Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Luan van quản lý di sản văn hóa hồ chí minh tại bảo tàng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.01 MB, 148 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

********

NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG

QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Dƣơng Văn Sáu

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Dương Văn Sáu. Những nội dung trình bày trong luận
văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa từng được
ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu
của người khác, tôi đều trích dẫn rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày....tháng...năm 2017
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Hƣơng Giang


1

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ......................................................................... 3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ................................................................................................. 4
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 5
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN
VỀ DI SẢN VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH .............. 11

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di sản văn hóa .....................................................11
1.1.1. Di sản và di sản văn hóa .........................................................................11
1.1.2. Quản lý và quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ....................................15
1.1.3. Khái niệm về di sản văn hóa Hồ Chí Minh ............................................20
1.2. Tổng quan về di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh........23
1.2.1. Khái quát về Bảo tàng Hồ Chí Minh ......................................................23
1.2.2. Di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh .......................31
Tiểu kết ................................................................................................................36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH
TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH .........................................................................37
2.1. Thực trạng quản lý di sản văn hóa vật thể ................................................37
2.1.1. Công tác sưu tầm hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh ..............................................................................................37
2.1.2. Công tác kiểm kê, bảo quản tài liệu, hiện vật tại kho cơ sở tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh .....................................................................................................52
2.1.3. Trang thiết bị kỹ thuật, hệ thống kho tàng và phương tiện bảo quản

hiện vật ................................................................................................. 61
2.1.4. Bảo vệ và gìn giữ an ninh cho kho cơ sở của Bảo tàng .........................63
2.1.5. Công tác trưng bày triển lãm ..................................................................65
2.2. Thực trạng quản lý di sản văn hóa phi vật thể .........................................71
2.2.1. Công tác tuyên truyền hướng dẫn khách tham quan ..............................71
2.2.2. Công tác tư liệu thư viện, in ấn xuất bản, tổ chức hội thảo ....................75
2.2.3. Công tác tuyên truyền giáo dục, quảng bá, maketing. ...........................79
2.2.3. Phát huy các giá trị tư tưởng đạo đức của Người thông qua các tài liệu
hiện vật. ............................................................................................................84


2

2.3. Đánh giá và nhận xét về thực trạng quản lý di sản văn hóa Hồ Chí Minh
tại Bảo tàng Hồ Chí Minh ..................................................................................86
2.3.1. Những thành tựu đã đạt được .................................................................86
2.3.2. Những tồn tại, nguyên nhân ...................................................................88
Tiểu kết ................................................................................................................89
Chƣơng 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA HỒ CHÍ
MINH TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH .............................................................91
3.1. Phƣơng hƣớng gìn giữ, phát triển di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo
tàng Hồ Chí Minh ...............................................................................................91
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý di sản văn hóa vật thể tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh ........................................................................................................94
3.2.1. Nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đào tạo chuyên sâu cán bộ
làm các công việc cụ thể ...................................................................................94
3.2.2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu sưu tầm tư liệu hiện vật .......................99
3.2.3. Kiện toàn hệ thống kho cơ sở bảo tàng; Tăng cường trang thiết bị hiện
đại trong công tác kho bảo quản, trưng bày hiện vật bảo tàng. ......................105
3.2.4. Đổi mới trưng bày, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các hình thức

trưng bày, phối kết hợp với các đơn vị trong và ngoài nước..........................114
3.2.5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, in ấn xuất bản các ấn phẩm về Chủ tịch
Hồ Chí Minh, về hoạt động trưng bày, maketing, hội thảo khoa học ............119
3.2.6. Đẩy mạnh công tác truyền thông; Phối kết hợp với các nhà trường, công
ty du lịch… .....................................................................................................120
3.2.7. Chỉnh trang, đổi mới cảnh quan môi trường trong và xung quanh Bảo
tàng; Phát triển hệ thống dịch vụ thích hợp phục vụ du khách ......................121
Tiểu kết chƣơng 3..............................................................................................123
KẾT LUẬN ............................................................................................................124
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................126
PHỤ LỤC ...............................................................................................................130


3

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BCH

Ban chấp hành

BTHCM

Bảo tàng Hồ Chí Minh

BVHTT&DL


Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

CHDCND

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân

CHXHCNVN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CP

Chính phủ

CT

Chỉ thị

DSVH

Di sản văn hóa

ICOM

Hội đồng Bảo tàng quốc tế

Nxb

Nhà xuất bản




Quyết định

TH

Trung học

THCS

Trung học cơ sở

TLHV

Tài liệu hiện vật

TW

Trung ương

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc

VHTT&DL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


4

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Stt

Nội dung

Trang

1.

Bảng 2.1: Bảng thống kê số lượng tài liệu, hiện vật sưu tầm

50

được của Bảo tàng Hồ Chí Minh từ năm 1990 đến năm 2009
2.

