Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Luan van quản lý hoạt động của bảo tàng mỹ thuật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.89 MB, 169 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI

********

LẠI THỊ MINH THU

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 60310642

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Huệ. Những nội dung trình bày
trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi, đảm bảo tính trung thực và chưa
từng được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Những chỗ sử dụng kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác đều được trích dẫn cụ thể, rõ ràng. Tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2018
TÁC GIẢ


Lại Thị Minh Thu


1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ........................................................................................................... 1
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT....................................................................... 3
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 4
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ, QUẢN LÝ BẢO TÀNG VÀ
TỔNG QUAN BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM........................................... 11

1.1. Những vấn đề chung về quản lý, quản lý bảo tàng ......................... 11
1.1.1. Những vấn đề chung về quản lý.................................................... 11
1.1.2. Cơ sở lý luận về quản lý bảo tàng ................................................. 17
1.2. Tổng quan Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ........................................ 31
1.2.1. Sơ lược về lịch sử Mỹ thuật Việt Nam ......................................... 31
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam .... 34
1.2.3. Nội dung trưng bày của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam ................. 37
Tiểu kết ....................................................................................................... 40
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BẢO TÀNG MỸ
THUẬT VIỆT NAM .......................................................................................... 41

2.1. Tổ chức bộ máy quản lý và nhân sự ................................................. 41
2.1.1. Chức năng và nhiệm vụ................................................................. 41
2.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ..................................................... 43
2.1.3. Tổ chức nhân sự trong bảo tàng .................................................... 50
2.2. Nội dung công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam .................................................................................................... 52
2.2.1. Quản lý các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ ............................. 52

2.2.2. Quản lý các nguồn lực................................................................... 71
2.2.3. Quản lý dịch vụ của bảo tàng ........................................................ 76
2.2.4. Quản lý các hoạt động đảm bảo an ninh, an toàn cho bảo tàng .... 77


2
2.2.5. Công tác kiểm tra của bảo tàng ..................................................... 79
2.3. Đánh giá quản lý các hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam .. 80
2.3.1. Ưu điểm ......................................................................................... 81
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ............................................................... 85
Tiểu kết ....................................................................................................... 88
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG CỦA BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM .................................. 89

3.1. Phƣơng hƣớng .................................................................................... 89
3.1.1. Phương hướng chung .................................................................... 89
3.1.2. Phương hướng cụ thể .................................................................... 92
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam .......................................................................................... 94
3.2.1. Kiện toàn tổ chức cán bộ lãnh đạo cấp phòng và tăng thêm nhân
lực đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Bảo tàng ............... 94
3.2.2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nội quy và quy chế hoạt động .. 96
3.2.3. Đổi mới quản lý các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ ............... 98
3.2.4. Tăng cường quản lý các nguồn lực của bảo tàng ........................ 109
3.2.5. Khuyến khích xã hội hóa các hoạt động bảo tàng ..................... 112
3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá và thi đua khen thưởng ... 113
3.3. Một số kiến nghị ............................................................................... 115
Tiểu kết ..................................................................................................... 115
KẾT LUẬN .................................................................................................. 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 119

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 123


3
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

CBVC&NLĐ

Cán bộ viên chức và người lao động

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DSVH

Di sản văn hóa

HĐKH

Hội đồng khoa học

HV - TPMT


Hiện vật - Tác phẩm mỹ thuật

MTVN

Mỹ thuật Việt Nam

Nxb

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó giáo sư, Tiến sĩ

QLHC

Quản lý hành chính

TBCĐ, TBLĐ

Trưng bày chuyên đề, trưng bày lưu động

TPMT

Tác phẩm mỹ thuật

Tr

Trang


TTBQTSTPMT Trung tâm Bảo quản, Tu sửa tác phẩm mỹ thuật
UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

VHTTDL

Văn hóa, Thể thao và Du lịch

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống hiện đại, nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa, hướng
tới cái chân - thiện - mỹ càng trở nên thiết yếu. Có nhiều đối tượng khác nhau để
tiếp cận với các giá trị văn hóa trong đó bảo tàng là một trong những đối tượng
được con người quan tâm, bởi bảo tàng là một thiết chế văn hóa có chức năng
sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng
vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người, nhằm
phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công
chúng. Ở đó chứa đựng tất cả những bằng chứng xác thực, cụ thể về truyền
thống tốt đẹp, kỹ năng, kỹ xảo và trí tuệ của con người. Các hiện vật bảo tàng
với giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ chính là những thông điệp về
lịch sử, văn hóa mà thế hệ trước trao truyền cho thế hệ sau, trên cơ sở đó, các thế
hệ đi sau tiếp nối và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới.

Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam là bảo tàng Quốc gia hạng I thuộc loại
hình nghệ thuật. Tại đây, đã và đang bảo tồn và phát huy những giá trị Di sản
mỹ thuật tiêu biểu, độc đáo của Việt Nam, bao gồm các tác phẩm mỹ thuật có
giá trị chứng minh cho tiến trình lịch sử phát triển mỹ thuật Việt Nam. Nhiều
năm qua, công tác trưng bày giới thiệu, những bộ sưu tập mỹ thuật của Bảo
tàng được tổ chức một cách khoa học có chất lượng và đạt hiệu quả cao, từ
trưng bày thường xuyên tại bảo tàng cho đến các cuộc trưng bày triển lãm
chuyên đề ở khắp các vùng miền của tổ quốc trong khu vực và nhiều nước
trên thế giới.
Với nhiều cố gắng trong công tác nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo
quản, trưng bày, giáo dục và tu sửa, phục chế các tác phẩm nghệ thuật, trong
năm thập kỷ qua Bảo tàng MTVN đã có những đóng góp thiết thực trong


5
công tác giáo dục những giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc của dân tộc, phục
vụ tốt nhiệm vụ chính trị - xã hội, nâng cao trình độ nhận thức thẩm mỹ đối
với công chúng yêu nghệ thuật, nhân dân và bạn bè quốc tế. Để bắt nhịp được
với các bảo tàng trong khu vực và trên thế giới, Bảo tàng MTVN cần nâng
cao hiệu quả công tác quản lý, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ, mở rộng quan hệ hợp tác với các bảo tàng nghệ thuật quốc gia và
trong khu vực, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, kết nối thông tin,
tiếp cận những vấn đề mới vào quản lý hoạt động của bảo tàng. Vì vậy việc
nghiên cứu tìm hiểu quản lý hoạt động của Bảo tàng MTVN là việc làm rất
cần thiết và có ý nghĩa thiết thực không chỉ đối với học viên chuyên ngành
quản lý văn hóa, văn hóa nghệ thuật, mà còn giúp cho lãnh đạo và cán bộ,
công nhân viên chức trong bảo tàng hiểu một cách sâu sắc, toàn diện hơn về
hoạt động của bảo tàng mình. Từ đó sẽ có những đóng góp công sức, trí tuệ,
chuyên môn thậm chí cả thời gian cho bảo tàng, để Bảo tàng MTVN thực sự
là một thiết chế văn hóa giáo dục hấp dẫn, phục vụ các nhu cầu hưởng thụ văn

hóa - khoa học - thẩm mỹ của công chúng trong và ngoài nước.
Do đó là một cán bộ đang công tác trong ngành Di sản văn hóa, tôi đã
chọn đề tài “Quản lý hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” làm đề tài
luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý văn hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu và tìm hiểu những tài liệu, công trình, sách báo và các
bài viết về Bảo tàng MTVN, chúng tôi xin được khái quát tình hình nghiên
cứu và có thể phân loại các tư liệu đó như sau:
* Kỷ yếu hội thảo khoa học, sách đã xuất bản
Một số kỷ yếu trong các hội thảo khoa học - thực tiễn về bảo tàng, sự
nghiệp bảo tàng đó là: “Đổi mới hoạt động bảo tàng” (năm 1988); “Bảo tàng


6
với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước” (năm 1997); “Hoạt
động bảo tàng với sự nghiệp đổi mới đất nước” (năm 2004) … trong các cuộc
hội thảo này, các nhà khoa học, chuyên môn bảo tàng đã đánh giá nhiều mặt
hoạt động của bảo tàng và bàn về phương hướng đổi mới để phát triển.
Tại hội thảo khoa học - chuyên ngành do Bảo tàng MTVN tổ chức như:
Hội thảo khoa học về họa sỹ Nguyễn Văn Chánh nhân kỷ niệm 80 năm ngày
sinh (22/7/1892 - 22/7/1972); Hội thảo khoa học Kỷ niệm 80 năm ngày sinh
họa sỹ Nguyễn Đỗ Cung (1912 - 1992) ... các bài tham luận chủ yếu đánh giá
những đóng góp to lớn của các hoạ sỹ trong nền mỹ thuật Việt Nam.
Các cuốn sách do Bảo tàng MTVN xuất bản phần lớn là các ấn phẩm
tuyên truyền giới thiệu về các bộ sưu tập HV - TPMT và những hiện vật tiêu
biểu của Bảo tàng như: Tranh sơn mài Việt Nam; Điêu khắc gỗ dân gian thế
kỷ XVI, XVII, XVIII; Tranh lụa Nguyễn Phan Chánh…
Nhân dịp kỷ niệm những năm chẵn thành lập Bảo tàng, còn xuất bản
những ấn phẩm giới thiệu về các hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng như: Bảo
tàng Mỹ thuật (các tác phẩm trưng bày); 30 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt

Nam; 40 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam; 45 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam; 50 năm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam … nhằm tổng kết những thành tựu
và hạn chế của bảo tàng trong từng giai đoạn.
Ngoài ra còn có đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở:”Giải nghĩa minh
văn trên hiện vật gốm - sứ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam” do nhóm tác giả
Dương Thanh Vân, Nguyễn Doãn Minh, Nguyễn Văn Nghị thực hiện và đã
bảo vệ thành công, tháng 4/2012. Đề tài tập trung vào nghiên cứu giải nghĩa
minh văn trên 305 hiên vật trong tổng số 317 hiện vật có minh văn hiện đang
lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng MTVN.
Cùng với các cuốn sách, đề tài nghiên cứu trước đây còn có các bài viết
của các nhà nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí chuyên nghành: Mỹ thuật


