Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện công tác quản lý tài sản có tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.55 KB, 100 trang )

1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Đối với Ngân hàng thương mại (NHTM), tài sản có tạo ra thu nhập, bảo
đảm khả năng thanh toán, đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động của bản thân
Ngân hàng. Khác với tài sản của doanh nghiệp, phần lớn các tài sản có của
ngân hàng là tài sản tài chính- tức là các tài sản mà quyền sở hữu và quyền sử
dụng luôn tách rời nhau. Mặt khác, tài sản có còn là tấm gương phản ánh trình
độ, chất lượng hoạt động; do đó công tác quản lý tài sản có có vai trò quan
trọng đối với các NHTM. Hiểu rõ tầm quan trọng của Tài sản, các NHTM nói
chung và Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng rất quan tâm đến
công tác quản lý tài sản có bởi chỉ có quản lý tốt tài sản có mới đảm bảo cho
hoạt động của Ngân hàng thương mại an toàn, hiệu quả, tăng sức mạnh.
Thực tế, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu
trong quản lý tài sản có như: xây dựng bộ máy vận hành, quản lý tài sản
tương đối hoàn chỉnh, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy chế, quy trình
về công tác quản lý tài sản có, trang bị cơ sở vật chất, công nghệ khá hiện đại
để phục vụ công tác quản lý. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của thị
trường, của hội nhập kinh tế, công tác quản lý tài sản có của Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam cũng còn bộc lộ nhiều bất cập.
Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: "Hoàn
thiện công tác quản lý tài sản có tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam".
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tài sản có và công tác quản lý tài sản có
trong ngân hàng thương mại.
- Tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý tài sản có
của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


2


- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài sản có tại
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý tài sản có tại các Ngân hàng
thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác quản lý tài sản có tài chính (chỉ xét nội
bảng) giai đoạn 2006-2008 trong đó tập trung nghiên cứu vào công tác quản
lý các khoản tín dụng - bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tài sản, tạo ra
nhiều thu nhập nhất cho ngân hàng và cũng tiền ẩn nhiều rủi ro nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận cơ bản dựa trên nền tảng của phương pháp luận duy vật
biện chứng kết hợp với phương pháp phân tích thống kê, phương pháp logic.
5. Kết cấu của luận văn
Tên luận văn: "Hoàn thiện công tác quản lý tài sản có tại Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam" .
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng chỉ dẫn các chữ viết tắt, lời cảm ơn,
mục lục, tóm tắt tên các bảng biểu và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 Chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý tài sản có của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý tài sản có tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài sản có tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
TÀI SẢN CÓ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ NHTM VÀ TÀI SẢN CÓ CỦA NHTM

1.1.1 Khái niệm NHTM
Lịch sử đã ghi nhận nghề ngân hàng được bắt đầu với nghiệp vụ đổi
tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng hoặc thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng
cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch
giá mua, giá bán.
Các ngân hàng thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn do đó các
ngân hàng thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ và người gửi tiền phải trả
phí cho các ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền nên trong két của ngân
hàng luôn có một khoản tiền nhàn rỗi, ngân hàng sử dụng để cho vay và thu
lãi. Nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay ra đời.
Từ việc cất trữ hộ ngân hàng nhận thấy nếu hai khách hàng cùng có tài
khoản tại ngân hàng nhờ ngân hàng thực hiện chi trả hộ thì số tiền tại ngân
hàng không thay đổi mà chỉ là thực hiện bút toán ghi tăng và ghi giảm các
khoản tiền gửi, do đó nghiệp vụ thanh toán hộ xuất hiện.
Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế, có nhiều các định nghĩa khác nhau về ngân hàng nhưng xét trên khía
cạnh dịch vụ mà ngân hàng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Theo Luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam và nghị định số
49/2000/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2000 của Chính phủ quy định: “Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục


4
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm: ngân hàng thương mại, ngân
hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác
và các loại hình ngân hàng khác”. Cũng theo Luật các tổ chức tín dụng thì

hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cùng với vốn
chủ sở hữu để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2 Những hoạt động chủ yếu của NHTM
● Nghiệp vụ huy động vốn
Đây là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM, thực hiện
nghiệp vụ này chính là NHTM đã thực hiện chức năng tạo tiền nhằm cung
ứng vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội bằng cách nhận tiền
gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Tiền gửi không kỳ hạn là lại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất
cứ lúc nào. Đối với khoản tiền gửi này, mục đích chính của khoản tiền gửi là
nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán qua ngân
hàng và do vậy nó thường được gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng
được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến một vài năm (3
tháng, 6 tháng,...). Mục đích của người gửi tiền là lấy lãi và ngân hàng có thể
chủ động kế hoạch sử dụng nguồn vốn này vì tính có thời hạn của nguồn vốn.
- Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm là tiền để dành của dân cư được
gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi. Hình thức phổ biến và cổ điển
nhất là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ.
Có thể nói, thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của nhân dân, của doanh nghiệp
và đơn vị kinh tế qua các hình thức tiền gửi là công tác cơ bản đầu tiên và là
đặc trưng trong hoạt động của NHTM.


5
Ngoài ra, khi cần thiết ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành
các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Trong trường hợp

đặc biệt, NHTM còn vay vốn của các ngân hàng, các tổ chức tài chính, tín
dụng nước ngoài và vay vốn của Ngân hàng nhà nước dưới hình thức tái cấp
vốn.
● Nghiệp vụ tín dụng và đầu tư
Việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, các
nguồn vốn vay tạo cho ngân hàng khả năng cung cấp tín dụng và thực hiện
các hoạt động đầu tư, qua đó thúc đầy nền kinh tế phát triển, tạo ra lợi nhuận
cho các ngân hàng ngày càng cao.
Nghiệp vụ tín dụng của các NHTM chiếm tỷ trọng lớn. Đối với Việt
nam, hoạt động tín dụng là nghiệp vụ tạo ra doanh thu và lợi nhuận chủ yếu
của các ngân hàng thông qua chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu
vào. Nghiệp vụ tín dụng được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến sau:
- Chiết khấu thương phiếu: là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó ngân
hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán của khách hàng với giá
trị bằng giá trị thương phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng phí.
- Tín dụng ứng trước: Tín dụng ứng trước là một thể thức tín dụng được
thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó người đi vay được phép sử
dụng một mức tín dụng trong một thời hạn nhất định.
- Tín dụng vượt chi (thấu chi): Đây là hình thức đặc biệt của tín dụng
ứng trước, thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó người vay được
phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản
vãng lai.
- Tín dụng uỷ thức hay bao thanh toán (Factoring): Đây là các dịch vụ
do các Factor thực hiện khi họ mua lại các giấy nợ của các khách hàng để
thanh toán hộ.