Bảng 2.2: Danh mu ̣c mô ̣t số triể n lam
̃ tiêu biể u đươ ̣c Bảo tàng
Hồ Chí Minh tổ chức từ năm 2005 đến năm 2011

68


5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa
lớn”. Người là sự hiện thân của sự kết tinh văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Người
đã tích hợp được mọi giá trị tinh túy nhất của các nền văn hóa Đông – Tây – kim – cổ để
làm phong phú tri thức văn hóa của mình vì mục đích mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là “biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân
tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội”, mà Người còn có “sự đóng góp quan trọng và nhiều mặt
trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật”. Người là “kết tinh của truyền thống
văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của
mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”, Người đã
được ghi danh vào danh sách “các nhân vật trí thức lỗi lạc và các danh nhân văn hoá trên
phạm vi quốc tế góp phần thực hiện các mục tiêu của UNESCO và đóng góp vào sự hiểu
biết trên thế giới” như Nghị quyết 24C/18.65, phiên họp Đại Hội đồng UNESCO, khoá
họp lần thứ 24, tại Pari đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và khuyến nghị các nước
thành viên cùng tham gia kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Người.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho
tàng quý báu, là di sản chứa đựng bao nhiêu giá trị, giá trị đó nói cho cùng, là giá
trị văn hóa mà chúng ta khai thác chưa được bao nhiêu” [5, tr.5].
Những di sản mà Người để lại cho chúng ta là vô giá, trách nhiệm của chúng
ta không chỉ dừng lại ở chỗ tiếp thu và vận dụng mà còn phát triển, sáng tạo, làm
phong phú thêm những giá trị, những học thuyết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
tiếp nhận và truyền bá.
Đã có nhiều cuộc hội thảo, chương trình nghiên cứu phát huy giá trị di sản Hồ
Chí Minh và nhiều sách viết về vấn đề này. Tuy nhiên tại các bảo tàng, di tích lưu
niệm Hồ Chí Minh lại có thế mạnh đặc biệt về di sản Hồ Chí Minh. Trong nhiều năm



6

qua Bảo tàng Hồ Chí Minh và các di tích lưu niệm về Người trên toàn quốc có niềm
vinh dự lớn lao là nơi trực tiếp gìn giữ di sản vô giá của Người và đang góp phần phát
huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới của đất nước.
Cùng với sự phát triển của lịch sử, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã và đang có
những đóng góp thiết thực đối với công tác giáo dục về đạo đức và tấm gương,
những bài học sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với các tầng lớp nhân dân
trong nước, đồng thời có tác động lớn, tích cực tới các thế hệ người Việt Nam và
bạn bè quốc tế. Đặc biệt trước sự tác động của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Hồ Chí
Minh là hết sức quan trọng. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn
hoá đang là kim chỉ nam cho chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời không ngừng mở rộng sự giao lưu
văn hoá với thế giới. Từ nhận thức về giá trị và tầm quan trọng tư tưởng lớn của
Người vì vậy tôi đã chọn đề tài “Quản lý di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo
tàng Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý văn hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những thập kỉ vừa qua, đặc biệt từ ngày khánh thành Bảo tàng Hồ Chí
Minh (19/5/1990), đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, các hội thảo khoa học và
nhiều bài viết của các tác giả trong nước và quốc tế viết về cuộc đời, sự nghiệp đạo
đức, lối sống… của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời cũng có nhiều đề tài nghiên cứu
về các hoạt động của Bảo tàng Hồ Chí Minh, và phân loại các tư liệu đó như sau:
2.1. Đề tài khoa học
Trong hoạt động khoa học, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã có một số đề tài nghiên
cứu cấp Bộ: “Nghiên cứu nhằm định hướng bảo tồn, tôn tạo, quản lý các di tích Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội” (Đỗ Văn Trụ, năm 1995);“Nghiên cứu ứng dụng điều
kiện khí hậu, vi khí hậu bảo quản hiện vật Kho cơ sở Bảo tàng Hồ Chí Minh” (Đỗ Văn
Trụ, năm 1997); “Tư liệu hóa sưu tập tài liệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được

công bố hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh” (Chu Đức Tính, năm 2009).v.v.


7

2.2. Hội thảo khoa học, sách đã xuất bản và các khóa luận tốt nghiệp
- Hội thảo khoa học quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Người (19/05/1890 – 19/05/1990); Hội thảo khoa học quốc tế “Di sản
Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”, nhân dịp kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh (19/05/1890 – 19/05/2010) tổ chức tại Hà Nội. Tại Hội thảo này nhiều
tham luận nghiên cứu về Người đã được trình bày đều thể hiện tình cảm, lòng
ngưỡng mộ và kính trọng đến Hồ Chí Minh, khẳng định những giá trị lý luận và thực
tiễn di sản của Người trong thời đại ngày nay.
- Sách đã xuất bản viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vĩ đại một con người tác giả
Trần Văn Giàu (năm 2009); Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè quốc tế - Đỗ Hoàng
Linh, Phạm Hoàng Điệp (năm 2009); Đường Bác Hồ đi cứu nước của tác giả Trình
Quang Phú (năm 2015); Học tập đạo đức Hồ Chí Minh của tác giả Vũ Khiêu; Hồ Chí
Minh nhân văn và phát triển của tác giả Vũ Đài Trang; Hồ Chí Minh anh hùng dân
tộc và thời đại của Người của tác giả Hà Minh Đức….
- Các khóa luận tốt nghiệp của các sinh viên Đại học đã nghiên cứu:
Khóa luận tốt nghiệp Sưu tập tài liệu hiện vật Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đảng Lao động Việt Nam, 9-1960, tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh của sinh viên Phan Thị Hiền (2010), khoa Bảo tồn bảo tàng (nay là khoa Di
sản văn hóa trường Đại học văn hóa Hà Nội). Khóa luận nghiên cứu về giá trị lịch sử,
văn hóa của sưu tập tài liệu, hiện vật liên quan đến sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh với
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đảng Lao động Việt Nam, 9-1960, đang lưu giữ
tại kho cơ sở và hệ thống trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Khóa luận Quản lý hoạt động của Bảo tàng Hồ Chí Minh của sinh viên
Nguyễn Thị Minh Tâm (2012), khoa Quản lý văn hóa. Khóa luận nghiên cứu tổng
quan về Bảo tàng Hồ Chí Minh dưới góc độ quản lý Nhà nước.