7
Đại La hay mỹ thuật Lý - Nguyễn Đỗ Cung - Báo Thanh Nghị, số 96, ngày
16/12/1944; Công tác bảo quản, tu sửa các tác phẩm hội họa tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam - Trương Quốc Bình - Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số 2,
tháng 6/2016… các bài viết này có nội dung đề cập đến các hoạt động nghiệp
vụ của Bảo tàng như sưu tầm, trưng bày, bảo quản, phục chế các TPMT.
* Luận án và khoá luận tốt nghiệp
- T.S. Lê Thị Minh Lý (2006), với luận án Tiến sỹ Văn hóa học: “Bảo
tàng Việt Nam, thực trạng và giải pháp chính nhằm kiện toàn hệ thống bảo
tàng trong phạm vi cả nước”. Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng hệ
thống bảo tàng nước ta, đi sâu phân tích một số bảo tàng tiêu biểu và đưa ra
giải pháp chính nhằm kiện toàn hệ thống bảo tàng trong phạm vi cả nước.
- Sinh viên Nguyễn Thị Lan Hương (2004), Khoa Bảo tàng (nay là
khoa DSVH) - Trường Đại học Văn hoá Hà Nội nghiên cứu và viết khóa luận
tốt nghiệp: “Tìm hiểu nội dung và giá trị nghệ thuật của một số tác phẩm sơn
mài hiện đại trưng bày tại Bảo tàng MTVN”. Khóa luận đi sâu mô tả, phân
tích, giá trị nghệ thuật của một số tác phẩm sơn mài hiện đại trên hệ thống

trưng bày và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của các
tác phẩm nghệ thuật sơn mài tại Bảo tàng MTVN.
- Sinh viên Lê Thị Bích Diệu (2007), Khoa Bảo tàng (nay là khoa
DSVH) - Trường Đại học Văn hoá Hà Nội nghiên cứu và viết khóa luận tốt
nghiệp: “Tìm hiểu sưu tập tranh dân gian tại hệ thống trưng bày của Bảo tàng
MTVN”. Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng bộ sưu tập tranh dân gian
trưng bày tại Bảo tàng MTVN, đi sâu phân tích một số hiện vật tiêu biểu và
đưa ra giải pháp nhằm phát huy giá trị bộ sưu tập.
- Sinh viên Nguyễn Hữu Tam (2009), Khoa Bảo tàng (nay là khoa
DSVH) - Trường Đại học Văn hoá Hà Nội nghiên cứu và viết khóa luận tốt
nghiệp: “Tìm hiểu công tác trưng bày chuyên đề tại Bảo tàng MTVN”. Khóa


8
luận tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động trưng bày chuyên đề của Bảo
tàng MTVN từ năm 2000 đến năm 2009, vai trò của trưng bày chuyên đề
trong bảo tàng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
của hoạt động này tại Bảo tàng MTVN.
Thông qua các tài liệu trên, có thể nhận thấy các sách, đề tài nghiên
cứu khoa học, bài viết trên báo, tạp chí phần lớn là những ấn phẩm tuyên
truyền giới thiệu về hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng và HV - TPMT tiêu
biểu. Còn khóa luận của sinh viên đều tập trung nghiên cứu về công tác
trưng bày hoặc từng lĩnh vực nghiệp vụ của bảo tàng từ đó đưa ra một số
giải pháp nhằm đổi mới các hoạt động nghiệp vụ của bảo tàng. Như vậy, cho
đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu cụ thể về vấn đề quản
lý hoạt động của Bảo tàng MTVN một cách đầy đủ, sâu sắc dưới góc độ
quản lý văn hóa.
Trong quá trình triển khai đề tài “Quản lý hoạt động của Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam”, tác giả sẽ chọn lọc, tiếp thu, kế thừa và vận dụng các kết quả
của những tác giả đi trước vào một số nội dung phù hợp của công trình nghiên

cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thông qua việc khảo sát phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý
hoạt động của Bảo tàng MTVN từ năm 2010 đến nay, từ đó đề xuất một số
giải pháp cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động Bảo
tàng MTVN trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu sưu tầm, thu thập tài liệu, sách, các công trình nghiên cứu
về bảo tàng và quản lý bảo tàng.


9
- Nghiên cứu sưu tầm, thu thập tài liệu, sách, báo, các công trình nghiên
cứu, các bài viết có nội dung liên quan đến bảo tàng, quản lý bảo tàng và hoạt
động của Bảo tàng MTVN.
- Xử lý thông tin thu thập được phục vụ cho đề tài.
- Khảo sát thực trạng hoạt động và quản lý hoạt động của Bảo tàng
MTVN về các lĩnh vực: Cơ cấu tổ chức; Chức năng, nhiệm vụ; Các hoạt động
chuyên môn nghiệp vụ; Các nguồn lực; Các hoạt động dịch vụ; Công tác kiểm
tra, khen thưởng kịp thời… Từ đó rút ra được những mặt ưu điểm và hạn chế
trong công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng MTVN.
.- Nghiên cứu phương hướng, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng MTVN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quản lý hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý hoạt động của Bảo tàng MTVN từ năm
2010 đến nay nhằm khẳng định những thành tựu đã đạt được trong 45 năm

xây dựng và phát triển của Bảo tàng.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước về văn hóa, di sản văn hoá, bảo tàng và quản lý bảo tàng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng áp dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: Quản lý
văn hoá, Lịch sử, Bảo tàng học, Xã hội học, Mỹ thuật học.