6
- Cho vay thuê mua: Cho vay thuê mua là hình thức tín dụng trung, dài
hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các

động sản và tài sản khác.
- Tín dụng bằng chữ ký: Trong hình thức tín dụng này ngân hàng không
trực tiếp cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín của mình, ngân
hàng tạo điều kiện để khách hàng sử dụng vốn của người khác và đảm bảo
thanh toán cho khách hàng.
Khối lượng tín dụng ngắn hạn do các NHTM cung cấp, đại bộ phận cho
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ để thực hiện các khoản thanh
toán, dự trữ hàng hoá. Ngân hàng cũng cung cấp tín dụng cho đầu tư phát
triển dưới hình thức tài trợ trung, dài hạn với tỷ trọng hợp lý, phù hợp với nhu
cầu của nền kinh tế và khả năng nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng. Có
thể nói, tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế.
● Nghiệp vụ đầu tư: Hoạt động đầu tư của ngân hàng được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau như: đầu tư chứng khoán, hùn vốn, liên
doanh, uỷ thác đầu tư...Hoạt động đầu tư nhằm đem lại lợi nhuận cho NHTM
đồng thời cũng đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng.
● Nghiệp vụ trung gian
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính lớn nhất trong số các
trung gian tài chính. Với nghiệp vụ chính là huy động vốn để cho vay và đầu
tư tự thân đã tạo ra cơ hội lớn cho ngân hàng trong việc làm nghiệp vụ trung
gian thanh toán, đáp ứng nhu cầu của chủ tài khoản cũng như các khách hàng
vãng lai. Nghiệp vụ trung gian của các NHTM bao gồm:
- Cung ứng các phương tiện thanh toán như phát hành séc, thẻ tín dụng;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; Thực hiện
các dịch vụ thu hộ, chi hộ;
- Tham gia thị trường tiền tệ do Ngân hàng Nhà nước tổ chức;
- Kinh doanh ngoại hối và vàng khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép;


7
- Nghiệp vụ uỷ thác, đại lý;

- Cung cấp dịch vụ tư vấn, tài chính, tiền tệ cho khách hàng;
- Bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két; …; Thực hiện
nghiệp vụ thanh toán khác do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Bên cạnh các hoạt động cơ bản trên thì các ngân hàng thương mại còn có
thể tham gia vào các hoạt động như: Chiết khấu các chứng từ có giá, dịch vụ uỷ
thác, bảo lãnh, ...
Các nghiệp vụ của NHTM có quan hệ bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó
nghiệp vụ nợ làm cơ sở để thực hiện nghiệp vụ có. Nhưng nghiệp vụ có làm tăng
khả năng sinh lời cho NHTM, góp phần mở rộng nguồn vốn của ngân hàng do
tăng vốn dự trữ, tăng khả năng huy động vốn. Trên cơ sở nghiệp vụ tín dụng,
NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ trung gian, thực hiện tốt nghiệp vụ trung
gian cũng sẽ tạo điều kiện tăng nguồn vốn vì nghiệp vụ trung gian vừa là nghiệp
vụ nợ, vừa là nghiệp vụ có.
Tóm lại, nghiệp vụ của ngân hàng vô cùng phong phú và đa dạng. Với các
nghiệp vụ đó, ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của nền kinh tế, trở thành trung tâm của đời sống kinh tế.
1.1.3 Tài sản có của NHTM
● Khoản mục ngân quỹ:
Khoản mục này bao gồm các loại sau:
- Tiền mặt tại quỹ gồm tiền giấy và tiền kim loại hiện có tại kho của
ngân hàng. Nhu cầu dự trữ tiền mặt cao hay thấp tùy thuộc vào quy mô hoạt
động của ngân hàng, nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và còn mang tính
thời vụ.
- Tiền gửi ở ngân hàng khác: nhiều ngân hàng nhỏ gửi tiền trong những
ngân hàng lớn để đổi lấy nhiều dịch vụ khách nhau hoặc các ngân hàng dư
thừa vốn tạm thời gửi tiền vào các ngân hàng khác.


8
- Tiền gửi ở Ngân hàng Trung ương gồm tiền gửi dự trữ bắt buộc theo

quy định của Ngân hàng trung ương và tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng
trung ương.
Các bộ phận trên hình thành nên phần dự trữ của NHTM. Mặc dù dự
trữ của NHTM không tạo nên lợi nhuận nhưng nó đảm bảo khả năng thanh
toán và các nghĩa vụ tài chính khác cho ngân hàng.
● Khoản mục tín dụng:
Khoản mục tín dụng là khoản mục được hình thành từ hoạt động tín
dụng của NHTM. Ở Việt Nam, đây là hoạt động sinh lợi chủ yếu của NHTM.
Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của nhà quản trị ngân hàng là
kiếm được lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng.
Mức độ thanh khoản của các hợp đồng tín dụng, mặc dù rất quan trọng,
nhưng ở vị trí thứ yếu. Ít có các khoản tín dụng nào có thể bị thanh lý bằng
cách bán lại cho các tổ chức hoặc các cá nhân khác vì các nhà đầu tư không
muốn nhận về một khoản nợ mà các điều khoản về hoàn trả, về đảm bảo...do
người khác đã định sẵn trừ trường hợp nó được giao dịch thấp hơn giá trị ghi
số. Tiền cho vay là nhóm tài sản có chủ yếu trong tổng danh mục tài sản của
các ngân hàng, thông thường khoản mục này chiếm từ 70 đến 85% tài sản của
NHTM, ở những nước thị trường tài chính kém phát triển khoản mục này có
thể chiếm từ 90-95% tổng tài sản.
● Khoản mục đầu tư:
Khoản mục đầu tư có vị trí thứ hai sau khoản mục tín dụng, nó mang lại
thu nhập đáng kể cho NHTM. Trong hoạt động đầu tư ngân hàng dùng nguồn
vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như:
- Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty.
- Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công
ty... như tín phiếu, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình.
Khoản mục đầu tư góp phần nâng cao khả năng thanh toán cho ngân
hàng, bảo tồn ngân quỹ, đặc biệt khi đầu tư vào trái khoán Chính phủ vì loại