Khóa luận tốt nghiệp Tìm hiểu Sưu tập tài liệu hiện vật Bác Hồ với miền
Nam, miền Nam với Bác Hồ giai đoạn 1954-1969 tại Bảo tàng Hồ Chí Minh của
sinh viên Trần Thị Ngân (2012), khoa Di sản Văn hóa. Khóa luận tập trung nghiên


8

cứu về tình cảm sâu sắc của Bác Hồ với miền Nam, miền Nam với Bác Hồ thông
qua sưu tập tài liệu hiện vật đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh giai đoạn
1954-1969 và các giá trị của sưu tập.
Khóa luận tốt nghiệp tốt nghiệp Tìm hiểu Sưu tập tài liệu hiện vật Chủ tịch
Hồ Chí Minh với phong trào diệt dốt giai đoạn 1945-1958 lưu giữ tại kho cơ sở Bảo
tàng Hồ Chí Minh của sinh viên Phùng Thị Phượng (2012), khoa Di sản Văn hóa.
Khóa luận tìm hiểu về giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập hiện vật Chủ tịch Hồ Chí
Minh với phong trào diệt dốt giai đoạn 1945-1958 lưu giữ tại kho cơ sở Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
Khóa luận Quản lý nguồn nhân lực tại bảo tàng và di tích lưu niệm về Chủ tịch
Hồ Chí Minh ở Hà Nội của sinh viên Mai Lệ Huyền (2014), khoa Quản lý văn hóa.
Khóa luận đã đi sâu tìm hiểu thực trạng quản lý nguồn nhân lực tại Bảo tàng và một số
Di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội thông qua các văn bản pháp quy, hệ
thống tổ chức nhân sự, các hình thức đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nguồn nhân lực.
Các khóa luận “Tìm hiểu công tác quản lý và khai thác hiện vật tại kho cơ sở
Bảo tàng Hồ Chí Minh”, “Công tác bảo quản tài liệu phim ảnh tại kho cơ sở Bảo
tàng Hồ Chí Minh”, “Sưu tập thư nhân dân của Bác”… của nhiều sinh viên, học
viên khác đã nghiên cứu về di sản văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu các công trình nghiên cứu cho thấy, các tác giả đi trước đều
tập trung nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh, về công tác
quản lý bảo tàng Hồ Chí Minh nói chung hoặc từng lĩnh vực chuyên môn của bảo
tàng; giải pháp cho bảo quản hiện vật, quản lý di tích. Cho đến nay, chưa có công
trình nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản Hồ Chí

Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Do đó, luận văn này là công trình đầu tiên đi sâu
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Trong quá trình triển khai đề tài “Quản lý di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh ”, tác giả luận văn sẽ tiếp thu, kế thừa và vận dụng các kết
quả của những tác giả đi trước vào một số nội dung của công trình nghiên cứu.


9

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò cũng như tầm quan trọng của công tác bảo
tồn và phát huy giá trị di sản Hồ Chí Minh, luận văn đi sâu vào tìm hiểu thực trạng
công tác quản lý di sản văn hóa của Người tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa này gắn với phát triển du lịch trong giai đoạn toàn cầu hóa, góp phần vào
sự nghiệp bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa dân tộc trong thời đại ngày nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về văn hóa, di sản văn hóa và tổng quan về Bảo
tàng Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng hoạt động di sản văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh nhìn từ góc độ quản lý.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý di sản văn hóa của Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quản lý di sản văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý di sản văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại

Bảo tàng Hồ Chí Minh từ năm 1990 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, các quan điểm đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa, về di sản văn hóa, quản lý di sản
văn hóa và quản lý bảo tàng.


10

5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Quản lý văn hoá, Lịch sử, Bảo tàng
học, Xã hội học, Văn hóa học.
- Phương pháp thống kê, phân loại, tổng hợp, phân tích, quan sát và miêu tả
hoạt động của Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tế, phỏng vấn sâu các đối
tượng như: nhà quản lý, cán bộ, khách tham quan… tại bảo tàng Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp của luận văn
- Là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên quản lý di sản văn hóa về
Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Hồ Chí Minh gắn với phát triển du lịch trong
giai đoạn toàn cầu hóa, góp phần vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy vốn di sản văn
hóa dân tộc trong thời đại ngày nay.
- Luận văn sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà quản lý bảo
tàng nói chung và Bảo tàng Hồ Chí Minh nói riêng. Đồng thời là tài liệu tham khảo
phục vụ sự nghiệp giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo phụ lục, luận văn có bố cục 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quản lý di sản văn hóa và tổng quan về di

sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng quản lý di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh
Chương 3: Nâng cao hiệu quả quản lý di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại
Bảo tàng Hồ Chí Minh