10
- Đề tài sử dụng áp dụng phương pháp khảo sát thực tế quản lý hoạt
động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
- Đề tài áp dụng phương pháp thống kê, phân loại, tổng hợp, phân tích,
các dữ liệu, số liệu thu thập được.
- Đề tài áp dụng phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu các
đối tượng như: nhà quản lý, cán bộ, khách tham quan… tại Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn
- Là công trình nghiên cứu đầu tiên về thực trạng công tác quản lý hoạt
động của Bảo tàng MTVN từ năm 2010 đến nay.
- Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý
quản lý hoạt động của Bảo tàng MTVN, góp phần vào sự nghiệp bảo tồn và
phát huy vốn di sản văn hóa dân tộc trong thời đại ngày nay.
- Luận văn sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà quản lý
bảo tàng nói chung và Bảo tàng MTVN nói riêng. Đồng thời là tài liệu tham
khảo cho cán bộ, chuyên viên hiện đang làm việc tại Bảo tàng MTVN và sinh
viên muốn tìm hiểu về Bảo tàng MTVN.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.

Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý, quản lý Bảo tàng và
tổng quan Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam


11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ, QUẢN LÝ BẢO TÀNG
VÀ TỔNG QUAN BẢO TÀNG MỸ THUẬT VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề chung về quản lý, quản lý bảo tàng
1.1.1. Những vấn đề chung về quản lý
1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm, là một phạm trù
tồn tại khách quan, được ra đời từ nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi quốc
gia và ở mọi thời đại.
Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của xã
hội. Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu
mà họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu
quản lý cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá
nhân hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội phát triển qua các phương thức
sản xuất từ cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại, trong đó quản lý
luôn là một thuộc tính lịch sử tất yếu khách quan gắn liền với xã hội ở mọi giai
đoạn phát triển của nó. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội
đó là lao động tập thể - lao động xã hội của con người. Trong quá trình lao động,
con người buộc phải liên kết với nhau, kết hợp lại thành tập thể, điều đó đòi hỏi
phải có sự tổ chức, phân công và hợp tác trong lao động, đó là quản lý.

Như vậy, quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng
đồng, dựa trên sự phân công và hợp tác trong lao động nhằm đạt được mục
tiêu chung đề ra.
Mặc dù quản lý là thuộc tính tất yếu gắn liền với xã hội, nhưng chỉ khi
xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý mới được tách ra
thành một chức năng riêng của lao động xã hội. Xã hội càng phát triển về


12
trình độ, về quy mô sản xuất, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghệ,
thì trình độ quản lý, tổ chức, điều hành và công nghệ quản lý cũng được
nâng lên và phát triển không ngừng.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý:
Fredrick Winslow Taylor (1856-1915) khẳng định:”Quản lý là biết
được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng
họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất [17, tr.9]. Giáo sư
Harolk Kootz Chủ tịch danh dự Viện hàn lâm Quản lý quốc tế Hoa Kỳ cho
rằng: “Quản lý là việc thiết lập và duy trì môi trường nơi mà cá nhân làm việc
với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động hữu hiệu và có kết quả, nhằm đạt
được các mục tiêu của nhóm” [17, tr.9-10].
Một số quan niệm của chuyên gia trong nước như Nguyễn Minh Đạo
cho rằng: “Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá
trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề
ra” [16, tr.9].
Một khái niệm quản lý được nhiều nhà nghiên cứu đồng thuận và bản
thân tác giả cho rằng đây là khái niệm phản ánh tương đối rõ và đầy đủ:
“Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể (người quản lý,
tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý (đối tượng quản lý) bằng một hệ thống
luật pháp, chính sách, nguyên tắc, các phương pháp nhằm tạo ra môi trường,
điều kiện cho sự phát triển đối tượng đạt mục tiêu đã đề ra” [28, tr.14].

Thông qua việc nghiên cứu một số khái niệm về quản lý trên đây cho thấy:
Quản lý là hoạt động khách quan, nảy sinh khi cần có hoạt động tập
thể, nhằm thực hiện mục tiêu chung, quản lý có ở mọi tổ chức từ lớn đến nhỏ,
từ đơn giản đến phức tạp, trình độ xã hội càng cao đòi hỏi vai trò quản lý ở
tầm vĩ mô. Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác


13
định. Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận, đó là chủ thể quản lý và
đối tượng quản lý. Quản lý là sự tác động bằng hệ thống luật lệ, chính sách,
nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý xét về mặt công nghệ còn
là sự vận động của thông tin.
Khi xem xét về mặt bản chất thì quản lý là sự kết hợp nỗ lực chung của
con người trong tổ chức và việc sử dụng tất cả của cải vật chất thuộc phạm vi
sở hữu của tổ chức để đạt mục tiêu với hiệu quả cao nhất.
Như vậy, quản lý là một khoa học có vai trò quan trọng trong đời sống
và sự phát triển của xã hội. Nó là một hoạt động phổ biến trong mọi lĩnh vực,
mọi ngành nghề của xã hội, nó có mục đích rõ ràng và hướng đích cụ thể,
quản lý muốn đạt được hiệu quả cao thì phải có những phương pháp và cách
thức quản lý thích hợp.
1.1.1.2. Nội dung quản lý
Nội dung công tác quản lý cần thể hiện được tính khoa học, tính lô-gic
chặt chẽ, đảm bảo cho công tác quản lý thực sự đạt được hiệu quả cao. Thông
thường có thể hiểu nội dung công tác quản lý là sự xác định chỉ đạo, điều
chỉnh kế hoạch và các phương pháp điều hành của cơ quan cấp trên đối với
cấp dưới trong các lĩnh vực khác nhau.
Nội dung công tác quản lý gồm có:
- Xây dựng kế hoạch, qui hoạch, hoạch định chiến lược… thực chất là
xác định các mục tiêu (định rõ mục tiêu), mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu
dài, cần thiết lập một chiến lược toàn bộ để thực hiện mục tiêu đó.