9
trái khoán này có tính lỏng rất cao. Đồng thời nó làm đa dạng hoá các hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
● Khoản mục tài sản có khác:
- Tài sản cố định: Khoản mục này bao gồm toàn bộ trụ sở, phương tiện
vận tải, trang thiết bị, bản quyền công nghệ, phần mềm…Những tài sản này
không sinh lời vì không trực tiếp tạo ra thu nhập cho ngân hàng nhưng lại là
các tài sản để đảm bảo cơ sở vật chất cho ngân hàng có thể hoạt động được.
- Các tài sản có khác: Chi phí trả trước, số dư tài khoản tiền gửi tại tổ
chức khác, tài sản uỷ thác…
1.2 CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI SẢN CÓ CỦA NHTM
1.2.1 Khái niệm
“Quản lý tài sản có” của ngân hàng là việc chuyển hoá nguồn vốn
thành tiền mặt và tài sản có sinh lợi; tức là việc phân chia hợp lý giữa vốn
giữa tiền mặt, tín dụng, đầu tư, chứng khoán và các tài sản có khác đảm bảo
đạt được lợi nhuận cao nhất.
1.2.2 Mục tiêu
Mục tiêu quản lý tài sản của NHTM cũng chính là mục tiêu của quản lý
Ngân hàng. Đó là tối đa hoá lợi ích của Ngân hàng trên cơ sở đảm bảo an toàn
và phải tôn trọng các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tránh các rủi ro để tồn tại và kinh
doanh có lãi. Cụ thể :
1.2.2.1. Đảm bảo kiểm soát được rủi ro
Kiểm soát được rủi ro là một mục tiêu rất quan trọng của quản lý tài
sản vì nếu không kiểm soát được rủi ro thì mọi kết quả hoạt động đều vô
nghĩa. Rủi ro Ngân hàng thường gặp phải bao gồm:
a- Rủi ro thanh khoản:
Rủi ro về thanh khoản gắn liền với những nguồn vốn khác nhau, trước
hết chính là rủi ro khi người gửi tiền hoặc người cho vay muốn rút tiền. Quá



10
trình gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với
các thể chế tài chính khác đang làm cho nguồn tiền của các ngân hàng đang
có thay đổi mạnh mẽ. Các nguồn tiền gửi của các cá nhân và doanh nghiệp trở
nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi
cho ngân hàng trong việc tìm kiếm các nguồn tiền song lại làm tăng tính
mỏng manh, kém ổn định của nguồn vốn gây ra rủi ro thanh khoản cho các
ngân hàng. Chính vì vậy, việc đảm bảo để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của
khách hàng một cách thường xuyên và trong những trường hợp đặc biệt khẩn
cấp là yêu cầu cấp thiết và là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý
tài sản của ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản.
b- Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất mà ngân hàng phải gánh
chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ
cả gốc và lãi. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy
mô lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng. Rủi ro trong hoạt động tín dụng
xuất phát từ nhiều chiều: từ phía khách hàng, từ phía ngân hàng, từ nền kinh
tế, từ những yếu tố chủ quan và khách quan khác. Nhìn chung ngân hàng chỉ
quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên,
không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các
vấn đề có thể xảy ra. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng
thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, rủi ro tín dụng là không thể
tránh khỏi, là khách quan. Vì vậy, trong quản lý tài sản không phải để loại trừ
rủi ro tín dụng mà là hạn chế tổn thất trong mức dự kiến.
c- Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất có thể xảy ra trên các khía cạnh: rủi ro do biến động lãi
suất của một đồng tiền (lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay); rủi ro chênh lệch
lãi suất giữa các đồng tiền.



11
Để huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả lãi,
khi tài trợ, ngân hàng thu lãi. Như nhiều giá cả hàng hoá khác, lãi suất của các
khoản tín dụng, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động , có thể làm
gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay
đổi của lãi suất. Rủi ro lãi suất xuất hiện do sự không cân xứng giữa kỳ hạn
của tài sản có và tài sản nợ; do thiếu các quy định về tôn trọng thời hạn thoả
thuận trong hợp đồng... Chính vì vậy, việc quản lý tài sản phải đảm bảo quản
lý kỳ hạn của tài sản nợ và tài sản có.
d- Rủi ro khác:
Ngoài các rủi ro trên, ngân hàng còn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro
như rủi ro hối đoái, rủi ro tác nghiệp, rủi ro chứng khoán...Các rủi ro này cũng
gây ra tổn thất cho ngân hàng nên mục tiêu của quản lý tài sản là phòng ngừa
và kiểm soát được các rủi ro có thể xảy ra để đảm bảo an toàn cho ngân hàng.
1.2.2.2 Đảm bảo khả năng sinh lời
Sinh lời là mục tiêu rất quan trọng trong quản lý tài sản của NHTM. Sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng chủ yếu dựa vào khả năng sinh lời của
ngân hàng. Tăng khả năng sinh lời là cách đảm bảo an toàn nhất cho hoạt
động ngân hàng. Ngân hàng phải tìm kiếm các khoản thu nhập để vừa bù đắp
các khoản chi vừa có thu nhập ròng. Các chủ sở hữu ngân hàng mong đợi một
mức lợi tức hấp dẫn, tương xứng với rủi ro mà họ chấp nhận. Nếu lợi tức cổ
phần giảm, thì giá cổ phẩn của ngân hàng sẽ giảm, uy tín của ngân hàng suy
giảm, dẫn đến giảm dòng tiền gửi vào ngân hàng. Vì vậy, tăng khả năng sinh
lời là biện pháp quan trọng để ngân hàng tăng uy tín đối với cổ đông, với
khách hàng và quan trọng nhất là ngân hàng tăng tích luỹ, thiết lập quỹ dự
phòng lớn, đủ sức phòng chống rủi ro.