11

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ
DI SẢN VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH TẠI BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di sản văn hóa
1.1.1. Di sản và di sản văn hóa
Văn hóa là một quá trình hoạt động của con người tự do, biến đổi thế giới tự
nhiên thành thế giới tự nhiên thứ hai có cấu trúc cao hơn, có tính người, trong quá
trình đó con người hình thành thiên nhiên bên trong, đồng thời thể hiện thái độ ứng
xử đối với chính mình.
Văn hóa là một cấu trúc toàn diện gồm ba hình thái: chuẩn mực, giá trị và
biểu tượng. Bởi vậy, cần quan niệm rõ văn hóa như thế nào trong khuôn khổ của
ngành quản lý văn hóa, nó là khái niệm rộng hay hẹp, liệu văn hóa có phải là khái
niệm bậc trên của nghệ thuật như sân khấu, âm nhạc, nhảy múa hay văn học. Văn
hóa là không gian sống của con người, là phương tiện kiến tạo cuộc sống của con
người, hay văn hóa có tư cách là “hệ thống cấu trúc ý nghĩa cộng đồng, mà với
những ý nghĩa này con người kinh nghiệm, định nghĩa xử lý, thể hiện và biến đổi
thực tại (J.Moellmann). Bởi vậy, văn hóa là hình thái chuẩn mực, hình thái giá trị và
hình thái biểu tượng do con người sáng tạo nên nhằm giúp con người có những điển
quy để hành động, nhận thức và biến đổi thực tại. Trong hoàn cảnh lý tưởng, những
hình thái chuẩn mực, giá trị và biểu tượng này được khắc họa bởi nghệ thuật, bởi vì
thông qua nghệ thuật, văn hóa trở nên có tính sáng tạo cao hơn.

Nhân phát động thập kỷ phát triển văn hóa, ông Tổng giám đốc UNESCO
F.Mayor đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo
trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành
nên một hệ thống giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định các
đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo
của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi cộng
đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ quát, đồng


12

thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc. Định nghĩa còn
cho thấy không phải hoạt động nào của con người cũng tạo nên giá trị văn hóa, chỉ có
các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại, trải qua thời gian dài hàng thế
kỷ mới tạo ra được các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu… cái mà người ta có thể
coi là văn hóa của mỗi tộc người. Định nghĩa này còn nhấn mạnh tính riêng của mỗi
nền văn hóa, cổ vũ cho việc giữ gìn tính đa dạng của văn hóa thế giới, khuyến cáo nguy
cơ suy thoái của các nền văn hóa dễ bị tổn thương trong làn sóng toàn cầu hóa, hệ lụy
của cách thức phát triển kinh tế không tôn trọng yếu tố văn hóa vì con người.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái quát này, trong hoạt
động quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lạc: quản lý văn
hóa là quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác văn
học nghệ thuật. Thực tế quản lý văn hóa không phải chỉ có thế. Để có thể nhìn nhận
văn hóa một cách thiết thực hơn, tôi quan tâm tới định nghĩa của Hồ Chí Minh: “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật;
Những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh ấy tức là văn hóa”[24.T3,tr.431]. Định nghĩa
giúp chúng ta bổ sung đầy đủ hơn cách hiểu văn hóa với nghĩa khái quát và cả với
nghĩa cụ thể của từng lĩnh vực hoạt động và các yếu tố khác gắn liền với đời sống

thường nhật của con người. Suy cho cùng, mọi hoạt động của con người trước hết
đều vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, những hoạt động sống đó trải
qua thực tiễn và thời gian được lặp đi, lặp lại thành những thói quen, tập quán, chắt
lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật chất và tinh thần được tích lũy, lưu
truyền từ đời này qua đời khác thành kho tàng quý giá mang bản sắc riêng của mỗi
cộng đồng, góp lại mà thành di sản văn hóa của toàn nhân loại.
Văn hóa là khái niệm đa nghĩa. Tuy nhiên từ góc độ tiếp cận về quản lý, có
thể dễ dàng nhận thấy hai yếu tố quan trọng khi đề cập tới khái niệm văn hóa, đó là:
hoạt động văn hóa và giá trị văn hóa. Trong quản lý văn hóa, cách tiếp cận này giúp
phân loại các vấn đề cần quản lý có tính hệ thống, và đương nhiên hoạt động quản
lý sẽ cụ thể, hiệu quả hơn.


13

Quản lý giá trị văn hóa được hiểu là quản lý các di sản văn hóa vật thể và di
sản văn hóa phi vật thể.
Trên thực tế đời sống xã hội, khó có thể chỉ ra một di sản văn hóa nào thuần túy
chỉ là vật thể hay phi vật thể. Như vậy, sự phân chia văn hóa vật thể và phi vật thể chỉ
mang ý nghĩa tương đối, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng vậy. Bởi vậy, người
làm quản lý cần nắm những đặc điểm của di sản văn hóa vật thể, phi vật thể để phân
loại chúng trong hệ thống các di sản giúp cho việc quản lý được thuận tiện và hiệu quả.
Ngày nay, di sản văn hóa Việt Nam đã thực sự khẳng định được vị trí, vai trò
của mình trong đời sống xã hội. Điều này càng chứng tỏ di sản văn hóa Việt Nam
có sức lan tỏa mãnh liệt và sức sống rất lâu bền. Đồng thời, di sản văn hóa cũng
đang đối mặt với những thách thức to lớn, ảnh hưởng đến sự mất còn. Trong tình
hình như vậy, nhận thưc và giải quyết đúng đắn vấn đề bảo vệ và phát huy di sản
văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước là rất có ý nghĩa.
Mấy chục năm qua, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa đã
nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng, Nhà nước và trở thành tình cảm, trách

nhiệm của mỗi người Việt Nam yêu nước. Ngay sau khi đất nước giành được độc
lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 65, ngày 23/11/1945, về bảo tổn cổ tích
trên toàn cõi Việt Nam. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị
quyết, nghị định, chỉ thị, và công tác bảo vệ di sản văn hóa. Đặc biệt, Nghị quyết
Hội nghị lần thức năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định 10
nhiệm vụ quan trọng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Trong đó có nhiệm vụ là bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa.
Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung cụ thể của nhiệm vụ này:
“Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của
bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức
coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và
dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể.
Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha
ông để lại”.


