Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LV Thạc sỹ_hoàn thiện công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong điều hành chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.39 KB, 96 trang )

CHƯƠNG 1
ĐA DẠNG HOÁ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, DỊCH
VỤ CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI - ĐIỀU KIỆN VÀ XU
THẾ PHÁT TRIỂN
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC SẢN PHẨM, DỊCH VỤ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của NHTM
Ngay từ thời kỳ trung cổ đã xuất hiện nhu cầu giao lưu thương mại giữa
các lãnh địa mà mỗi lãnh địa lại sử dụng một loại "tiền tệ" khác nhau, do đó
nảy sinh nhu cầu đổi tiền. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, trong thương nghiệp
đã tách ra một số thương nhân làm nghề đổi tiền, mua bán vàng bạc. Những
người này giúp cho các nhà tư bản công, thương nghiệp bảo quản tiền, thanh
toán, chuyển tiền từ nơi này đến nơi khác - Họ đã trở thành những nhà tư bản
tiền tệ. Các nhà tư bản tiền tệ nhờ tập trung được một khoản tiền lớn đã tiến
hành cho vay kiếm lãi. Sau quá trình phát triển, nghề đổi tiền đúc đã trở thành
nghề ngân hàng.
"Tiền là hình thức biểu hiện giá trị của hàng hoá nên lưu thông tiền tệ và
lưu thông hàng hoá là hai mặt của quá trình thống nhất với nhau. Lưu thông
tiền tệ xuất hiện trên cơ sở của lưu thông hàng hoá". Vì vậy, khi nghiên cứu
lịch sử ra đời và phát triển ngân hàng, Các Mác cho rằng sự mở rộng giao lưu
kinh tế xuyên lục địa, sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã đẩy hàng loạt mâu
thuẫn kinh tế lên tới đỉnh điểm nhất là mâu thuẫn trong lĩnh vực thanh toán
(Phương thức thực hiện và dự trữ an toàn), trong việc tập trung vốn để mở
rộng sản xuất của các chủ doanh nghiệp và các thương nhân... đó cũng chính
là những mâu thuẫn hợp thành tất yếu để xuất hiện những ngân hàng đầu tiên.
Để giúp cho các thương nhân nhận được thuận tiện trong thanh toán, những
người thợ vàng đang thực hiện dịch vụ cất giữ, bảo quản tiền cho các thương


nhân đã phát hành biên lai ở dạng thuận lợi làm cho người chủ sở hữu nó có


thể dùng chi trả và chuyển quyền sở hữu của biên lai sang chủ mới. Chính sự
tiện lợi đó đã tôn những giấy biên nhận lên vị trí hàng đầu trong số các công
cụ thanh toán hiện thời. Đây cũng là tiền thân của tiền giấy và nghiệp vụ phát
hành giấy bạc, nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng hiện nay. Trong quá trình
thực hiện việc thanh toán, chuyển nhượng quyền sở hữu cho khách hàng bằng
giấy biên nhận, những người thợ vàng đã sớm phát hiện ra rằng những gì ký
gửi cho họ tương đối ổn định, ở bất cứ thời điểm nào thì các biên lai trình rút
tiền, vàng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong số tiền vàng họ đang nhận ký gửi.
Mặt khác cứ có một số khách hàng rút tiền ra thì lại có một số khách hàng
khác gửi tiền vào, do đó, những thợ vàng có đầu óc kinh doanh đã nghĩ ngay
đến việc sử dụng số tiền vàng nhàn rồi ổn định đó để cho vay lấy lãi. Đây
chính là tiền thân của dịch vụ tín dụng ngân hàng ngày nay. Bắt đầu từ thời
điểm này, người thợ vàng đã trở thành nhà ngân hàng bởi vì theo một khía
cạnh nào đó thì họ đã tạo ra tiền. Các chủ ngân hàng dưới sự thôi thúc của
động cơ lợi nhuận đã mở rộng tín dụng bằng cách phát hành giấy biên nhận
nhiều hơn số vàng hiện có trong kho và cao hơn nữa là đi vay để cho vay.
Sản xuất và trao đổi ngày một phát triển phát sinh nhu cầu mua bán chịu
lẫn nhau và được ghi nhận bằng thương phiếu. Đây là tiền đề của tín dụng
thương mại ngày nay. Sau khi bán hàng, người bán hàng sẽ nhận được một
hối phiếu hoặc thương phiếu của người mua hàng cam kết sẽ thanh toán tiền
trong một thời gian nhất định. Để đẩy nhanh quá trình sản xuất, cần vốn đầu
tư, người bán hàng sẽ mang thương phiếu này đến ngân hàng chịu phí hoa
hồng, chiết khấu để đổi lấy tiền ngay. Do vậy, thương phiếu là một công cụ nợ
vừa là một phương tiện thanh toán vừa công cụ tín dụng thương mại tạo điều
kiện cho dịch vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng ra đời và phát triển.
Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến mà liên tục
phát triển theo sự đòi hỏi của các điều kiện kinh tế xã hội qua các thời kỳ. Từ


thế kỷ 17 trở về trước, nghề ngân hàng chưa phát triển và chưa có vai trò quan

trọng trong nền kinh tế, ngân hàng chỉ là nghề mua bán và làm dịch vụ như
một loại nghiệp vụ thương nghiệp thông thường. Các nhà tư bản nông, công,
thương nghiệp liên kết, tương trợ với nhau thông qua việc bán hàng chịu hàng
hoá cho nhau hoặc cho nhau vay với mức lãi suất thấp hơn lợi nhuận bình
quân. Bên cạnh đó, họ hùn vốn với nhau lập ra các ngân hàng, hội tín dụng để
cho vay vốn với mức độ có thể chấp nhận được. Những loại hình ngân hàng
này lần lượt ra đời và phát triển mạnh ở các nước Châu Âu làm cho các ngân
hàng cho vay nặng lãi từ thời kỳ trung cổ bắt buộc phải hạ lãi suất và chuyển
sang kinh doanh như các ngân hàng tư bản. Những sản phẩm dịch vụ chủ yếu
của ngân hàng thời gian này là:
- Ngân hàng ghi chép và theo dõi hoạt động của thân chủ qua số liệu tài
khoản. Sổ sách kế toán được thông tri cho toà án để làm bằng chứng cho các
cuộc tranh tụng.
- Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ. Chỉ có những chủ nợ của cùng
một loại tiền hay cùng một loại tài sản thì được phép thanh toán chuyển
nhượng lẫn nhau trong mua bán giữa họ ở cùng một ngân hàng và kể cả đối
tác ở các ngân hàng khác, và nợ đáo hạn trước bù trừ. Kết số dư cuối kỳ (1
tháng, 3 tháng.....) còn lại nợ bao nhiêu là thu hồi.
- Dịch vụ chuyển tiền từ nơi này đến nơi khác cũng được áp dụng.
- Ngân hàng làm nhiệm vụ bảo lãnh, là biểu hiện ban đầu của hình thức
chấp nhận các thương phiếu trong nghiệp vụ ngân hàng ngày nay.
- Ngân hàng đã áp dụng dịch vụ chiết khấu thương phiếu.
- Ngân hàng đã có cách tạp ra tiền ngân hàng và dự trữ là yếu tố liên
quan đến chu trình này.
Sang thế kỷ 18, Các ngân hàng tư bản khác ở các lục địa Châu Âu, Bắc
Mỹ... lần lượt ra đời hàng loạt, lưu thông hàng hoá được mở rộng cả về quy
mô và phạm vi. Trong bối cảnh đó, việc các ngân hàng phát sinh các loại giấy