12
1.2.3 Nội dung công tác quản lý tài sản của NHTM
1.2.3.1 Quản lý ngân quỹ
a- Yêu cầu quản lý ngân quỹ:
Ngân quỹ của ngân hàng là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất
(được sử dụng để thanh toán tức thời), được thiết lập nhằm duy trì khả năng
chi trả và các yêu cầu khác của NHTM. Tuy nhiên khoản mục này có tỷ lệ
sinh lời thấp nên quản lý ngân quỹ là việc làm thế nào để với một chi phí thấp
nhất mà vẫn đáp ứng được các nhu cầu thanh khoản của ngân hàng. Bộ phận
ngân quỹ bao gồm:
- Tiền tại quỹ (tiền giấy và tiền xu) là số tiền mặt mà ngân hàng giữa để
đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng ngày của mình. Bộ phận tài sản này là tài sản
không sinh lời do đó nhà quản lý ngân hàng cần hạn chế số lượng tài sản này
nhưng vẫn phải đảm bảo phòng tránh rủi ro nên để quản lý tốt số tiền tại quỹ
ngân hàng phải có các công cụ tính toán và cung cấp thông tin để xác định số
tiền tồn quỹ tối đa, tối thiểu.
- Tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước:
Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà ngân hàng phải gửi tại
NHTW để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và đảm bảo an toàn trong
hoạt động của ngân hàng. Công thức tính dự trữ bắt buộc:
Mức dự trữ
Tỷ lệ dữ trữ
Số dư bình quân của các
bắt buộc
=
bắt buộc
x
nguồn phải dự trữ bắt buộc
trong kỳ
trong kỳ

trong kỳ
Số tiền dự trữ vượt quá mức dự trữ bắt buộc sẽ không được hưởng lãi
hoặc chỉ có thể được hưởng mức lãi suất thấp hơn rất nhiều so với các tài sản
sinh lời khác.
Ngoài phần dữ trữ bắt buộc theo quy định, các ngân hàng còn duy trì số
dư tiền gửi của ngân hàng tại NHTW để thực hiện thanh toán bù trừ, chuyển
tiền điện tử.


13
- Tiền gửi tại các NHTM khác: Bao gồm toàn bộ số dư tiền gửi của
ngân hàng tại các NHTM khác, trong đó phần lớn gửi tại các Ngân hàng đại
lý (số tiền này không được tính vào tổng số tiền dự trữ bắt buộc của Ngân
hàng). Để bù lại, ngân hàng đại lý sẽ cung cấp cho các ngân hàng gửi tiền
nhiều loại hình dịch vụ khác nhau như hợp vốn cho vay, giao dịch quốc tế và
tư vấn đầu tư. Chi phí để duy trì tiền gửi tại ngân hàng đại lý chính là lợi
nhuận mà ngân hàng đã bỏ qua khi không đem số tiền này vào đầu tư những
tài sản khác có mức sinh lời cao hơn. Tổng các chi phí nói trên phải nhỏ hơn
lợi ích ngân hàng thu về từ những dịch vụ do ngân hàng đại lý cung cấp.
- Tiền trong quá trình nhờ thu:
Là giá trị các séc mà ngân hàng đã nộp vào NHTW hoặc ngân hàng đại
lý nhưng chưa được thanh toán. Khoản mục này nhiều hay ít phụ thuộc vào
giá trị các tờ séc và thời gian cần thiết để thanh toán các séc đó.
b- Đo lường nhu cầu thanh khoản của ngân hàng:
Nhu cầu thanh khoản được các ngân hàng dự đoán dựa trên nghiên cứu
các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản:
- Thứ nhất là các nhân tố như bất ổn định chính trị, tham nhũng trong
hệ thống tài chính, các khoản tín dụng xấu dẫn đến mất khả năng thanh toán
của ngân hàng...tạo ra sự hoảng loạn trong khách hàng.
- Thứ hai là các nhân tố như tính thời vụ trong sản xuất và tiêu dùng,

mức thu nhập và hệ số tiết kiệm, mật độ dân số và doanh nghiệp...ảnh hưởng
đến thu nhập và tiêu dùng của khách hàng
- Thứ ba là nhóm nhân tố cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh như
chính sách lãi suất huy động, chính sách tín dụng...
- Thứ tư là nhóm nhân tố tạo nên sức mạnh và uy tín của bản thân ngân
hàng như cán bộ , công nghệ, thị phần, uy tín...
Trên cơ sở nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, ngân hàng cần thiết:


14
- Phân tích nhu cầu thanh khoản trong quá khứ để từ đó xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh khoản, thấy những biến động về nhu
cầu này và các nhân tố ảnh hưởng;
- Đo lường để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến nhu cầu
thanh khoản;
- Phân tích và định lượng nhu cầu thanh khoản đối với từng loại tiền
gửi, từ nhóm khách hàng, từng thời kỳ trong năm.
Ví dụ: Một số NHTM dự đoán nhu cầu thanh khoản như sau: 81% tiền
gửi không kỳ hạn + 29% tiền gửi trên 12 tháng đến 5 năm+11% tiền gửi trên
5 năm+19 %tín dụng tăng trưởng+các khoản tín dụng đến hạn trong kỳ. Các
tỷ lệ trên đây được xây dựng dựa trên phân tích các dòng tiền rút ra kỳ trước
có tính đến những thay đổi có thể xảy ra kỳ này. Kỳ tính có thể hàng ngày,
hàng tuần, tháng, năm hoặc nhiều năm.
Một số ngân hàng dự đoán nhu cầu thanh khoản trong kỳ như sau:
100% khoản tiền gửi và vay đến hạn trả trong kỳ+20% tiền gửi ngắn+ 10%
tiền gửi trung hạn và dài hạn + tỷ lệ tăng trưởng tín dụng.
Ngân hàng có thể phân loại những nguồn, những thời điểm có tần suất
chi trả lớn, xác định tỷ lệ trung bình chi trả đối với các nguồn tiền. Các nguồn
tiền có tính ổn định thấp (thường có vòng quay lớn) thường tạo tỷ lệ chi trả cao.
Điểm quan trọng là, sau khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu thanh

khoản, nhà quản lý sẽ xác định chiến lược quản lý thanh khoản để duy trì mức
ngân quỹ cần thiết để đảm bảo an toàn thanh khoản và tối đa hoá thu nhập.
c- Đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng:
Để thoả mãn nhu cầu thanh khoản của khách hàng, ngân hàng có thể sử
dụng các nguồn cung thanh khoản sau đây:
- Thứ nhất là bộ phận ngân quỹ là bộ phận tài sản có tính thanh khoản
cao nhất nhưng có mức sinh lời thấp nhất. Gia tăng ngân quỹ (các điều kiện


