kĩ năng sống, Nxb Đại
học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
2 .Nguyễn Ngọc Bảo (chủ biên), Phát triển tính tích cực, tính tự lực của
học sinh trong quá trình dạy học, Bộ giáo dục và đào tạo
3. Nguyễn Thị Chính (2016), Tham vấn cho học sinh trung học phổ thông
có hành vi lệch chuẩn học đường, Luận văn thạc sĩ
4.Hoàng Xuân Dung (2010), Khác biệt giới trong hành vi gây hấn của học
sinh trung học phổ thông, tạp chí nghiên cứu gia đình và giới, số 3/2010.
5. Lê Ngọc Dung, Hồ á Thông( 2014), Một vài hiện tượng tiêu cực trong
thanh niên hiện nay và công tác giáo dục vận động thanh niên, Tạp chí tâm

lí học số 8, tháng 8/2014.
6. Vũ Dũng (2018), Từ điển Tâm lí học, Nxb Khoa học xã hội
7. Vũ Trùng Dương (2012), Ảnh hưởng của vô tuyến truyền hình với nhận
thức giá trị đạo đức của học sinh trung học cơ sở, Đề tài cấp Bộ, Mã số:
B98 -49 -68
8. Trần Thị Minh Đức, Hoàng Xuân Dung(2008 -2010), Hành vi gây hấn
của học sinh trung học phổ thông, Trung tâm hỗ trợ nghiên cứu châu Á và
Qũi giáo dục cao học Hàn Quốc, Đại học Quốc gia Hà Nội. 9. Trần Thị
Minh Đức (2010), Gây hấn học đường ở học sinh trung cơ sở, tạp chí
nghiên cứu con người, số 3, tháng 5 -6/2010
11. Trần Thị Minh Đức (2012), Hiện tượng gây hấn trong các trường phổ
thông trung học hiện nay, Tạp chí khoa học giáo dục, số 58, tháng 7/2010


12. Trần Thị Minh Đức (2011), Hành vi gây hấn phân tích từ góc độ tâm
lí học xã hội, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Trần Thị Minh Đức (2012), Tư vấn bạo lực học đường, Tài liệu tập
huấn, Cục Bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội.
14. Phạm Hoàng Gia, Hoàng Gia Trang (2012), Hung tính ở trẻ em, tạp
chí Tâm lí học, số 11/2012.
16. Lưu Song Hà (2018), Cách thức cha mẹ quan hệ với con cái và hành vi
lệch chuẩn của trẻ, NXB khoa học xã hội.
17. Lưu Song Hà (2014), Một số lí thuyết giải thích về hành vi lệch chuẩn
của các tác giả nước ngoài, Tạp chí Tâm lí học, số 8, tr. 42 – 47. 18. Lê
Như Hoa (2011), Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân
cách trẻ em, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
19. Dương Thị Diệu Hoa (chủ biên năm), Giáo trình tâm lí học phát triển,
NXB Đại học Sư phạm.
20. Nguyễn Duy Nhiên (chủ biên), Giáo trình Nhập môn Công tác xã hội,

nhà xuất bản lao động, Hà Nội.
23. Nguyễn Duy Nhiên (chủ biên), Giáo trình công tác xã hội nhóm, NX
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
24. Phạm Thị Huyền Trang (2012), Nhu cầu cần có nhân viên công tác xã
hội trong trường học tại Việt Nam, Hội thảo quốc tể Chia sẻ kinh nghiệm
quốc tế về Công tác xã hội và An sinh xã hội, NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội.
25. Phạm Văn Tư (2012), Tâm lí học xã hội (giáo trình dành cho sinh viên
ngành Công tác xã hội), NX Đại học sư phạm, Hà Nội.


PHỤ LỤC



×