bạc khác nhau đã làm cản trở quá trình phát triển của lưu thông hàng hoá và

của nền kinh tế. Vì vậy, để giảm bớt các loại giấy bạc phát hành vào lưu
thông. Nhà nước đã ban hành một số đạo luật để hạn chế số lượng ngân hàng
được phép phát hành. Trong giao đoạn này, hệ thống ngân hàng chia làm hai
loại.
- Các ngân hàng không được phát hành tiền, được gọi là ngân hàng trung
gia, trong đó chủ yếu là các NHTM.
- Các ngân hàng được phép phát hành tiền, được gọi là ngân hàng phát
hành.
Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, phần lớn các nước phát triển đã
thực hiện cơ chế một ngân hàng độc quyền phát hành, tuy nhiên các ngân
hàng này vẫn thuộc quyền sở hữu tư nhân do đó nhà nước không thể thương
xuyên can thiệp vào các hoạt động kinh tế thông qua công cụ tiền tệ được.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 - 1933 Chính phủ các nước buộc
phải tăng cường hơn nữa việc can thiệp vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Trong thời kỳ này, khái niệm ngân hàng trung ương đã thay thế khái niệm
ngân hàng phát hành vì ngân hàng trung ương ngoài việc phát hành tiền vào
lưu thông còn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và ngân hàng,
điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm mục đích ổn định tiền tệ, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh ngân hàng trung ương là hệ thống các
trung ương là hệ thống các trung gian tài chính mà chủ yếu là các NHTM. Kể
từ đây, hệ thống ngân hàng được định hình rõ rệt bao gồm hai cấp đó là ngân
hàng trung ương và các trung gian tài chính.
a) Tài chính Trung ương (NHTW)
Ngân hàng trung ương ra đời theo ba cách: Cách thứ nhất, NHTW tách
ra từ hệ thống NHTM mà điển hình là sự ra đời của NHTW Anh; Cách thứ
hai, NHTW được thành lập hoàn toàn mới, hình thức này diễn ra phổ biến sau
hội nghị tài chính quốc tế lần I năm 1920; Cách thứ ba, NHTW được hình


thành trên cơ sở cải cách cơ cấu tổ chức hoa hệ thống ngân hàng một cấp

nhằm tách bạch riêng chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh.
Dù xuất hiện bằng cách nào, khái niệm ngân hàng trung ương gắn liền với
chức năng riêng biệt của tổ chức, đó là: Ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng
của các ngân hàng và ngân hàng của chính phủ, đồng thời NHTW thực hiện
chức năng quản lý nhà nước các hoạt động về tiền tệ và ngân hàng trong
phạm vi quốc gia.
b) Các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính phi ngân hàng
Hệ thống trung gia chính đảm nhận chức năng dẫn chuyển vốn từ chủ thể
thặng dư vốn sang chủ thể thiếu hụt vốn trong phạm vi toàn xã hội. Nằm
trong hệ thống trung gian tài chính gồm có hệ thống các ngân hàng thương
mại và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Ngân hàng thương mại (NHTM) hoạt động thuần tuý mang tính chất
kinh doanh. Ngoài chức năng trung gian tín dụng như các trung gian tài chính
khác, NHTM thực hiện chức năng riêng có bao gồm: là thủ quỹ cho xã hội và
thông qua đó thực hiện chức năng trung gian thanh toán: Khả năng tạo tiền
gửi thanh toán. Khả năng tạo tiền gửi thanh toán là sự kết hợp giữa chức năng
trung giam thanh toán và chức năng trung gian tín dụng của hệ thống NHTM.
Nguồn vốn chủ yếu của NHTM là nguồn tiền gửi. Ngoài ra, ngân hàng còn bổ
sung nguồn vốn bằng cách vay các tổ chức tín dụng khác, vay của công chúng
bằng cách phát hành các chứng từ có giá trị hoặc đi vay. Hoạt động chủ yếu
của NHTM là cấp các khoản tín dụng cho các chủ thể có nhu cầu, chủ yếu là
tín dụng ngắn hạn. Hiện nay, các NHTM đang mở rộng hoạt động sang phát
triển dịch vụ tài chính và các lĩnh vực dịch vụ khác. Một NHTM hiện đại
ngày nay có thể tới trên 6.000 nghiệp vụ kinh doanh khác nhau về lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng, ngân hàng để phục vụ cho các yêu cầu ngày càng đa dạng,
phong phú của khách hàng. Để hiểu một cách tổng quan về vai trò, chức năng


cũng như sự phát triển của ngân hàng, chúng ta sẽ xem mô hình chức năng
của NHTM hiện đại trong cơ chế thị trường sau đây.

1.1.1.2. Chức năng cơ bản của NHTM đa năng ngày nay
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Với sự
phát triển của nền kinh tế toàn cầu, vai trò và chức năng của ngân hàng đang
thay đổi. Thực tế cho thấy có rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các công
ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và
công ty bảo hiểm đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược
lại, ngân hàng cũng đối phó với các đối thù cạnh tranh (các tổ chức tài chính
phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh
vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo hiểm,
đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Như vậy, ngân
hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục của các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Trong những năm gần đây, hầu hết các ngân hàng đều có xu hướng phát
triển thành các tổ chức hoạt động đa năng và đa quốc gia. Trong những bước
đầu phát triển ngân hàng thường mở rộng việc cung cấp các dịch vụ mới và
tạo lập cơ sở mới. Do vậy, sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng liên tục được đa
dạng hoá và phát triển theo nhu cầu phát triển xã hội.