15
khác coi như không đổi) sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy, tối
thiểu hoá ngân quỹ là mục tiêu các ngân hàng cần đạt được.
- Thứ hai là các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, các khoản
chiết khấu thương phiếu, các khoản tín dụng có chất lượng cao sắp đến hạn...
- Thứ ba là mua các chứng khoán dài hạn kèm theo quyền lựa chọn sẽ
được bán lại trong tương lai với các mức giá đã ấn định từ trước
- Thứ tư là sử dụng các công cụ của thị trường vốn như cổ phiếu ưu đãi,
hay chứng khoán vốn để tài trợ cho nhu cầu thanh khoản của ngân hàng.
d- Các tiêu chuẩn giám sát, kiểm tra hoạt động quản lý ngân quỹ:
Để đảm bảo việc quản lý ngân quỹ hiệu quả, các ngân hàng đã xây
dựng các hệ thống các chỉ tiêu đánh giá, kiểm tra với các nội dung sau:
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tỷ lệ này do Ngân hàng trung ương quy định
trong từng thời kỳ đối với từng loại kỳ hạn huy động vốn để phục vụ cho
chính sách tiền tệ quốc gia.
- Tỷ lệ giữa tài sản có động và tài sản nợ động: Quy định việc NHTM
phải đảm bảo tỷ lệ giữa tài sản có có thể thanh toán ngay với tài sản nợ phải
thanh toán ngay để đảm bảo an toàn thanh khoản, thông thường tỷ lệ này quy
định tối thiểu bằng 1.
- Tỷ lệ dự trữ sơ cấp/Tổng tài sản
- Tỷ lệ dự trữ thứ cấp/Tổng tài sản.

1.2.3.2 Quản lý danh mục đầu tư
a- Yêu cầu của quản lý danh mục đầu tư:
- Yêu cầu cao nhất của các ngân hàng là sử dụng danh mục đầu tư
chứng khoán để quản lý rủi ro lãi suất: Chứng khoán cho phép các ngân hàng
điều chỉnh độ nhạy theo lãi suất một cách rất nhanh chóng vì có thể bán và
mua chúng một các tức thời và với thời gian đáo hạn (thời gian thực) tuỳ ý.
- Yêu cầu thứ hai của các ngân hàng là quản lý thanh khoản: Các ngân
hàng xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán có thời gian đáo hạn rất rộng


16
như các công cụ trên thị trường tiền tệ, các chứng khoán trung và dài hạn...
Khi thị trường chứng khoán phát triển, ngay lập tức ngân hàng có thể bán các
chứng khoán của mình để đáp ứng nhu cầu rút vốn hay chi tiêu đột xuất của
khách hàng.
- Đảm bảo khả năng sinh lời: Danh mục đầu tư chứng khoán góp phần
quan trọng vào thu nhập của ngân hàng. Đầu tư chứng khoán đóng góp tới ¼
tổng doanh thu của tất các các ngân hàng ở Mỹ.
- Mục tiêu giảm bớt rủi ro tín dụng: Hoạt động tín dụng của ngân hàng
hạn chế trong một số lĩnh vực, không gian nhất định thì với hoạt động đầu tư
ngân hàng có thể đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư, mở rộng địa bàn đầu tư...Do
đó, giảm bớt rủi ro tín dụng.
- Tạo thu nhập tổng cộng cho ngân hàng: Đầu tư vào chứng khoán ngân
hàng sẽ được hưởng đồng thời hai loại thu nhập là thu nhập từ lãi và thu nhập
từ giá gốc (do chênh lệch giá mua bán) và ở nhiều nước thu nhập từ chứng
khoán không bị đánh thuế.
- Sử dụng danh mục đầu tư chứng khoán để quản lý nguồn vốn có rủi
ro: Phần lớn các chứng khoán do ngân hàng nắm giữ có trọng số rủi ro rất
thấp. Hệ quả là, các ngân hàng có thể lựa chọn cách đầu tư vào chứng khoán
thay vì các khoản cho vay, với mục đích tránh phải dự trữ vốn cao hơn theo

quy định.
b- Quản lý danh mục đầu tư
Cách thức quản lý danh mục đầu tư chứng khoán rất khác nhau ở các
NHTM do các sự khác biệt về địa bàn kinh doanh, điều kiện, nhu cầu vay và
năng lực quản lý. Tuy nhiên, vẫn có các bước căn bản để ngân hàng thực hiện
quản lý danh mục đầu tư chứng khoán một cách lành mạnh và linh hoạt. Quy
trình được tiến hành bao gồm:
- Thiết lập các mục tiêu và tiêu chuẩn chung: để phục vụ cho công tác
điều hành hoạt động đầu tư từ phân cấp uỷ quyền đến thái độ, nguyên tắc ứng


17
xử trong từng trường hợp. Trên hết là việc có một mục tiêu rõ ràng đối với
hoạt động đầu tư chứng khoán và mục tiêu này được xây dựng trên cơ sở
chiến lược của ngân hàng, các phân tích về thị trường, về khách hàng và về
đối thủ cạnh tranh.
- Phối hợp các quyết định đầu tư với ngoại cảnh kỳ vọng: Việc dự báo
các chỉ số kinh tế chủ chốt là một bước quan trọng trong việc quản lý danh
mục đầu tư chứng khoán. Các quyết định quản lý chứng khoán phải phù hợp
với một dự báo rõ ràng; các quyết định chứng khoán bao hàm một dự báo
ngầm có thể hoặc không giống như điều mà nhà quản lý danh mục chứng
khoán tin rằng sẽ xảy ra. Các quyết định được đưa ra để bảo vệ ngân hàng
trong trường hợp dự đoán sai.
- Xây dựng chính sách đầu tư và chiến lược quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán: Các chính sách và chiến lược phải nhất quán với các mục tiêu
do ngân hàng đặt ra, cụ thể:
+ Quy mô danh mục đầu tư chứng khoán: Ngân hàng phải xác định
danh mục đầu tư của mình dựa trên khối lượng tài chính sẵn có và khả năng
sinh lời của chứng khoán so với các hình thức cạnh tranh khác trong việc sử
dụng nguồn vốn của ngân hàng như các khoản vay.