14

Hệ thống pháp luật về bảo vệ di sản văn hóa đã được hoàn thiện, Luật Di sản
văn hóa được Quốc hội thông qua vào tháng 6 năm 2001 đánh dấu một bước phát
triển mới có tính chiến lược, thể hiện tầm cao về nhận thức và trí tuệ của nhân dân
ta, nhà nước ta về vị trí, vai trò của di sản trong phát triển.
Luật Di sản văn hóa, tại Điều 1 đã quy định cụ thể như sau: “Di sản văn hóa
quy định tại luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là
sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [42, tr.4].
Di sản văn hóa có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con người
Việt Nam hiện đại, với tư cách là nguồn nhân lực quan trọng tạo nên sức mạnh
đóng góp trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã xác định một số nhiệm vụ trọng yếu đó là:

Đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật về di sản văn hóa nhằm nâng cao ý thức
của toàn xã hội, các ngành các cấp đối với sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa.
Tăng cường quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa, kiên quyết xử lý các vi
phạm làm tổn hại tới di sản văn hóa. Tập trung giải quyết dứt điểm và có trọng điểm
những vụ việc vi phạm đã kéo dài nhiều năm. Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh phải là những địa phương đi đầu trong việc xử lý những vi phạm, lấn
chiếm di tích.
Đẩy mạnh giới thiệu di sản văn hóa trong nước và quốc tế, tạo những điều
kiện thuận lợi nhất để khách tham quan đến với di sản văn hóa.
Xây dựng phong trào quần chúng tham gia vào các hoạt động di sản văn hóa
theo hướng xã hội hóa sâu rộng. Chú trọng tuyên truyền thu hút thế hệ trẻ đến với di
sản văn hóa. Thế hệ trẻ phải trở thành lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa.
Sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí đầu tư của Nhà nước và sự đóng góp của
nhân dân cho bảo vệ di sản văn hóa. Đẩy mạnh việc ứng dụng các thành tựu khoa học,
kỹ thuật và công nghệ thông tin vào việc bảo vệ di sản văn hóa. Thực hiện tốt vệc nghiên
cứu, bảo tồn các di sản văn hóa trong quá trình triển khai các dự án đầu tư xây dựng.


15

Xây dựng những chính sách đối với nghệ nhân, nghệ sĩ là những người nắm
giữ bí quyết nghề nghiệp, kỹ năng trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Kiện
toàn đội ngũ làm công tác bảo vệ di sản văn hóa.
Sự nghiệp bảo vệ di sản văn hóa đang đứng trước những thuận lợi và thách
thức lớn của thời đại. Đảng, Nhà nước và nhân dân yêu cầu những người làm công
tác bảo vệ di sản văn hóa phải chủ động hơn nữa, thể hiện trách nhiệm cao hơn nữa
trong việc bảo vệ di sản văn hóa góp phần bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị kho
tàng di sản văn hóa trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.2. Quản lý và quản lý Nhà nước về di sản văn hóa

Trong hoạt động quản lý, cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý luôn luôn là các
điều kiện đi đầu và là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo. Vì vậy, công tác quản lý
văn hóa nói chung và công tác quản lý di sản văn hóa nói riêng cũng được tiến hành
trên cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý nhất định.
Thuật ngữ “Quản lý” có thể được hiểu theo nhiều góc nhìn khác nhau. Theo
nghĩa thông thường trong tiếng Việt, thuật ngữ “Quản lý” được hiểu là trông nom,
sắp đặt công việc hoặc gìn giữ, theo dõi, nếu hiểu theo nghĩa Hán - Việt thì “Quản”
là lãnh đạo một việc, “Lý” là trông nom, coi sóc. Ở Phương Tây người ta dùng từ
“Management” có nghĩa là quản lý, là bàn tay hoặc liên quan của bàn tay, là hành
động theo một điểm tác động để dẫn dắt.
Các Mác cho rằng: “Quản lý là một chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất
xã hội của quá trình lao động”[16, tr.29], giải thích cho nội dung này Các Mác
viết: Tất cả mọi hoạt động trực tiếp hay mọi động cơ chung nào tiến hành trên quy
mô tương đối lớn thì ít nhiều đều cần đến sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ
cơ thể sản xuất khác với những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm
tự mình điều khiển lấy mình, còn dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng.
F. Ăngghen cho rằng quản lý là một động thái tất yếu phải có khi nhiều
người cùng hoạt động chung với nhau và có sự hiệp tác của một số đông người, có
sự phối hợp của nhiều người.