Mục tiêu được hiểu là “trạng thái kinh tế hay xã hội mà con người
nhằm đạt tới về một loại hoạt động nào đó”. Để xác định đúng mục tiêu, thì
công tác quản lý một mặt phải căn cứ vào yêu cầu của các qui luật khách
quan, căn cứ vào đường lối chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng và


14
Nhà nước, mặt khác phải đánh giá đúng thực trạng cũng như các điều kiện
phát triển của đối tượng đó. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch (hoạch định) chiến
lược… nhằm phát triển đối tượng phải phù hợp với sự định hướng phát triển
của đất nước.
- Tổ chức thực hiện kế hoạch
Mục đích của tổ chức là xây dựng một mối quan hệ trong nội bộ sao
cho hoạt động thuận tiện, hợp lý và hiệu quả. Vì vậy, việc tổ chức thực hiện
kế hoạch hay chiến lược là phải xây dựng một bộ máy tổ chức và nhân sự cần
và đủ, hợp lý. Sau đó là sự phân công, sắp xếp, bố trí con người và giao
nhiệm vụ cho các phòng, ban và cá nhân thực hiện.
Việc xây dựng bộ máy tổ chức và sắp xếp nhân sự luôn (xuất phát) căn
cứ vào công việc và mỗi phòng, ban, tổ… phải rõ ràng về chức năng nhiệm
vụ và trách nhiệm, không được chồng chéo. Khi phân công giao nhiệm vụ cho
từng cá nhân để thực hiện kế hoạch cần phải kết hợp trình độ chuyên môn với
năng lực sở trường của từng người.
- Điều hành thực hiện kế hoạch
Điều hành thực hiện kế hoạch là chức năng quản lý, là nhiệm vụ hàng
ngày của người quản lý nhằm chỉ đạo, hướng dẫn và động viên các thành viên
hoạt động thực hiện kế hoạch được giao theo đúng định hướng và mục tiêu
đặt ra sao cho đạt hiệu quả cao. Thông thường việc điều hành thực hiện kế
hoạch phải thực hiện theo nguyên tắc chế độ một thủ trưởng.
- Kiểm tra thực hiện kế hoạch
Đây là một hoạt động rất quan trọng của công tác quản lý, mục tiêu

kiểm tra là nhằm nắm được tình hình thực hiện kế hoạch đã đề ra, đánh giá
việc thực hiện kế hoạch đã đề ra, đánh giá thực hiện kế hoạch về chất lượng
chuyên môn, về thời gian, về tài chính, về cơ sở vật chất và các phương tiện


15
phục vụ khác, đánh giá khả năng hoàn thành kế hoạch… từ đó đề xuất các
biện pháp nhằm điều chỉnh, bổ sung cho kế hoạch (nếu cần).
Trong quá trình quản lý, người quản lý phải quan tâm đến tất cả nội
dung có tính chất tổng quát nêu trên, nếu thấy nảy sinh vấn đề phức tạp, khó
khăn ở khâu nào thì phải xử lý ngay (hoặc giải quyết) ở khâu đó, có như vậy
quy trình quản lý mới thông suốt và có hiệu quả.
1.1.1.3. Phương pháp quản lý
- Phương pháp quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý tác động vào
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Phương pháp quản lý có
tính chất linh hoạt, phụ thuộc vào mục tiêu, đối tượng và tình huống quản lý.
Đối tượng tác động của các phương pháp quản lý là con người với sự “tổng
hòa của các mối quan hệ xã hội” có những ưu điểm và những hạn chế nhất
định. Người quản lý phải thấy rõ được những ưu điểm và cả nhược điểm của
họ để có phương pháp quản lý thích hợp nhằm phát huy ưu điểm, hạn chế
nhược điểm để họ có thể làm việc có chất lượng cao và hiệu quả. Do đó, nhận
thức đúng và sử dụng phương pháp quản lý không chỉ đơn thuần là thực hiện
tốt các chức năng quản lý, mà nó còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Có 3 phương pháp quản lý cơ bản là: Phương pháp tổ chức - hành
chính; phương pháp kinh tế; phương pháp tâm lý - giáo dục.
+ Phương pháp tổ chức - hành chính là phương pháp dựa vào quyền uy
tổ chức của người quản lý để bắt buộc người dưới quyền phải chấp hành
mệnh lệnh quản lý. Ưu điểm của phương pháp này là thực hiện công việc
được nhanh chóng, thống nhất, triệt để, do vậy phù hợp với các tình huống
quản lý cấp bách, khẩn trương. Tuy nhiên phương pháp này thường hay dẫn

đến tình trạng quan liêu, do vậy khi xác lập cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý,
phải tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ và quan tâm đến điều kiện cụ thể
của các thành viên trong tổ chức.