+ Phương tiện đầu tư và mức độ chất lượng: Ngân hàng phải quan tâm
đến các quy định của pháp luật về cầm cố, về mức độ rủi ro, về năng lực, thời
gian quản lý cần thiết của ngân hàng để có quyết định mức độ đầu tư phù hợp.
+ Chính sách và chiến lược thời gian đáo hạn: Việc thiết lập thời gian
đáo hạn của chứng khoán ảnh hưởng đến quyết định của nhà ngân hàng liên
quan đến các khoản lỗ hay lãi. Do thời gian đáo hạn của ngân hàng sẽ ảnh
hưởng đến giá chứng khoán và là một trong những biện pháp để ngân hàng
phòng chống rủi ro thanh khoản. Một chiến lược chung được đặt ra là rút
ngắn thời gian đáo hạn khi điều kiện kinh doanh được kỳ vọng, sẽ cải thiện và
kéo dài thời gian đáo hạn khi xuất hiện dấu hiệu đầu tiên của suy thoái.


18
c- Các tiêu chuẩn kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư:
- Tổng giá trị các khoản đầu tư (kinh doanh chứng khoán, góp vốn liên
doanh, liên kết).
- Giá trị các chứng khoán sẵn sàng để bán, chứng khoán vốn, chứng
khoán giữ đến ngày đến hạn (là những chứng khoán có kỳ hạn thanh toán và
ngày đáo hạn cố định hoặc có thể xác định, và Ngân hàng có ý định và khả
năng giữ đến ngày đáo hạn)
- Chi tiết danh mục chứng khoán vốn: Tỷ lệ đầu tư vào các tổ chức tín
dụng, các doanh nghiệp.
- Chi tiết các khoản mục đầu tư vào các công ty liên doanh, liên kết: So
sánh giữa giá gốc ngân hàng đầu tư với giá trị hiện tại của các khoản đầu tư.
Từ đó, đánh giá về hiệu quả của các khoản đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết
1.2.3.3 Quản lý danh mục tín dụng
a. Yêu cầu đối với việc quản lý danh mục tín dụng
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro chiếm tỷ trọng lớn trong rủi ro mà các
ngân hàng gặp phải. Do đó, việc quản lý danh mục tín dụng phải được quan
tâm và đáp ứng các yêu cầu sau:

- Tạo lập được một danh mục tín dụng hợp lý, có khả năng sinh lời cao,
ít rủi ro và khi cần thiết có thể chứng khoán hoá để hỗ trợ thanh khoản.
- Tạo sự chủ động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các bộ phận tác
nghiệp nhằm tìm kiếm các khoản vay có khả năng sinh lời cao và ít rủi ro.
- Có những quy định để thực hiện thống nhất, minh bạch các bước công
việc trong quá trình cho vay; có các quy định hợp lý về cơ cấu, tỷ lệ.
- Đảm bảo phản ánh minh bạch, chính xác chất lượng danh mục tín dụng,
trích đủ dự phòng để bù đắp những rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay.
- Có hệ thống kiểm tra, kiểm soát thích hợp để phát hiện, ngăn ngừa và
xử lý kịp thời các rủi ro phát sinh đối với danh mục tín dụng.
b. Chính sách quản lý hoạt động tín dụng
Chính sách quản lý hoạt động tín dụng phải có các nội dung chủ yếu sau:


19
- Một tuyên bố về tiêu chuẩn đối với danh mục tín dụng cả ngân hàng
(ví dụ: Nêu các đặc điểm của danh mục tín dụng chất lượng cao như loại hình,
thời gian đáo hạn, quy mô và chất lượng các khoản cho vay), miêu tả rõ ràng
thị trường tín dụng chính của ngân hàng.
- Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ tín dụng và ban
thẩm định tín dụng (xác định số tiền cho vay tối đa và loại hình tín dụng mà
cán bộ tín dụng hay ban thẩm định tín dụng có thể thông qua và những chữ ký
cần phải có)
- Xác định rõ quyền hạn cũng như trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng,
chỉ rõ ai là người chịu trách nhiệm trong việc quản lý và xem xét các hồ sơ tín
dụng của ngân hàng.
- Giới hạn về trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao
và trong việc thông báo thông tin trong hoạt động tín dụng.
- Những thủ tục, hoạt động cần thiết cho việc xem xét, đánh giá và ra
quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng.

- Những tài liệu được yêu cầu phải kèm theo đơn xin vay và phải được
lưu lại trong hồ sơ tín dụng của ngân hàng (ví dụ như các báo cáo tài chính,
các thoả thuận, cam kết,...).
- Những hướng dẫn về tiếp nhận, đánh giá và bảo quản tài sản thế chấp
cho các món vay.
- Một bản trình bày về chính sách và thủ tục đối với việc xác định lãi
suất cho vay, các khoản phí và thời hạn hoàn trả món vay.
- Một bản tiêu chuẩn chất lượng thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh
mục cho vay.
- Công bố dư nợ tối đa của một khách hàng, một nhóm khách hàng, so
với tổng dư nợ. Tỷ lệ tối đa được phép giữa tổng các khoản tín dụng và tổng
tài sản của ngân hàng.