16

Mỗi ngành khoa học đều có những định nghĩa riêng về quản lý ở góc độ
nghiên cứu riêng của mình. Chẳng hạn, trong Điều khiển học, khái niệm quản lý
được hiểu là sự tác động vào một hệ thống hay một quá trình để điều khiển, chỉ đạo
sự vận động (diễn biến) của nó theo những quy luật nhất định nhằm đạt được những
mục đích hay kế hoạch mà người quản lý đã đề ra từ trước.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng bản chất của quản lý bắt nguồn từ sự

phân công, hợp tác lao động, nó là một hoạt động khách quan nảy sinh khi cần có
nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm
vi nhỏ dến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Đối với xã hội có trình độ cao, do
đó yêu cầu quản lý ngày càng lớn và vai trò của quản lý ngày một tăng lên.
Theo ý nghĩa thông thường, phổ biến thì quản lý được hiểu là hoạt động
nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý vào một đối
tượng nhất định để diều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm
duy trì tình ổn định và phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định.
Với cách hiểu trên, quản lý bao gồm các yếu tố sau:
Chủ thể quản lý: là tác nhân tạo ra các tác động quản lý. Chủ thể luôn là con
người hoặc tổ chức. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các công
cụ với những phương pháp thích hợp theo những nguyên tắc nhất định.
Đối tượng quản lý tiếp nhận trực tiếp sự tác động của chủ thể quản lý. Tùy
từng loại đối tượng khác nhau mà người ta chia thành các dạng quản lý khác nhau.
Khách thể quản lý chịu sự tác động hay điều chỉnh của chủ thể quản lý, đó là
hành vi của con người hoặc quá trình xã hội.
Mục tiêu của quản lý là cái đích phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do
chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản lý thực hiện các động tác
quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý thích hợp. Quản lý ra đời chính
là hướng đến hiệu quả tốt hơn, năng suất cao hơn trong công việc.
Trong thời đại ngày nay, người ta coi quản lý như một thành tố của văn hóa –
Văn hóa quản lý. Do vậy, quản lý cũng được coi như là một bộ môn khoa học –
Khoa học quản lý. Môn khoa học này sử dụng nhiều tri thức của nhiều môn khoa


17

học tự nhiên và xã hội nhân văn khác nhau như: toán học, thống kê, kinh tế, tâm lý
học, xã hội học… Không những thế, người ta coi quản lý như một “nghệ thuật”, bởi
vì nó đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế để đạt tới mục đích.

Từ các khái niệm Quản lý có thể khái quát và đưa ra một khái niệm về quản
lý di sản văn hoá như sau: Quản lý di sản văn hoá là sự định hướng, tạo điều kiện tổ
chức điều hành việc bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hóa, làm cho các giá trị của di
sản văn hóa được phát huy theo chiều hướng tích cực, phục vụ nhu cầu hưởng thụ
văn hóa của công chúng trong xã hội, phục vụ thiết thực mục tiêu xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế.
Căn cứ vào Luật di sản văn hóa, việc quản lý di sản văn hóa được thực hiện
theo những nội dung sau:
- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về di sản
văn hóa.
- Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý di sản văn hóa.
- Tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
chuyên môn về di sản văn hóa.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể của di sản văn hóa.
- Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa.
- Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hóa. [42, tr.31-32].
Có thể nói, quản lý di sản văn hóa đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các nội dung
cơ bản nêu trên. Đồng thời, những nội dung quản lý đó được cụ thể hóa trong từng
công đoạn của qui trình quản lý Nhà nước về di sản văn hóa như: Tổ chức nghiên cứu,


18


thống kê, phân loại, xếp hạng, lập các dự án bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị, thanh tra,
kiểm tra xử lý vi phạm và khen thưởng, kỷ luật... về di sản văn hoá.
Quản lý nhà nước về văn hóa:
Về cơ bản, quản lý nhà nước về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức,
có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy nhằm phát triển văn
hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa
và liên quan.
Từ cách hiểu trên, có thể làm rõ thêm nội hàm quản lý nhà nước về văn hóa,
các thành tố cấu thành hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.
Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa là Nhà nước, được tổ chức thống
nhất từ trung ương đến địa phương, quyền quản lý được phân cấp: cấp trung ương, cấp
tỉnh (tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh, quận
thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường thuộc quận). Quản lý nhà nước về
văn hóa ở cấp nào thì cơ quan nhà nước cấp ấy là chủ thể quản lý. Quản lý nhà nước về
văn hóa ở cấp xã thì UBND xã là chủ thể quản lý nhà nước. Công chức văn hóa - xã
hội xã được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về văn hóa giúp UBND xã có thể được
coi là chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa trên địa bàn xã.
Thứ hai, khách thể quản lý nhà nước về văn hóa là văn hóa và các cơ quan,
tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực
văn hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là:
các hoạt động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hóa, hoạt động sáng tạo…) và
các giá trị văn hóa (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể). Mặt khác,
theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ
hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý. Văn hóa
giáo dục, khoa học công nghệ… do cơ quan giáo dục, khoa học công nghệ quản lý.
Thứ ba, mục đích quản lý nhà nước về văn hóa là giữ gìn và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý nhà nước về văn