16
+ Phương pháp kinh tế là phương pháp tác động của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế. Phương pháp này lấy lợi ích vật
chất làm đòn bẩy thúc đẩy con người hành động, qua đó người lao động sẽ
phát huy tài năng, tự chủ công việc mà không cần đến sự can thiệp trực tiếp
của tổ chức. Lợi ích người lao động được thể hiện qua thu nhập, phù hợp với
mức độ đóng góp và hiệu quả lao động sản xuất. Tuy nhiên, nếu quá coi trọng
lợi ích chung, coi nhẹ lợi ích cá nhân sẽ làm triệt tiệu động lực lao động của
đối tượng quản lý, nhưng nếu lạm dụng phương pháp kinh tế dễ dẫn tới chỉ
nghĩ tới vật chất, thậm chí lệ thuộc vào vật chất, tiền của mà quên đi tinh thần,
đạo lý, có thể dẫn tới những hành vi phạm pháp.
+ Phương pháp tâm lý - giáo dục là sự tác động tới đối tượng quản lý
thông qua các quan hệ tâm lý, tư tưởng, tình cảm. Phương pháp này vận dụng
các quy luật, nguyên tắc tâm lý và giáo dục, nhờ đó người quản lý nắm được
tâm tư, tình cảm, đạo đức, nhu cầu của mỗi người và có biện pháp tạo lập
trong mỗi con người niềm say mê, phấn khởi, ý thức trách nhiệm, tinh thần
sáng tạo đối với công việc. Bên cạnh đó, uy tín, tác phong, đạo đức, lối sống,
trình độ chuyên môn và năng lực của người quản lý cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến tâm lý, động cơ làm việc của người lao động.
Các phương pháp quản lý trên có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo
thành hệ thống đồng bộ hỗ trợ cho nhau, tùy từng tính chất của tổ chức mà có
thể vận dụng các phương pháp quản lý ở mức độ khác nhau để đạt được mục
tiêu, hiệu quả quản lý.
Để nâng cao hiệu quả quản lý, đòi hỏi người quản lý phải lựa chọn
đúng đắn và kết hợp vận dụng linh hoạt các phương pháp quản lý nêu trên,

đồng thời không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn,
năng lực quản lý, đạo đức nghề nghiệp.


17
1.1.2. Cơ sở lý luận về quản lý bảo tàng
1.1.2.1. Khái niệm Di sản văn hóa
Ngày 29 tháng 6 năm 2001, Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kì họp thứ 9 thông qua, ngày
18 tháng 6 năm 2009 Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 đã sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật DSVH. Ngay từ lời mở đầu Luật DSVH đã xác định:
“Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [22, tr.11]
DSVH bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể,
là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học,
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam [22, tr.6].
DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử văn
hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được
tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [22, tr.9].
DSVH vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia [22, tr.7].
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Di sản là cái của thời trước để lại” [29,
tr.254]. DSVH theo nghĩa Hán Việt là những tài sản văn hóa có giá trị của quá
khứ còn tồn tại trong cuộc sống đương đại và tương lai. Di là để lại, còn lại,
dịch chuyển, chuyển lại. Sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. DSVH

được hiểu bằng sự tổng hợp của các ý nghĩa nói trên.


18
Năm 1983, Hội nghị Di sản toàn quốc của Vương quốc Anh đã định
nghĩa: “Di sản là những gì thuộc về thế hệ trước giữ gìn và chuyển giao cho
thế hệ hiện nay và những gì mà một nhóm người quan trọng trong xã hội hiện
nay mong muốn chuyển giao cho thế hệ tương lai” [26, tr.20].
Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp
quốc, gọi tắt là UNESCO họp phiên thứ 32 tại Paris từ 29-9 đến 17-10-2003
đã bàn thảo và ra Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể. Công ước đã ghi
nhận: Các quá trình toàn cầu hóa và chuyển đổi cơ cấu xã hội cùng với các
điều kiện khác đã tạo nhiều cơ hội đối thoại mới giữa các cộng đồng, đồng
thời cũng làm nảy sinh những mối đe dọa về sự suy thoái biến mất và hủy
hoại các DSVH phi vật thể.
Khái niệm di sản là một khái niệm tiến triển, vận động thay đổi theo
thời gian. Ngày nay khái niệm di sản không hoàn toàn đồng nhất với khái
niệm tài sản từ quá khứ nữa. Bởi lẽ không phải bất cứ cái gì của quá khứ cũng
được coi là di sản. Di sản là sản phẩm của quá khứ nhưng đó là quá khứ được
lựa chọn theo nhu cầu xã hội hiện đại. Di sản là sự lựa chọn từ quá khứ lịch
sử những ký ức, báu vật của cộng đồng, thể hiện nhu cầu, nguyện vọng, mong
muốn của xã hội hiện đại. Do đó, sự ra đời của Luật DSVH năm 2001 cùng
với các văn bản hướng dẫn đi kèm đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng,
nhằm tăng cường nhận thức và hành động cho toàn xã hội, tăng cường sự hiểu
biết về di sản và quá trình bảo vệ, phát huy kho tàng DSVH của dân tộc.
Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong việc phê chuẩn
Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể năm 2003 của UNESCO và là thành
viên của Ủy ban Liên Chính phủ tham gia xây dựng phương hướng hoạt động
và các chính sách quốc tế có liên quan đến Công ước này. DSVH Việt Nam là
tài sản văn hóa quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ

phận của DSVH nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ


19
nước của nhân dân ta. Như vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH là hoạt
động thiết thực nhằm hướng tới xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến đậm
đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào việc giữ gìn và làm phong phú cho kho
tàng DSVH nhân loại.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chủ trương đường lối và chính sách bảo vệ và phát huy giá trị DSVH
nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế
xã hội của đất nước.
Như vậy, DSVH chính là thành quả của quá trình đấu tranh dựng nước
và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử; phản
ánh tiến trình phát triển, thành tựu và khả năng của c dân tộc; là minh chứng
sống động cho sự vận động, giao thoa và phát triển về mọi mặt của đời sống
xã hội, đồng thời phản ánh những đặc trưng cơ bản để làm rõ sự khác nhau
giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác trong
những môi trường, cảnh quan cụ thể của không gian và thời gian.
1.1.2.2. Khái niệm bảo tàng, quản lý bảo tàng
- Khái niệm bảo tàng
Trên thế giới, bảo tàng đã ra đời, tồn tại và phát triển cùng với xã hội
loài người cho đến ngày nay đã trải qua các thời kì lịch sử khác nhau, như
thời kì cổ đại, thời kì trung cổ, thời kì phục hưng, thế kỷ XVIII - XIX và thế
kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
Nhìn theo chiều dài lịch sử có thể nhận thấy ngay từ thời kỳ cổ trung
đại, con người đã có ý thức biết sưu tầm, thu thập và lưu giữ những tác phẩm
nghệ thuật, những di vật quý, những hiện vật có giá trị thẩm mỹ, có giá trị lịch
sử văn hóa và các sưu tập mẫu vật có giá trị khoa học được lưu giữ trong các
“kho báu” hay trong các “phòng hiếu kỳ” (Kunscamera) để dần dần hình



20
thành các bảo tàng ở thế kỉ sau nhằm trưng bày giới thiệu các giá trị đó cho
muôn đời sau. Nhưng trên thực tế, bảo tàng với nghĩa hiện đại đã phát triển ở
châu Âu vào thế kỉ VXIII. Thuật ngữ bảo tàng “Museum” được sử dụng lần
đầu tiên ở nước Anh, khi bảo tàng Ashmolean được khánh thành và mở cửa
đón công chúng vào năm 1643. Từ đó đến nay, trên thế giới bảo tàng đã ngày
càng phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng với nhiều loại hình đa
dạng, phong phú về kiểu, loại, loại hình bảo tàng khác nhau, với một con số
không nhỏ khoảng 65.000 bảo tàng (tính đến năm 2010).
Như vậy, có thể khẳng định bảo tàng là một hiện tượng của xã hội, ra
đời, tồn tại và phát triển do nhu cầu của xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu
thực tiễn của con người trong xã hội ở những thời kì lịch sử khác nhau và
phục vụ cho sự tiến bộ xã hội.
Còn ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng được hình thành và phát triển
trải qua các giai đoạn lịch sử sau đây:
Một số bảo tàng do người Pháp xây dựng trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945;
Bảo tàng Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám từ 1945 đến 1954;
Bảo tàng Việt Nam thời kì 1954 - 1975;
Bảo tàng Việt Nam từ 1975 đến nay;
Sự nghiệp bảo tàng Việt Nam trải qua hơn nửa thế kỷ tồn tại và phát
triển, đến nay có khoảng 150 bảo tàng, trong đó có 123 bảo tàng công lập và
gần 30 bảo tàng ngoài công lập. Hệ thống bảo tàng Việt Nam khá phong phú
về loại hình, đa dạng về thể loại bao gồm: Các bảo tàng thuộc loại hình lịch sử
xã hội, loại hình khoa học tự nhiên, loại hình nghệ thuật, danh nhân lưu niệm
v.v… Trong quá trình hoạt động, hệ thống bảo tàng Việt Nam đã và đang góp
phần quan trọng vào sự nghiệp bảo tồn DSVH dân tộc, xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.



21
Qua các số liệu về bảo tàng trên thế giới và Việt Nam cho thấy vai trò, vị
trí của bảo tàng ngày càng phát triển không ngừng trong xã hội nói chung và
trong cơ quan văn hóa - khoa học - giáo dục nói riêng, đồng thời bảo tàng có ảnh
hưởng lớn đến công tác giáo dục và nâng cao dân trí trong xã hội. Vì vậy, vấn đề
nghiên cứu làm rõ khái niệm bảo tàng, nội dung, bản chất cùng phạm vi hoạt
động của bảo tàng trở thành một vấn đề quan trọng trong lý luận bảo tàng học.
Ở đây, tác giả xin trình bày một số khái niệm có nội dung phản ánh khá đầy đủ
về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, đặc trưng, chức năng và bản chất của bảo tàng:
Trước hết là khái niệm mới nhất, gần đây nhất của ICOM (Hiệp hội
Bảo tàng quốc tế) được thông qua tại kì họp thứ 20 tại Seoul (Hàn Quốc)
tháng 10/2004:
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa phi lợi nhuận, hoạt động thường
xuyên, mở cửa đón công chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự
phát triển của xã hội. Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu,
thông tin và trưng bày các bằng chứng vật thể và phi vật thể về con
người và môi trường của con người vì mục đích nghiên cứu, giáo
dục và thưởng thức [40, tr.113].
Khái niệm trên đây của ICOM là đã phản ánh được đối tượng hoạt
động của bảo tàng bao gồm cả DSVH vật thể và phi vật thể, về con người và
môi trường xung quanh, đồng thời có bổ sung mới về chức năng cho bảo tàng
đó là phục vụ công chúng, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội,
không lấy lợi nhuận làm mục đích, từ đó bảo tàng phải thực hiện được chức
năng nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức của công chúng.
Ở Việt Nam, kế thừa thành quả nghiên cứu của ICOM và các nước trên
thế giới, đồng thời từ kinh nghiệm thực tiễn hoạt động của sự nghiệp bảo tàng
hơn nửa thế kỷ qua, các nhà bảo tàng học Việt Nam đã đưa ra khái niệm về
bảo tàng, được ghi trong Luật DSVH:



22
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản,
nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu DSVH, thông tin và các bằng
chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của
con người nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan
và hưởng thụ văn hóa của công chúng [22, tr.66 - 67].
Nội dung của khái niệm này ngắn gọn đã phản ánh đầy đủ các hoạt
động, đối tượng, chức năng và nhiệm vụ của bảo tàng Việt Nam trong thời kì
hội nhập và phát triển.
Mặc dù có nhiều khái niệm về bảo tàng nhưng qua nghiên cứu tham
khảo nhiều tài liệu nghiệp vụ bảo tàng, các nhà bảo tàng học đều khẳng định
một số vấn đề cơ bản về bảo tàng sau đây:
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù, một cơ quan khoa học và
giáo dục;
Đối tượng nghiên cứu, trưng bày của bảo tàng là những DSVH vật thể
và phi vật thể cùng môi trường xung quanh con người;
Mục đích của bảo tàng là phục vụ công chúng;
Các hoạt động của bảo tàng là nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, trưng
bày giới thiệu các sưu tập hiện vật về lịch sử xã hội, tự nhiên cho công chúng;
Bảo tàng có nhiệm vụ tổ chức hoạt động dịch vụ, phục vụ khách tham
quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ bảo tàng.
Như vậy, bảo tàng là một thiết chế văn hóa tồn tại lâu dài, nó có lịch sử
hình thành và phát triển cùng với nhu cầu gìn giữ những DSVH, khi còn nhu
cầu tìm hiểu lịch sử, kinh nghiệm của quá khứ, tiếp thu những giá trị của
DSVH và nhu cầu giáo dục truyền thống thì bảo tàng còn tồn tại và phát triển.
- Khái niệm quản lý bảo tàng
Bảo tàng là một thiết chế văn hóa đặc thù tồn tại trong xã hội nhằm
mục đích phục vụ nhu cầu của công chúng và cộng đồng xã hội bảo tàng, do



23
đó bảo tàng cần phải vận dụng khoa học quản lý vào lĩnh vực hoạt động của
mình (cả vĩ mô và vi mô) một cách thích hợp để quản lý hoạt động của bảo
tàng nhằm mục đích động viên tính tích cực của cán bộ nhân viên, phát huy
mọi tiềm lực về hiện vật, trang thiết bị, cơ sở vật chất, tài chính… của bảo
tàng để phục vụ xã hội và được công chúng xã hội hài lòng, ủng hộ, không
ngừng nâng cao hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế.
Dựa trên cơ sở khoa học quản lý và các chức năng xã hội của bảo tàng,
các nhà bảo tàng học đã đưa ra khái niệm quản lý bảo tàng như sau:
Hiểu theo nghĩa rộng thì: Quản lý bảo tàng là sự tác động bằng thể chế
và tổ chức nhằm bảo vệ, bảo quản DSVH vật thể, các bộ sưu tập của các sở
hữu khác nhau và phát huy di sản ấy phục vụ nhu cầu nghiên cứu và giải trí
của công chúng [28, tr.38].
Còn theo nghĩa hẹp: Quản lý bảo tàng là sự tác động tới sự chăm sóc,
bảo quản hiện vật bảo tàng và sử dụng chúng trong việc giáo dục khoa học và
phục vụ nghiên cứu [28, tr.38].
Từ các khái niệm trên về quản lý bảo tàng, dù theo nghĩa rộng hay nghĩa
hẹp thì mục đích cuối cùng cũng nhằm bảo tồn và phát huy một cách tốt nhất các
DSVH vật thể và phi vật thể được giữ gìn và trưng bày trong bảo tàng. Bởi đó
chính là cơ sở vật chất để bảo tàng thực hiện các hoạt động chuyên môn của mình.
Như vậy, có thể khẳng định quản lý bảo tàng là vấn đề trọng yếu trong
sự nghiệp bảo tàng. Quản lý bảo tàng có trình độ tốt hay xấu sẽ quyết định
đến tương lai phát triển của bảo tàng. Do vậy, chỉ có thể vận dụng khoa học
quản lý hiện đại để quản lý tốt bảo tàng mới làm cho bảo tàng có sức mạnh,
phát huy tính tích cực của tập thể nhân viên, phát huy giá trị DSVH, sáng tạo
các hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của công chúng xã hội, từ đó nâng cao
hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế của bảo tàng.



×