20
- Miêu tả các bước cần thiết để tiến hành phân tích và phát hiện những
khoản vay có vấn đề.
- Ngoài ra các khoản vay ngân hàng từ chối cũng nên được đề cập đến
trong chính sách tín dụng, cũng như những khoản vay ngân hàng nên thực
hiện như tín dụng kinh doanh ngắn hạn.
- Các quy định về phân loại các khoản vay theo mức độ rủi ro, theo
chất lượng khoản vay, theo ngành kinh tế.
- Các quy định về xử lý các khoản vay có vấn đề kể cả xử lý trách
nhiệm đối với các bộ phận liên quan trong ngân hàng.
c. Tiêu chuẩn kiểm tra giám sát đối với danh mục tín dụng
- Cơ cấu danh mục tín dụng của Ngân hàng cho thấy mục tiêu của
doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng
- Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ: Cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ cho vay có đảm bảo: Tài sản đảm bảo là một trong những biện
pháp để ngân hàng có thể thu hồi vốn trong trường hợp khoản vay không có

khả năng thu hồi
- Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro tín dụng. Trích dự phòng rủi ro tín dụng là
một trong những biện pháp để Ngân hàng chống đỡ trong trường hợp có rủi ro
xảy ra, đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Tỷ lệ trích dự phòng rủi
ro tín dụng phải phù hợp với quy định hiện hành của nhà nước.
1.2.4 Quản lý tài sản nhằm mục tiêu sinh lời
Để đo lường tỷ lệ sinh lời của tài sản người ta thường sử dụng các chỉ tiêu:
(1) Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE = Thu nhập sau thuế/ Vốn chủ sở hữu
(2) Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA)
ROA = Thu nhập sau thuế/ Tổng tài sản
ROA là một thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý. Nó chỉ ra khả
năng của Hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân
hàng thành thu nhập ròng. Ngược lại ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ sinh


21
lời trên một đồng vốn của cổ đông ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ
đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng.
(3) Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Tỷ lệ thu nhập lãi
cận biên (NIM)

=

Thu lãi từ các khoản cho vay và đầu tư chứng
khoán - Chi lãi cho tiền gửi và nợ khác
Tổng tài sản

(4) Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên:

Tỷ lệ thu nhập ngoài
lãi cận biên

Thu ngoài lãi - Chi phí ngoài lãi
=
Tổng tài sản

(5) Tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên
Tỷ lệ thu nhập
hoạt động cận biên

Tổng thu từ hoạt động - Tổng chi phí hoạt động
=
Tổng tài sản

Các chỉ tiêu (3), (4), (5) chỉ ra năng lực của hội đồng quản trị và nhân
viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng các nguồn thu (chủ yếu thu
từ các khoản tín dụng, đầu tư và phí dịch vụ) so với mức tăng chi phí (chủ yếu
là trả lãi cho tiền gửi, cho những khoản vay trên thị trường tiền tệ, tiền lương
nhân viên và phúc lợi). Nó thể hiện trình độ dự đoán diễn biến lãi suất trên thị
trường tiền tệ một cách chính xác của Hội đồng ALCO; Nếu như ngân hàng
đó đạt được NIM ngày càng lớn. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức
chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được
thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các
nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Trái lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo
lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi chủ yếu là nguồn thu phí dịch
vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (chi phí tiền lương, chi
phí sửa chữa, bảo hình thiết bị và chi phí tổn thất tín dụng). Đối với hầu hết
các ngân hàng chênh lệch ngoài lãi thường là âm.



22

(6) Chênh lệch lãi suất bình quân:
Chênh lệch lãi
suất bình quân

Thu từ lãi
=

Tổng chi phí trả lãi
-

Tổng tài sản sinh lời

Tổng nguồn vốn phải trả lãi

Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân
hàng trong quá trình huy động vốn và tín dụng, đồng thời nó cũng đo lường
độ cạnh tranh trong thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu
hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất bình quân. Nếu các nhân tố khác
không đổi, chênh lệch lãi suất bình quân của ngân hàng sẽ giảm khi sự cạnh
tranh tăng lên, buộc hội đồng quản trị phải cố gắng tìm ra những biện pháp
(như thu phí từ dịch vụ mới) bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất.
1.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ TÀI
SẢN CÓ CỦA NHTM
1.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
Các nhân tố chủ yếu là quan điểm kinh doanh, năng lực tài chính, trình
độ công nghệ và trình độ cán bộ
1.3.1.1. Quan điểm kinh doanh của NHTM

Nếu NHTM có quan điểm đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên nhất thì cơ
chế quản lý tài sản sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để bộ phận có liên quan
tìm kiếm, quyết định những khoản cho vay, đầu tư có thu nhập kỳ vọng cao
nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy định về kiểm tra, kiểm soát, đặc
biệt là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi quyết định cho vay cũng sẽ thấp
hơn trong khi tiêu chí về khả năng sinh lời rất được coi trọng. Trường hợp
ngược lại nếu quan điểm kinh doanh lấy an toàn làm chính thì các quy định
về cơ chế quản lý tài sản trong việc thẩm định, xem xét trước khi ra quyết
định cho vay, đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ
cho việc ra quyết định, việc kiểm tra, giám sát cũng được đặt ở mức cao hơn.


23
Quan điểm kết hợp cả 2 đó là mục tiêu lợi nhuận và an toàn: Khi đó
đòi hỏi Ngân hàng phải nhanh nhạy, luôn chủ động nắm bắt thị trường để đưa
ra những quyết sách phù hợp
1.3.1.2. Năng lực tài chính của NHTM
Năng lực tài chính của NHTM ảnh hưởng đến quy mô của tài sản thông
qua việc chi phối các giới hạn tối đa về đầu tư, cho vay, dự trữ đảm bảo khả
năng thanh toán...Nếu vốn chủ sở hữu của NHTM lớn thì các giới hạn về đầu
tư, cho vay lớn và do đó mức thiệt hại do mất vốn cũng lớn đòi hỏi các quy
định về giới hạn phán quyết, giới hạn uỷ quyền phải được quy định chặt chẽ,
rõ người, rõ trách nhiệm; Các tiêu chuẩn về kiểm tra, kiểm soát phải rõ ràng
và việc tổ chức kiểm tra, kiểm soát phải thường xuyên hơn. Mặt khác, đi cùng
với năng lực tài chính lớn ngoài quy mô hoạt động lớn, thông thường các lĩnh
vực hoạt động cũng đa dạng và phức tạp hơn, địa bàn hoạt động cũng rộng
hơn; những nhân tố này đòi hỏi cơ chế quản lý phải điều tiết được hết các lĩnh
vực hoạt động, tạo điều kiện thông thoáng cho các bộ phận thực hiện nhưng
cũng phải đảm bảo an toàn hoạt động.
Vốn là yếu tố cơ bản để đánh giá về mặt tài chính của ngân hàng,