Sơ đồ 1: Những chức năng cơ bản của NHTM ngày nay
Chức năng
uỷ thác

Chức năng
tín dụng

Chức năng bảo


Chức năng lập kế

hiểm

hoạch đầu tư

Chức năng môi

NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI

giới

Chức năng ngân
hàng đầu tư và
bảo lãnh

Chức năng thanh
toán

Chức năng quản lý tiền mặt

Chức năng tiết
kiệm

1.1.3. Các sản phẩm, dịch vụ cơ bản của NHTM hiện nay
1.1.2.1. Khái niệm về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
Ở nước ta hiện nay cũng chưa minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ
ngân hàng. Có không ít quan niệm cho rằng: Dịch vụ ngân hàng không thuộc
phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức

năng của một trung gian tài chính (cho vay, huy động tiền gửi...), chỉ những
hoạt động không thuộc nội dung nói trên mới là dịch vụ ngân hàng (như
chuyển tiền, thu uỷ thác, mua bán hộ, môi giới kinh doanh chứng khoán...).
Một số khác cho rằng tất cả các hoạt động ngân hàng phục vụ cho doanh
nghiệp và công chúng đều là dịch vụ ngân hàng. Theo một số tác giả, dịch vụ
ngân hàng cần được hiểu theo hai khía cạnh: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng,
toàn bộ hoạt động tiền tệ, tín dụng thanh toán, ngoại hối.... của hệ thống ngân
hàng đều là hoạt động cung ứng dịch vụ cho kinh tế. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ


ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoài chức năng của định chế tài
chính trung gian huy động vốn và cho vay nền kinh tế.
Trong cuốn sách Nghiệp vụ ngân hàng thương mại hiện đại của DAVID
COX xuất bản năm 1997, tác giả phân loại dịch vụ thành 3 loại hình: Dịch vụ
ngân hàng cho khách hàng cá nhân, gồm 14 loại hình dịch vụ (Thẻ séc; Tín
dụng mở; Thẻ tín dụng; Máy rút tiền tự động; Dịch vụ ngân hàng tại nhà; Các
dịch vụ lữ hành; mua trả góp; Quản lý đầu tư cho khách hàng; Dịch vụ bảo
quản lý và ký gửi; Điều tra thân thế khách hàng; Bảo hiểm; Dịch vụ quản lý
tín thác; Dịch vụ về thuế; Đảm bảo đền bù); Dịch vụ ngân hàng cho khách
hàng doanh nghiệp, gồm 7 loại hình dịch vụ (Dịch vu cho vay; bảo lãnh; Dịch
vụ chuyển tiền; Dịch vụ ngoại hối; Dịch vụ đầu tư; Dịch vụ bảo hiểm; Dịch
vụ kế toán; Dịch vụ tư vấn); Dịch vụ ngân hàng cho các nhà xuất khẩu và
nhập khẩu (Các dịch vụ cho nhà xuất khẩu; Các điều khoản hợp đồng; Các
chứng từ thương mại quốc tế; Các phương thức đảm bảo thanh toán trong
thương mại Quốc tế; Các vấn đề tài chính trong xuất khẩu; Tài trợ cho nhà
xuất khẩu; Các dịch vụ cho nhà nhập khẩu).
Tuy điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các
sản phẩm, dịch vụ kinh doanh của NHTM có thể khác nhau về phạm vi, công
nghệ và có quan điểm khác nhau về dịch vụ ngân hàng, nhưng theo tác giả
hoạt động NHTM thường bao gồm ba lĩnh vực chủ yếu sau: Sản phẩm dịch

vụ thuộc nhóm tài sản Nợ, sản phẩm dịch vụ thuộc nhóm tài sản Có và các
sản phẩm, dịch vụ môi giới trung gian.
- Sản phẩm, dịch vụ bên nhóm tài sản Nợ chủ yếu tạo nên nguồn vốn
kinh doanh ngân hàng là nhóm sản phẩm dịch vụ tiền gửi. Đây là dịch vụ khởi
đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng.
- Sản phẩm, dịch vụ bên nhóm tài sản Có sử dụng vốn hình thành nên tài
sản của ngân hàng. Tài sản chủ yếu của NHTM là các tài sản tài chính và
được thể hiện trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng bên tài sản Có .


- Sản phẩm dịch vụ trung gian là những dịch vụ mà ngân hàng thực hiện
để nhận phí, hoa hồng: Đó là các sản phẩm dịch vụ về thanh toán, ngân quỹ
và các dịch vụ khác theo yêu cầu của khách hàng.
Các sản phẩm, dịch vụ của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau
để hình thành hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh
tế. Khi NHTM đi vào hoạt động ổn đinh, các sản phẩm, dịch vụ được xen kẽ
lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động tạo ra một chỉnh thể thống nhất.
1.1.2.2. Sự phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và
cung cấp các dịch vụ quản lý quỹ cho công chúng. Thành công của ngân hàng
hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong việc xác định các dịch vụ tài chính
mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả và bán
chúng tại một mức giá cạnh tranh. Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin hiện
đại, ngân hàng có thể phụ vụ nhu cầu của khách hàng mọi lúc, mọi nơi và với
mọi phương tiện. Chính vì vậy ngoài các dịch vụ truyền thống theo nhu cầu
củ xã hội, ngân hàng càng mở rộng thêm các loại dịch vụ mới, đa dạng và
thuận tiện hơn.
Các dịch vụ truyền thống của NHTM gồm: Thực hiện trao đổi ngoại tệ;
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại; Nhận tiền gửi; Bảo quản vặt
có giá; Tài trợ hoạt động của Chính phủ; Cung cấp các tài khoản giao dịch;

Cung cấp dịch vụ uỷ thác....
Dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây: Cho vay tiêu dùng; Tư vấn
tài chính; Quản lý tiền mạt, Dịch vụ thuê mua thiết bị; Cho vay tài trợ dự án;
Bán các dịch vụ bảo hiểm; Cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán; Cung cấp
các dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn.
1.1.2.3. Các sản phẩm, dịch vụ chủ yếu của Ngân hàng Thương mại,
điều kiện và xu thế phát triển.
a. Sản phẩm,dịch vụ tiền gửi


Khoản mục nợ chủ yếu trong các ngân hàng là tiền gửi của khách hàng,
chiếm khoảng 80% tổng nguồn vốn của ngân hàng. Huy động vốn là hoạt
động vô cùng quan trọng và nó quyết định cho việc tồn tại và phát triển ngân
hàng. Để cho vay được nhiều, đáp ứng được yêu cầu về vốn của thị trường,
tăng lợi nhuận, các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Ngân
hàng thực hiện huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư thông qua các
hình thức như mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, phát hành giấy tờ có giá và các loại tiền gửi khác phục vụ cho nhu
cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của khách hàng.... Với hoạt động này, ngân
hàng đã làm chức năng huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế tạo nguồn để
phục vụ cho đầu tư, góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế, xã hội.
Nguồn vốn được tạo ra trong sản phẩm dịch vụ huy động vốn là nguồn vốn cơ
bản và quan trọng của ngân hàng. Đây là sản phẩm dịch vụ truyền thống, chủ
yếu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng và cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn
đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, các ngân hàng thương
mại đều tìm cách tăng nguồn vốn huy động này thông qua các hình thức huy
động tiết kiệm khác nhau với tiện tích ngày một lớn. Đối với các ngân hàng,
việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh trở nên cực kỳ quan trọng trong việc
thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi hiện có. Các ngân hàng cạnh
tranh giàng vốn không chỉ với các ngân hàng mà còn với các tổ chức tiết

kiệm, các thị trường tiền tệ và người phát hành các công cụ nợ khác nhau của
thị trường tiền tệ. Mặt khác, lãi xuất của tiền gửi có kỳ hạn bao giờ cũng lớn
hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn nên các ngân hàng cần có chính sách
khuyến khích nguồn tiền gửi không kỳ hạn thông qua việc cung cấp nhiều loại
dịch vụ ngân hàng có chất lượng và tiện ích cao để thu hút khách hàng.
Các sản phẩm, dịch vụ tiền gửi bao gồm:
- Nhóm tiền gửi liên ngân hàng (Ngân hàng nhà nước, Bộ Tài chính,
Kho bạc nhà nước, TCTD khác): Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn.
- Nhóm tiền gửi của các Tổ chức kinh tế và dân cư:


+ Tiền gửi không kỳ hạn: Tiền gửi thanh toán, tiền đặt cọc, tiền gửi
chuyên dùng....
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm (Tiết kiệm đảm
bảo giá trị theo giá vàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm tích luỹ, tiết
kiệm dư thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm trả lãi trước, tiết kiệm trả lãi
sau, tiết kiệm trả lãi hàng tháng, hàng quý...)
- Phát hành các công cụ nợ (Trái phiếu, kỳ phiếu
Điều kiện để phát hành sản phẩm dịch vụ này:
- Quy mô hoạt động của NHTM, đặc biệt là sản phẩm dịch vụ tín dụng,
đầu tư phát triển, tạo ra nhu cầu sử dụng vốn ngày càng lớn.
- Có màng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, hệ thống máy
rút tiền tự động ATM rộng khắp - để người dân, các doanh nghiệp thuận tiện
trong giao dịch.
- Cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng phải được cải tiến, trang bị hiện
đại, đảm bảo an toàn, chính sách, nhanh chóng, thuận lợi cho người gửi tiền
và thanh toán. Lãi suất huy động vốn của ngân hàng phải linh hoạt phù hợp
với chỉ số trượt giá trong từng thời kỳ và có lợi cho người gửi tiền.
- Ngân hàng hoạt động phải đảm bảo uy tín cao, phong cách giao dịch
của đội ngũ nhân viên văn minh, lịch sử, tận tình với khách hàng đồng thời

phải có nhiều hình thức huy động vốn phù hợp với yêu cầu ngày càng đa
dạng, phong phú của khách hàng.
b) Sản phẩm, dịch vụ cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất và là nguồn tạo ra thu nhập chủ
yếu của ngân hàng. Dịch vụ tín dụng thực hiện tốt, ngân hàng vững mạnh và
phát triển; ngược lại sẽ đi đến chỗ phá sản.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, dịch vụ tín dụng ngân hàng ngày
càng phát triển phong phú, đa dạng về hình thức, thể loại và phương thức,
nhưng có thể tóm tắt một số hình thức tín dụng cho vay chính sau:


- Căn cứ vào thời hạn cho vay: Cho vay có đảm bảo và cho vay không có
đảm bảo.
- Căn cứ vào loại tiền cho vay tiền: Cho vay bằng bản tệ và cho vay
ngoại tệ.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng: Cho vay xây lắp, cho vay thương mại.du
lịch, cho vay tiêu dùng, cho vay mua chứng khoán.....
Căn cứ vào hình thức cho vay: Cho vay hạn mức, cho vay hợp vốn, cho
vay trả góp....
c) Tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
Tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền có các hình thức chủ
yếu là: Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá, bao thanh toán....
* Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá
Sản xuất hàng hoá phát triển nhanh chóng, giao lưu hàng hoá ngày càng
được mở rộng phát sinh nhu cầu mua bán chịu hàng hoá, người bán để bán
được hàng đồng ý cho người mua trả chậm và ký nhận số nợ vào giấy biên
nhận nợ do người bán lập ra. Những giấy tờ đó được coi là thương phiếu (kỳ
phiếu thương mại). Người bán khi cần vốn, họ đem những thương phiếu đó
đến ngân hàng chiết khấu lấy vốn để hoạt động. Thương phiếu từ một công cụ
nợ trở thành một công cụ lưu thông tín dụng.

Chiết khấu thương phiếu là dịch vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách
hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn cho ngân hàng
để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lợi tức và hoa
hồng chiết khấu. Chiết khấu thương phiếu là một dịch vụ tín dụng cổ điển
nhưng đến nay vẫn được coi là một trong những kỹ thuật cấp tín dụng chủ yếu
của NHTM. Là một hình thức cấp tín dụng gián tiếp, phát sinh quá trình sản
xuất và kinh doanh của doanh nghiệp nên nó là dịch vụ tín dụng ít gặp rủi ro
và không làm "đóng băng" tín dụng của ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện
cho NHTM xin tái cấp vốn ở NHTW để củng cố năng lực thanh toán và mở
rộng quy mô tín dụng trong thời điểm cần thiết.


* Bao thanh toán (Factoring)
Bao thanh toán là một hợp đồng mà trong đó tổ chức tín dụng chuyên
nghiệp gọi là "Factor" mua đứt cái trái quyền của người cung cấp (người bán)
đối với khách hàng của họ (người mua). Bao thanh toán vừa là phương thức
thu nợ, vừa là một kỹ thuật phòng tránh rủi ro và cũng có thể là một phương
tiện để tài trợ cho những trái quyền. bao thanh toán đặc biệt phù hợp với các
doanh nghiệp thương mại và công nghiệp có mạng lưới khách hàng rộng
khắp, sản xuất và kinh doanh các hàng hoá thông dụng, nó cũng thích hợp với
các doanh nghiệp làm dịch vụ không thể sử dụng hình thức chiết khấu.
d) Cho vay dựa trên việc cam kết bằng chữ ký của ngân hàng (dịch vụ
bảo lãnh của ngân hàng).
* Tín dụng chấp hành (Bank acceptance)
Tín dụng chấp nhận là việc khách hàng phát hành một kỳ phiếu mà trong
đó ngân hàng đóng vai trò là người thu lệnh. Trong quan hệ này, ngân hàng
không phải là người thiếu nợ mà ngân hàng cho mượn uy tín của mình để
khách hàng được vay vốn. Tín dụng chấp nhận là một sự đảm bảo liên đới với
khách hàng để đảm bảo việc trả tiền khi hối phiếu đáo hạn. Tín dụng chấp
nhận không hoàn toàn là dịch vụ đi vay vì khi ký chấp nhận, ngân hàng không

xuất tiền ra ngay như khi cho vay, chi khi nào con nợ không trả được nợ, ngân
hàng mới trả thay.
* Tín dụng bảo lãnh (underwiting)
Bảo lãnh là một dịch vụ sử dụng uy tín và sức mạnh tài chính của ngân
hàng cam kết cùng với khách hàng mà ngân hàng bảo lãnh để thực hiện một
nghĩa vụ nào đó được quy định từ trước. Bảo lãnh thường được áp dụng để
bảo đảm cho một hoạt động nào đó của doanh nghiệp trong trường hợp doanh
nghiệp đó chưa được đối tác tin tưởng nên nhờ ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên
nếu khách hàng được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ cam kết thì
ngân hàng phải trả nợ thay và như vậy bão lãnh là một hành vi có thể gặp
nhiều rủi ro, cần phải hoàn thiện về mặt pháp lý và về mặt kỹ thuật nghiệp vụ.