19

hóa ở từng cấp, từng địa phương, từng hoạt động cụ thể thì mục đích quản lý nhà
nước về văn hóa phải được xác định cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh
cụ thể. Ví dụ, quản lý nhà nước chương trình mục tiêu xây dựng đời sống văn hóa ở
cơ sở thì cấp trung ương mục đích là gì, cấp tỉnh, quận huyện, xã phường là gì phải
được xác định một cách cụ thể. Có như vậy hoạt động quản lý mới hiệu quả.
Thứ tư, cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về văn hóa là hiến pháp, luật và
các văn bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy quản lý nhà nước nói chung và quản
lý nhà nước về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính
pháp quy. Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí của nhà quản lý.
Thứ năm, cách thức quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích
chứ không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà
quản lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý.
Người làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa luôn tự đặt và trả lời câu
hỏi: ai là người quản lý, quản lý ai và quản lý cái gì, quản lý vì cái gì, công cụ nào
để quản lý? Ngoài 4 câu hỏi cơ bản trên, người quản lý có kinh nghiệm còn biết đặt
và trả lời một số câu hỏi có tính nghiệp vụ khác mới có thể thực thi nhiệm vụ quản
lý có hiệu quả.
Quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là
một trong những lĩnh vực có rất nhiều vấn đề đặt ra. Việc xác định vấn đề nào là
trọng tâm hiện nay có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp
hữu hiệu nâng cao hiệu quả quản lý.
Vấn đề nhận thức: Trong thực tiễn hoạt động nhiều năm qua, đặc biệt trong
thời kỳ đổi mới, một vấn đề lớn đặt ra là phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát
triển kinh tế dẫn đến nhiều hệ lụy về phát triển xã hội, đồng thời làm cho phát triển
kinh tế không bền vững. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là do nhận thức chưa
đầy đủ về văn hóa trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt, sự bất cập trong hoạt động
quản lý nhà nước về văn hóa.

Đổi mới kinh tế đi trước một bước: Sự sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể ở
nước ta chỉ có thể đạt hiệu quả với điều kiện phải nhận thức đúng kinh tế đi trước


20

một bước để tiếp tục đổi mới văn hóa xã hội đồng bộ cùng với phát triển kinh tế. Đi
trước một bước không có nghĩa là đổi mới kinh tế xong mới đổi mới văn hóa, hy
sinh văn hóa để phát triển kinh tế. Trên thực tế, nhiều nơi, nhiều lúc yếu tố văn hóa
đã bị coi nhẹ vì phát triển kinh tế. Nhìn tổng thể, đổi mới văn hóa chưa theo kịp đổi
mới kinh tế.
Vai trò quản lý nhà nước về văn hóa chưa được nhận thức đúng đắn: Trong
xã hội có người cho rằng văn hóa là nhu cầu của con người, nó phát sinh phát triển
theo nhu cầu tự nhiên, hãy để nó phát triển theo quy luật vốn có của nó. Những
người có quan niệm như vậy không nhiều, nhưng quan niệm ấy lại là cái cớ để tồn
tại những lệch lạc trong nhìn nhận quản lý nhà nước về văn hóa: quản lý hay không
quản lý thì văn hóa cũng cứ phát triển theo đường đi của nó.
Đổi mới nhận thức về quản lý nhà nước bất cập so với phát triển văn hóa: Các
hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, các dịch vụ văn hóa cũng phát triển khá mạnh,
một mặt đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, mặt khác cũng gây nhiều hệ lụy với
những đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, gây tâm trạng bất an trong dư
luận xã hội. Quản lý nhà nước không theo kịp sự phát triển, thêm vào đó còn tồn tại
cách hiểu sai quản lý đến đâu, phát triển đến đó, dẫn đến nhận thức lệch lạc, quy quản
lý nhà nước vào một việc cho và không cho (sinh ra tệ xin cho với bao hệ lụy đi kèm),
dẫn đến cách quản lý hạn chế sự phát triển, không quản lý được thì cấm.
Tóm lại, việc nhận thức cho đúng quản lý nhà nước về văn hóa là gì, mục
đích, ý nghĩa và cách thức quản lý ra sao... vẫn đang đặt ra cho chúng ta nhiều câu
hỏi cần nghiên cứu, trao đổi, thảo luận làm sáng tỏ.
1.1.3. Khái niệm về di sản văn hóa Hồ Chí Minh
Trong điều 1, chương I của Luật Di sản văn hoá có quy định rõ khái niệm di

sản văn hoá được hiểu như sau: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể
và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [42, tr.4].
Từ khái niệm trên, có thể hiểu di sản văn hoá gồm hai bộ phận di sản văn hoá
phi vật thể và di sản văn hoá vật thể.


21

Tại khoản 1, điều 4, của Luật Di sản văn hoá được sửa đổi năm 2009 quy
định rõ:
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo
và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [42, tr.9].
Tại điều 4, chương I của Luật Di sản văn hoá cũng nêu ra: “Di sản văn hóa
vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm: di tích
lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [42, tr.4].
Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh và thăng hoa những gì ưu tú nhất, tốt
đẹp nhất của dân tộc và thế giới nhân loại. Hồ Chí Minh, ở tầm vóc văn hóa và nhân
cách lớn, là bậc Đại Trí, Đại Nhân, Đại Dũng.
Hồ Chí Minh là một hiện tượng văn hóa độc đáo, chung đúc những tinh hoa của
dân tộc, của thời đại và thế giới nhân loại. Ở Người là một sự thống nhất hữu cơ giữa:
+ Con người với cuộc đời và sự nghiệp
+ Tư tưởng với phương pháp và phong cách
+ Đạo đức với lối sống và nhân cách.
Bởi vậy, để hiểu di sản Hồ Chí Minh phải có cách tiếp cận hệ thống, đa chiều và
chung đúc trong một chỉnh thể trọn vẹn, toàn vẹn, thống nhất, nhất quán đến cao độ.
Như vậy, từ quan niệm đầy đủ và chân thực về “Di sản Hồ Chí Minh” phải

nhìn nhận rằng, đó là tổng hợp từ toàn bộ hệ thống tư tưởng, từ hoạt động thực
tiễn cách mạng phong phú của Người và từ đạo đức nhân cách mẫu mực của
Người, có ảnh hưởng quan trọng và vô cùng sâu sắc tới cuộc sống của mọi người
dân, tới sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam, tới
các dân tộc được thức tỉnh trong cuộc đấu tranh chống áp bức nô dịch của chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, trong cách mạng giải phóng dân tộc để phát
triển dân tộc trong thời đại ngày nay. Di sản Hồ Chí Minh nổi bật dòng tư tưởng