nhưng ngoài yếu tố vốn ta cần phải tính đến hàng loạt các yếu tố khác như:
thanh khoản của ngân hàng, cấu trúc rủi ro tích sản, tính chất biến động của
các loại tiền gửi và chất lượng quản lý ngân hàng
1.3.1.3. Trình độ công nghệ
Ngày nay trình độ công nghệ là yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh
doanh ngân hàng vì trình độ công nghệ càng cao càng cung cấp cho khách
hàng nhiều dịch vụ, tiện ích với chi phí hợp lý và góp phần đắc lực trong việc
thu hút các nguồn tiền nhàn rỗi phục vụ cho hoạt động ngân hàng. Ở các nước
phát triển, công nghệ ngân hàng cũng rất phát triển, đặc biệt là trong điều kiện
có sự hỗ trợ hết sức hiệu quả của công nghệ thông tin như ngày nay. Công
nghệ ngân hàng thể hiện ở mức độ tập trung thông tin, ở khả năng phân tích,


24
xử lý thông tin, từ đó rút ra các kết luận, nhận định phục vụ cho quản trị ngân
hàng như quản trị khe hở lãi suất, khe hở kỳ hạn, các nhân tố ảnh hưởng đến
chất lượng, tình hình phân bổ tài sản, vốn và các dịch vụ khác như thanh toán,
kinh doanh ngoại hối.... Công nghệ của ngân hàng còn thể hiện khả năng chi
phối, kiểm soát đối với hoạt động của các bộ phận tác nghiệp. Ở mỗi trình độ
công nghệ khác nhau đều phải đòi hỏi một cơ chế quản lý khác nhau.
1.3.1.4. Trình độ cán bộ
Trình độ cán bộ cao cho phép nghiên cứu phát triển các loại hình sản
phẩm, dịch vụ thích hợp để đáp ứng nhu cầu của thị trường; đồng thời cho
phép thu thập, phân tích, xử lý thông tin đầy đủ, có cơ sở từ đó đánh giá được
chính xác tình hình thị trường thì có thể thanh khoản mục đầu tư, khoản mục
kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khoán...Ở một số nước, việc giao quyền
phán quyết cho vay, đầu tư phụ thuộc vào trình độ, thâm niên và năng lực xử
lý công việc của cán bộ; những cán bộ được đánh giá cao thì được giao hạn
mức phán quyết cao.
Ngoài ra, các yếu tố về địa bàn hoạt động, khả năng thu thập và phân

tích thông tin, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động quản lý tài sản cũng ảnh
hưởng đến công tác quản lý tài sản.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1 Khách hàng của NHTM
Khách hàng là người quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.
Khách hàng của NHTM gồm khách hàng gửi tiền, khách hàng vay vốn, khách
hàng sử dụng dịch vụ...Khách hàng của ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành quy mô, chất lượng và cơ cấu tài sản có. Nếu khách
hàng vay vốn, công ty mà ngân hàng đầu tư hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, khả năng thanh toán tốt thì khoản vay của ngân hàng sẽ được hoàn trả
đúng hạn, chứng khoán mà ngân hàng nắm giữ chắc chắn sẽ tăng giá và như
vậy thì tài sản của NHTM có chất lượng tốt. Ngược lại, nếu khách hàng vay


25
vốn, công ty đầu tư làm ăn kém hiệu quả, khả năng thanh toán kém thì việc
trả nợ vay sẽ gặp khó khăn, cổ phiếu xuống giá và những nhân tố này sẽ làm
chất lượng tài sản của ngân hàng ngày càng xấu đi.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của khách hàng ngày
càng tăng đòi hỏi NHTM phải cung cấp ra thị trường các loại sản phẩm, dịch
vụ mới. Do đó, nhu cầu của khách hàng thay đổi, hoạt động dịch vụ tăng cũng
làm tăng tỷ trọng tài sản có khác trong tổng tài sản. Vì vậy, chiến lược kinh
doanh trọng yếu của Ngân hàng hiện nay là: “Hướng tới khách hàng, giữ
được khách hàng cũ và tìm kiếm khách hàng mới”.
1.3.2.2 Môi trường hoạt động kinh doanh của NHTM
- Sự phát triển của nền kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới công tác
quản lý tài sản của NHTM. Một nền kinh tế ổn định và ít lạm phát sẽ làm tăng
nhu cầu vay vốn để đầu tư cho nền kinh tế, các khoản đầu tư chứng khoán
cũng ổn định ít rủi ro. Ngược lại nền kinh tế bị suy thoái làm cho nhà doanh
nghiệp khó khăn trong việc thu hồi vốn và trả nợ ngân hàng, các khoản đầu tư

của ngân hàng kém hiệu quả... do đó ảnh hưởng đến chất lượng các khoản
mục tài sản của ngân hàng. Hiện nay, kinh tế Việt Nam đang đứng trước nguy
cơ lạm phát ngày càng gia tăng với hai con số, thì nhiệm vụ trọng tâm của
NHTM đặt ra trước mắt phải là điều hành khe hở nhạy cảm lãi suất. Nếu
không có những dự báo chính xác về diễn biến lãi suất trong tương lai,
NHTM sẽ không tránh khỏi việc giảm thấp lợi nhuận ròng.
- Các quy định của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
như quy định về hệ số an toàn vốn tối thiếu (được xác định bằng vốn tự có/ tài
sản có rủi ro), về dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, biên độ
tỷ giá giao dịch ngoại hối, về hoạt động đầu tư như quy định về các loại
chứng khoán ngân hàng được phép nắm giữ, mức vốn tối đa được sử dụng
cho hoạt động đầu tư... cũng tác động tới hoạt động của NHTM và ảnh hưởng
tới quy mô, kết cấu tài sản của NHTM.


×