Trước khi bảo lãnh, ngân hàng cần nghiên cứu thận trọng uy tín và năng lực
tài chính của khách hàng.
* Đảm bảo ngân hàng (Bank guarantee)
Đảm bảo ngân hàng là trách nhiệm không huỷ ngang của một ngân hàng
trong trường hợp người thứ ba không thực hiện đầy đủ một dịch vụ nào đó.
Khác với bảo lãnh, bảo đảm không được quy định trong Bộ luật dân sự và bảo
đảm không phải là hoạt động bổ sung giao dịch chính. Bảo đảm ngân hàng
mang tính độc lập và tách biệt trong quan hệ vay nợ hoặc hợp đồng mua bán
giữa người cho vay và người đứng vay. Mục đích và chức năng cơ bản của
bảo đảm ngân hàng là hình thức phù hợp nhằm ngăn chặn những rủi ro có thể
phát sinh trong các dịch vụ mua bán không thương xuyên, đồng thời bù đắp
những thiệt hai về mặt tài chính cho người thụ hưởng một cách nhanh chóng
và chắc chắn.
* Tín dụng chứng từ (documentary credits)
Tín dụng chứng từ là một phương thức thanh toán quốc tế gồm hai nội
dung liên hoàn: Tín dụng qua cam kết bằng chữ ký của ngân hàng mở thư tín
dụng và phương thức thanh toán theo thư tín dụng. Phương thức tín dụng

chứng từ được thực hiện theo bản "Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ" do Phòng thương mại quốc tế ban hành (bản mới nhất có ký hiệu
ICC - UCP 500 1993). Tín dụng chứng từ là một hình thức tín dụng buộc
ngân hàng phải can thiệp bằng cách hỗ trợ cho một giao dịch không có lòng
tin cần thiết nào giữa người cung cấp và người mua hàng. Vì lợi ích của khách
hàng và nhân danh ngân hàng, chủ ngân hàng sẽ cam kết thanh toán giá cả
cho người bán trong trường hợp các chứng từ trong thư tín dụng sẽ được xuất
trình đổi lấy sự thanh toán đó.
e) Tín dụng thuê mua
Có hai loại cho thuê: Cho thuê tài chính và cho thuê hoạt động.
Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ vốn bằng cách ngân hàng giao
động sản, bất động sản, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dây chuyền sản


xuất, khách sạn, kho tàng...cho khách hàng (người thuê) sử dụng. Nói cách
khác cho thuê tài chính là hình thức tín dụng trung, dài hạn thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị bất động sản và động sản.
Để tiến hành dịch vụ cho thuê tài chính, ngân hàng mua các tài sản mà
khách hàng cần thiết và đề nghị, sau đó họ cho thuê. Người thuê có trách
nhiệm trả dần giá trị tài sản theo hợp đồng đã ký với ngân hàng, sau đó được
quyền mua lại tài sản hoặc được quyền thuê tiếp. Trong thời gian chưa trả hết
nợ, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Khi thực hiện dịch vụ cho
thuê tài chính, ngân hàng chỉ mua tài sản và giao ngay cho khách hàng thuê
nên không bị đọng vốn, việc giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa bên
bán hàng và người đi thuê, ngân hàng không phải chịu trách nhiệm trực tiếp
về tình trạng hoạt động tài sản. Cho thuê tài chính là phương thức tín dụng
đem lại hiệu quả cho cả ba bên: người đi thuê được sử dụng tài sản ngay mà
chỉ phải trả tiền dần với giá hạ; người bán hàng tiêu thụ được sản phẩm; ngân
hàng không bị đọng và có thu nhập.
Ngoài ra hiện nay còn có các hình thức cho vay khác như: Cho vay kinh

doanh bất động sản (Real estate loans): Cho vay cầm cố (mortage loans)...
* Điều kiện thực hiện sản phẩm, dịch vụ tín dụng
- NHTM phải có đủ vốn để thực hiện các sản phẩm dịch vụ tín dụng.
- NHTM phải có mạng lưới giao dịch rộng rãi, thuận tiện, có đội ngũ
nhân viên giỏi nghiệp vụ với phong cách giao dịch lịch sử, tận tình để có thể
phục vụ tốt nhu cầu khách hàng và đảm bảo an toàn, hiệu quả cho ngân hàng.
- NHTM phải có nhiều hình thức tín dụng đáp ứng một cách tốt nhất yêu
cầu ngày một đa dạng của khách hàng.
- Nền kinh tế phát triển, nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp, cá nhân trong xã hội tăng.
- Hệ thống pháp luật phải đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực pháp chế cao. Khách
hàng tự giác, tôn trọng pháp luật, ý thức được trách nhiệm hoàn trả khi vay
vốn ngân hàng.


* Xu thế phát triển
Dịch vụ tín dụng là dịch vụ sinh lời quan trọng, chủ yếu của ngân hàng
thương mại, không có dịch vụ tín dụng thì cũng không còn NHTM nên dịch
vụ tín dụng luôn tồn tại và phát triển cùng với NHTM. Kinh tế ngày một phát
triển, nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh ngày càng nhiều và vì thế vai trò
của tín dụng ngân hàng ngày càng quan trọng và trở nên cần thiết hơn. Nhưng
tín dụng là lĩnh vực kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi ro nên bên cạnh việc phát
triển dịch vụ tín dụng, các NHTM đều thực hiện đa dạng hoá sản phẩm dịch
vụ, đa dạng hoá các khoản mục tài sản có để phân tán rủi ro và nâng cao hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng.
f. Sản phẩm, dịch vụ đầu tư tài chính
Để tận dụng hết số vốn nhàn rỗi, phân tán rủi ro, đảm bảo khả năng
thanh toán, ổn định và nâng cao thu nhập của ngân hàng, tạo sự mềm dẻo
trong việc quản lý danh mục tài sản, giảm nhẹ mức độ tác động của thuế đến
hoạt động ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận, các NHTM tiến hành sản phẩm