22

chủ đạo “Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”, “Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ
nghĩa xã hội” – Phát kiến vĩ đại này đã mở ra ở Việt Nam một thời đại lịch sử
oanh liệt, thời đại Hồ Chí Minh, hòa trong dòng lớn của thời đại quá độ từ Chủ
nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, được mở ra từ sau thắng lợi của
cách mạng Tháng Mười Nga.
Di sản Hồ Chí Minh sống động bởi tấm gương đạo đức cao cả, vừa là tư
tưởng đạo đức học Mác xít của Việt Nam hiện đại vừa là tấm gương đạo đức và
thực hành đạo đức mẫu mực của Người với các chuẩn mực giá trị: Cần, kiệm, liêm,
chính và các nguyên tắc ứng xử: Chí công – vô tư”.
Di sản Hồ Chí Minh là tổng hợp tất cả hệ thống tư tưởng lý luận của Người,
thể hiện các quan điểm, nguyên tắc, phương pháp của Người – với tư cách nhà tư
tưởng Mác xít sáng tạo – định hình thành đường lối chiến lược và sách lược của
cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng không chỉ tới cách mạng Việt Nam mà còn góp
phần phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, làm phong phú thêm kho tàng lý
luận của phong trào cách mạng thế giới. Di sản Hồ Chí Minh còn là hoạt động thực
tiễn vô cùng phong phú của Người trong hơn 6 thập kỷ đấu tranh cách mạng, từ lúc
tìm đường cứu dân cứu nước, chọn đường và nhận đường đến khi tìm thấy con
đường cách mạng khi giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đuổi đến cùng lý tưởng
và mục tiêu Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản, sáng lập ra Đảng, Nhà nước,

Mặt trận, quân đội và các đoàn thể cách mạng, tổ chức lực lượng, gây dựng phong
trào, đào tạo huấn luyện cán bộ, thực hành triết lý Thân dân và Chính tâm trong đạo
làm người, phát triển từ Thân dân tới Dân chủ, từ chính tâm đến đạo đức cách
mạng, đấu tranh chống Chủ nghĩa cá nhân – giặc nội xâm, giặc ở trong lòng, trau
dồi đạo đức cách mạng để suốt đời là đầy tớ, là công bộc trung thành, tận tụy của
nhân dân.
Nói tóm lại, di sản Hồ Chí Minh là tất cả những gì mà Người sáng tạo ra từ
những phát kiến lý luận, dự báo tương lai, đến xây dựng tổ chức – thể chế và đào
tạo bồi dưỡng cán bộ, đến quan hệ của Người với dân, với Đảng, với Nhà nước, các
đoàn thể và chế độ, quan hệ quốc tế thủy chung trong sáng, mẫu mực, đến đời tư


23

trong sáng, cuộc sống riêng giản dị… tất cả chung đúc lại tạo nên văn hóa – văn hóa
chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa đạo đức, văn hóa ứng xử, lối sống giản dị, tinh
tế, cao thượng của Hồ Chí Minh. Di sản Hồ Chí Minh làm sống động di sản truyền
thống của dân tộc Việt Nam, di sản văn hóa thế giới và thời đại.
Từ lý luận trên có thể định nghĩa di sản văn hóa Hồ Chí Minh là toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần được Người tạo ra và để lại trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Di sản này được các thế hệ người Việt Nam và
nhân loại tiến bộ gìn giữ, phát triển và truyền trao cho các thế hệ kế tiếp.
Di sản văn hóa vật thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh: bao gồm những đồ dùng,
vật dụng, tặng phẩm… của Người để lại trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người.
Di sản văn hóa phi vật thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh: đó là tư tưởng Hồ Chí
Minh, đạo đức Hồ Chí Minh mà đặc biệt đó là nguồn xúc cảm cho các thế hệ người
Việt Nam, nhân loại tiến bộ khi nghĩ và nói về Người.
1.2. Tổng quan về di sản văn hóa Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Hồ Chí Minh
1.2.1. Khái quát về Bảo tàng Hồ Chí Minh

Ngay sau khi Chủ tich
̣ Hồ Chí Minh qua đời . Để tỏ lòng tôn kính Người và
ghi nhớ công lao trời biển của Người, đồng thời để các thế hệ người Việt hôm nay
và mãi mãi mai sau được học tập rèn luyện và nghiên cứu sự nghiệp cách mạng vĩ
đại của Người, ngày 25/11/1970, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
đã ra Nghị quyết số 206 – NQ/TW về việc thành lập Ban phụ trách xây dựng Bảo
tàng Hồ Chí Minh. Ngày ấy, Bảo tàng Hồ Chí Minh có tên là CQ 41A (Mật danh
của Văn phòng Bác khi Người còn sống và ghi nhớ năm 1941, Bác Hồ về nước trực
tiếp lãnh đạo Cách mạng).
Ngày 12/09/1977, đúng ngày Kỷ niệm Xô Viết - Nghệ Tĩnh, thay mặt Bộ
Chính trị Ban chấp hành TW Đảng, đồng chí Lê Duẩn, Tổng bí thư BCHTW Đảng
đã ký Nghị quyết 04-NQ/TW về việc thành lập Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh với
những quy định sau:


×