dịch vụ đầu tư tài chính. Số lượng các công cụ tài chính trong danh mục đầu
tư của các ngân hàng rất lớn và ngày một phát triển. Hơn nữa mỗi công cụ tài
chính đều có đặc điểm riêng về mức độ rủi ro, độ nhạy cảm đối với lạm phát
và những thay đổi trong những chính sách của chính phủ...
Chúng ta có thể chia các công vụ đầu tư của ngân hàng thành hai nhóm
như sau:
* Các công cụ đầu tư trên thị trường tiền tệ
Các khoản đầu tư có kỳ hạn dưới một năm, mức độ rủi ro thấp và có thể
bán lại dễ dàng trên thị trường, bao gồm: Trái phiếu kho bạc, trái phiếu công
ty; Trái phiếu của chính quyền địa phương và các chứng khoán cầm cố....
Tuỳ theo quy mô và điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng, các doanh
nghiệp quản lý lựa chọn danh mục đầu tư cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất. Nghiệp vụ đầu tư tài chính đã dần trở thành dịch vụ thường xuyên, hàng
ngày thu hút lượng vốn kinh doanh lớn của các ngân hàng. Ở Mỹ, năm 1975


trong tổng số tài sản của NHTM có 875 tỷ USD thì đã giành 56% để kinh
doanh chứng khoán và đầu tư tài chính khác, 30% kinh doanh tín dụng và
14% để ở quỹ tiền mặt và gửi lại NHTW. Điều đó chứng tỏ rằng dịch vụ đầu
tư cũng là dịch vụ sinh lời khá lớn và ngày càng chiếm vị trí quan trọng hoạt
động của NHTM, là xu hướng đa dạng hoá các kênh huy động vốn của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển.
Dịch vụ đầu tư tài chính cũng liên quan mật thiết đến các dịch vụ tín
dụng, huy động vốn và dịch vụ ngân hàng. Trong dịch vụ tín dụng thường
dùng các loại chứng khoán ngắn, trung, dài hạn làm công cụ lưu thông hoặc
làm tài sản thế chấp. Khi mua bán các loại chứng khoán và lúc ngân hàng đầu
tư vốn cho các công ty hoặc huy động vốn cho ngân hàng.
* Điều kiện phát triển các sản phẩm dịch vụ đầu tư tài chính
- Khoa học công nghệ phát triển đặc biệt là công nghệ tin học, đáp ứng
được yêu cầu giao dịch và quản lý của các nhà đầu tư...

- Thị trường tiền tệ, thị trường vốn phát triển....
- Người dân phải có trình độ hiểu biết nhất định về thị trường tài chính.
*Xu thế phát triển
- Dịch vụ đầu tư tài chính là dịch vụ sinh lời quan trọng lại là lĩnh vực
kinh doanh ít rủi ro hơn lĩnh vực tín dụng nên các NHTM ngày càng chú
trọng phát triển, hoàn thiện dịch vụ này.
- Nền kinh tế đòi hỏi dịch vụ đầu tư tài chính ngày càng phát triển với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
g) Sản phẩm, dịch vụ ngân quỹ
Là các dịch vụ như đổi tiền, bảo quản tiền, kiểm đếm tiền, các dịch vụ
kinh doanh vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, kinh doanh ngoại tệ...
h) Các sản phẩm, dịch vụ thanh toán
Dịch vụ thanh toán chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của
NHTM, nó tạo điều kiện cho nhiều dịch vụ ngân hàng khác phát triển, đồng
thời nó là cơ sở để thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh


tế. Chính vì vậy, dịch vụ thanh toán của ngân hàng thương mại luôn được cải
tiến và áp dụng những công nghệ mới nhất.
* Thanh toán chuyển tiền trong nước
Thanh toán chuyển tiền là một dịch vụ mà ngân hàng thực hiện lệnh của
khách hàng thanh toán chuyển tiền từ ngân hàng đó đi một ngân hàng khác
cho một người nhất định hoặc trích một khoản tiền từ tài khoản của khách
hàng theo lệnh của họ để ghi có cho tài khoản của người khác ở cùng hay
khác ngân hàng và ngân hàng thì thu được một khoản phí nhất định. Để thực
hiện yêu cầu thanh toán của khách hàng, ngân hàng sử dụng những phương
thức thanh toán và công cụ thanh toán không dùng tiền mặt sau:
Phương thức thanh toán: Thanh toán trong nội bộ ngân hàng; Thanh
toán giữa các chi nhánh trong nội bội hệ thống ngân hàng; thanh toán liên
ngân hàng và kho bạc trong phạm vi khu vực và quốc gia.

Các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt: Séc(chuyển khoản, bảo
chi); Uỷ nhiệm chi; uỷ nhiệm thu; Thẻ thanh toán...
* Thanh toán chuyển tiền quốc tế.
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và yêu cầu về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc
tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu
trình trong hoạt động lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế được
thực hiện bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ nên các tài khoản tại các
ngân hàng. Khác với thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế thường gắn
với việc chuyển đổi đồng tiền của nước này với đồng tiền của nước khác.
Những phương thức chuyển tiền quốc tế chủ yếu: Thanh toán chuyển
tiền bằng điện; thanh toán nhờ thu; Thanh toán thư tín dụng; Thanh toán ghi
sổ; Thanh toán qua tài khoản treo ở nước ngoài....
Các công cụ thanh toán quốc tế chủ yếu: Hối chiếu; Lệnh phiếu; Séc...
i) Thu hộ tiền thuế, tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại...


Trên cơ sở các uỷ nhiệm thu, hoá đơn, hợp đồng nhờ thu họ của các cơ
quan nhà đất, thuế, điện lực, bưu điện, nước.... ngân hàng sẽ thực hiện ghi nợ
tài khoản của khách hàng và ghi có vào tài khoản của các cơ quan trên.
j) Các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng của các cơ quan trên.
*Thẻ séc
Khách hàng cá nhân có tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản vãng lai ở ngân
hàng đảm bảo có số dư khi thanh toán nếu muốn sử dụng thẻ ngân hàng sẽ
cấp cho khách hàng mọt thẻ séc. Tấm thẻ ghi rõ số tiền tối đa của thẻ, tên của
ngân hàng phát hành thẻ, mã số của chi nhánh phát hành, tên của khách hàng,
tên của khách hàng sử dụng, số thẻ và thời hạn thẻ. Thẻ được sử dụng theo hai
nội dung: Rút tiền mặt tại các ngân hàng và thanh toán cho khách hàng khi
mua hàng hoá dịch vụ.
Do khách hàng không phải ký quỹ nên trong trường hợp số tiền ghi trên

séc lớn hơn số dư trên tài khoản của khách hàng ngân hàng vẫn phải đảm bảo
thanh toán cho người thụ hưởng, phần vượt quá số dư ngân hàng sẽ xử lý và
làm việc với chủ tài khoản sau theo nội dung hợp đồng sử dụng thẻ. Vì vậy,
khi cấp thẻ séc, ngân hàng phải xem xét và chọn chọn đối tượng thật kỹ và có
những ràng buộc thật chặt khi khách hàng vi phạm việc sử dụng thẻ.
Thẻ sức thường kết hợp với thẻ rút tiền tự động (ATM) và thẻ thanh toán
thành thẻ đa năng.
* Thẻ ghi nợ (Debit card)
Thẻ thanh toán hay còn gọi "thẻ nợ" là một loại thẻ do ngân hàng phát
hành dùng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Người sử dụng
thẻ phải có tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản vãng lai và thương xuyên có số
dư tại ngân hàng phát hành thẻ. Khách hàng có thể sử dụng thẻ thanh toán để
thanh toán, chi trả tiền mua hàng hoá dịch vụ ở bất kỳ điểm mua bán nào có
máy đọc thẻ của ngân hàng mà không phải đến trực tiếp ngân hàng. Khi sử
dụng thẻ để chi trả, ngay lập tức tài khoản của người có thẻ được ghi nợ và tài


khoản của người bán hàng hoá, dịch vụ sẽ được ghi có thông qua mạng máy
tính điện tự động.
* Thẻ tín dụng (Crredit card)
Thẻ tín dụng hay gọi là "thẻ có" cũng là một loại thẻ do ngân hàng phát
hành. Khi phát hành thẻ, khách hàng không cần số dư trên tài khoản tiền gửi
mà được cấp một khoản hạn mức theo tài khoản tín dụng của họ. Thẻ tín dụng
dùng để mua hàng hoá, dịch vụ trả tiền sau. Việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ
được thực hiện tại những nơi có máy đọc thẻ và tại điểm bán lẻ có các loại ký
hiệu của thẻ tín dụng mà chúng chấp nhận.
Với tính năng ưu việt của thẻ; gọn nhẹ, an toàn, tiện lợi, khả năng sinh
lời cao.... Việc phát triển thẻ tín dụng luôn là yêu cầu mở rộng dịch vụ và các
ngân hàng.
* Máy rút tiền tự động (ATM)

Máy rút tiền tự động là loại máy phục vụ cho khách hàng rút tiền thông
qua thẻ (Thẻ từ hoặc thẻ thông minh) do ngân hàng phát hành mà không cần
phải đến trực tiếp ngân hàng. Khi có nhu cầu rút tiền, khách hàng đưa thẻ vào
máy và bấm số trên bàn phím, thông qua thông tin dữ liệu trên dải từ tính
hoặc con chíp điện tử máy có thể tra cứu tài khoản của khách hàng và đưa ra
số tiền mặt mà khách hàng cần rút với giới hạn cho phép. Máy còn thông báo
cho người cầm thẻ biết số dư trong tài khoản của khách hàng hoặc thực hiện
một lệnh thanh toán chuyển khoản với điều kiện phải biết chi tiết về ngân
hàng của người được thanh toán. Thẻ ATM cũng có thể sử dụng khi khách
hàng nộp tiền vào tài khoản..
Hiện nay, máy rút tiền tự động thế hệ mới thực sự hoạt động như một
ngân hàng nhỏ với đầy đủ các chức năng như; Rút tiền, gửi tiền, thanh
toán...Do vậy, việc mở rộng lắp đặt các máy ATM ngoài trụ sở của ngân hàng
thực chất là việc mở rộng mạng lưới đại lý hoạt động của ngân hàng. Để phát
triển tốt dịch vụ này, cần có một số điều kiện sau:
* Điều kiện thực hiện


Thứ nhất: Về phía ngân hàng
- Ngân hàng thương mại phải được trang bị máy móc thiết bị, công nghệ
thông tin hiện đại, đồng bộ, tốc độ xử lý cao, đảm bảo thanh toán nhanh
chóng, chính xác, an toàn. Hệ thống máy tính, máy chủ ở trung ương cũng
như chi nhánh phải cho phép giao diện với các hệ thống bên ngoài và thích
hợp hoàn toàn được với các hệ thống ứng dụng nội bộ khác, đồng thời phải có
đường truyền dẫn riêng biệt cho hệ thống thanh toán để tránh tắc nghẽn mạng
truyền tin.
- Ngân hàng phải có đội ngũ nhân viên giỏi nghiệp vụ, có phong cách
giao dịch tận tình, đội ngũ cán bộ năng lực quản lý và điều hành thích ứng với
điều kiện phát triển ở Việt Nam và phù hợp với pháp luật quốc tế.
- Các ngân hàng phát hành thẻ phải thiết lập các hệ thống máy đầu cuối

như máy đọc thẻ, máy gửi, rút tiền tự động ATM tại các điểm bán hàng các
các điểm tập trung dân cư. Việc lựa chọn thẻ thanh toán phải đảm bảo tiêu
chuẩn quốc tế với công nghệ hiện đại.
- Các ngân hàng phải thành lập trung tâm thanh toán bù trừ tự động
thông qua hệ thống máy tính điện tử và hệ thống chuyển tiền điện tử. Trung
tâm thanh toán bù trừ phải được tự kết nối giữa các NHTM.
Thứ hai: Về phía khách hàng
- Người dân và tổ chức kinh tế phải mở, sử dụng tài khoản tiền gửi, tài
khoản vãng lai ở ngân hàng; có hiểu biết về các nghiệp vụ thanh toán thẻ, sử
dụng thẻ, hiểu biết và tôn trọng pháp luật.
- Thanh toán không dung tiền mặt, thanh toán qua ngân hàng phải trở
thành thói quen thường xuyên của người dân và tổ chức kinh tế.
Thứ ba: Về phía Nhà nước
- Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, đồng thời cần có quy chế
bắt buộc dân chúng và các tổ chức kinh tế thực hiện thanh toán không dùng
tiền mặt.


- Nhà nước cần ban hành lang pháp lý một cách đầy đủ cho việc phát
hành và sử dụng thẻ.
- Hệ thống thương mại dịch vụ bán hàng hoá,dịch vụ thu bằng séc, bằng
thẻ phải được phát triển rộng khắp trở thành mối quan tâm chung của toàn xã
hội, một hiện tượng xã hội hoá.
* Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại (Telephone Banking)
Với một đường dây điện thoại, khách hàng ở tại nhà mình gửi thông tin
đến ngân hàng yêu cầu ngân hàng thực hiện các yêu cầu của mình như: Tra cứ
số dư các tài khoản của khách hàng, sao kê chi tiết các lệnh chi, đặt sổ séc, đặt
lệnh chuyển tiền, yêu cầu ngân hàng cung cấp các thông tin về tỷ giá ngoại tệ,
biểu phí dịch vụ, thông tin các khoản vay của khách hàng, các khoản vay sắp
đến hạn trả... Khi sử dụng dịch vụ này, khách hàng phải sử dụng mã số cá

nhân do ngân hàng cấp, ngân hàng cài đặt thiết bị nhận dạng tiếng nói,thiết bị
mã hoá và ghi lại các yêu cầu của khách hàng để đảm bảo tính chính xác
trong giao dịch.
Dịch vụ này dễ sử dụng, giao dịch thuận tiện, giá thành thấp nên phù hợp
với mọi tầng lớp trong xã hội. Chính vì vậy, cần phải nhanh chóng triển khai
và phát triển một cách rộng rãi dịch vụ này, Mặt khác, để thực hiện hoàn
chỉnh dịch vụ này, về phía ngân hàng cũng như khách hàng đều cần phải
nghiêm túc thực hiện các quy định về sử dụng dịch vụ này, ngân hàng cần
phải có hệ thống thông tin và quản lý dữ liệu hiện đại, rộng khắp, hệ thống
kiểm tra và bảo mật thật chặt chẽ, liên hoàn nhằm bảo vệ an toàn tài sản cho
khách hàng và ngân hàng.
* Dịch vụ ngân hàng sử dụng máy tính cá nhân (PC- Based banking)
Với một máy tính cá nhân, khách hàng có thể giao dịch với ngân hàng
thông qua mạng vi tính nối trực tiếp với ngân hàng.Để đề phòng việc sử dụng
không được phép, mỗi chủ tài khoản đều phải có tên, mật khẩu vào chương
trình, mã số an toàn khi vào hệ thống. Các yêu cầu của khách hàng sẽ hoàn
toàn được xử lý tự động trên dữ liệu máy chủ của ngân hàng. Dịch vụ này bao


gồm: Cặp nhật số dư: Ghi chi tiết về các lệnh uỷ nhiệm chi; cho phép chuyển
tiền giữa các tài khoản khác nhau của Ngân hàng; Cho phép thanh toán với
các chủ tài khoản khác.
Hạn chế của dịch vụ này là người sử dụng dịch vụ cần phải trang bị máy
tính cá nhân để giao dịch với ngân hàng và phải có một số kiến thức nhất định
về công nghệ tin học, Do vậy, dịch vụ này phù hợp với tầng lớp có hiểu biết
về nhất định về công nghệ tin học và có thu nhập tương đối ổn định,
* Dịch vụ ngân hàng thông qua mạng Internet (Internet banking)
Khách hàng chỉ cần dùng một máy tính cá nhân, một modem, một đường
dây điện thoại và đăng ký của mình trên máy tính điện tử của ngân hàng là có
thể tuỳ ý sử dụng các nhu cầu của mình mà không bị hạn chế bởi không gian

và thời gian.
* Điều kiện môi trường
- Môi trường kinh tế và phát luật.
Dịch vụ ngân hàng tại nhà chỉ có thể tiến hành khi tính pháp luật của nó
được thừa nhận đồng thời kinh tế xã hội phải phát triển đến một trình độ nhất
định mới tạo ra nhu cầu và khả năng sử dụng dịch vụ này.
- Nguồn nhân lực
Ngân hàng phải có đội ngũ cán bộ nhân viên đủ khả năng quản lý, vận
hành hệ thống theo tiêu chuẩn quốc tế, có đội ngũ chuyên gia tin học giỏi
thường xuyên bắt kịp các thông tin mới, có thể thiết kế các phần mềm ứng
dụng để phục vụ cho việc sử dụng mạng ngày càng hoàn thiện, chính xác và
an toàn hơn.
- Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin
Dịch vụ ngân hàng tại nhà là hệ quả phát triển tất yếu của sự phát triển
kỹ thuật số hoá và công nghệ thông tin mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện
tử, vì thế dịch vụ này chỉ có vai trò và hiệu quả đích thực khi đã có một hạ
tầng cơ sở thông tin vững chắc. Hạ tầng cơ sở ấy bao gồm các chuẩn của
doanh nghiệp, của cả nước và sự liên kết các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế.


Kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng không chỉ riêng từng doanh nghiệp
mà phải là hệ thống quốc gia, hệ thống ấy phải đến được từng cá nhân áp
dụng dịch vụ.
- Xu thế phát triển
Hiện nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành các quy chế về giao dịch điện
tử và chữ ký điện tử là môi trường pháp lý tạo điều kiện cho các giao dịch
điện tử được thực hiện. Mặt khác, hệ thống tài chính, ngân hàng đang tiếp tục
được cải cách mạnh mẽ với mục tiêu hội nhập tài chính khu vực nên việc phát
triển và thực hiện dịch vụ ngân hàng tại nhà trong thời gian tới sẽ được triển
khai và sử dụng rộng rãi.

k). Dịch vụ quản lý và tín thác
Thực hiện dịch vụ này, ngân hàng sẽ làm theo sự uỷ nhiện của khách
hàng như uỷ thác đầu tư, làm người thừa hành trong một số trường hợp cho
khách hàng quản ký tài sản và thanh toán cho người thừa hưởng vào lúc thích
hợp.
l).Dịch vụ tư vấn
Với dịch vụ này, ngân hàng sẽ đáp ứng về nhu cầu tư vấn về tài chính và
quản lý của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân, tổ chức yêu cầu. Các
chuyên gia ngân hàng sẽ hướng dẫn các vấn đề về hoạch định tài chính và
kiểm soát như: Xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tính chi phí, định
giá, đánh giá đầu tư xây dựng cơ bản, dự báo nguồn thu nhập và quản lý tài
sản..
Để phát triển dịch vụ này ngân hàng cần phải có đội ngũ chuyên gia tư
vấn về kinh tế tài chính giỏi, biết phân tích hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, biết định hướng và đề ra chiến lược kinh doanh trong những tình
huống khác nhau, nắm bắt nhanh và vững chắc các thông tin về thị trường...
m). Dịch vụ bảo hiểm
Các dịch vụ bảo hiểm mà ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng là:
Bảo hiểm phi nhân thọ; Bảo hiểm tín dụng để bảo hiểm cho các khoản nợ khó


đó; Bảo hiểm Nhân thọ.... Ngoài ra một số nước có xu hướng hợp nhất các
hoạt động ngân hàng và hoạt động bảo hiểm "Bancassurance".
n). Dịch vụ môi giới, đại lý phát hành, bảo quản và quản lý chứng khoán
Trên thị trường tài chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu trở
thành một "Bách hoá tài chính thực sự" cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép hàng hoá thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trương
những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng
khoán,cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng
khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.

o) Dịch vụ tương hỗ và trợ cấp
Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất
quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng các sản phẩm đầu tư
(Investment products) đặc biệt là quỹ tương hỗ và csac hợp đồng trợ cấp,
những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi
nhưng cũng kèm theo rủi ro cao hơn.Hợp đồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch
tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách
hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai (Chẳng hạn ngày nghỉ
hưu). Quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách
chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán
phù hợp với mục tiêu của quỹ (Tối đa hoá thu nhập hay đạt được sự gia tăng
giá trị vốn.
p) Dịch vụ cung cấp các kế hoạch hưu trí
Phòng uỷ thác các ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch
hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và
phát lương hưu cho những người nghỉ hưu hoặc tài phế. Ngân hàng cũng bán
các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến
khi người sở hữu các nguồn tiền này cần đến.
q) Dịch vụ bảo quản và ký gửi


×